TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Nhẫn Nhục là Lực Lượng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Tinh Vân Hoà Thượng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Năm 1954, tôi được 27 tuổi, lúc mới soạn viết 
                    Truyện Ký Phật Đà, đọc đến đoạn: “Người có thể nhẫn nhục 
                    đáng gọi là bậc đại nhân hữu lực. Nếu người không thể vui 
                    chịu hủy báng, chê bai, mắng chửi như uống nước cam lồ thì 
                    không thể gọi là người trí tuệ vào đạo”, trong lòng tôi cảm 
                    xúc sâu xa.  
                  
                  
                    
                    
                                Tôi nhìn lại những năm tháng lưu ly điên đảo, tự 
                    xét nếu không nương vào nhẫn nhục làm thuyền bè, làm sao có 
                    thể vượt qua thời gian liên miên khổ nạn? Tôi lại mở to mắt 
                    nhìn xã hội nhiều biến động phức tạp ở vị lai, sự sinh hoạt 
                    nhân ngã, đúng sai, tự biết mình cần nhẫn nhục cả trăm thứ 
                    này mới đủ để ứng phó muôn nạn. 
                  
                  
                    
                    
                                Từ đây, tôi giờ giờ phút phút dùng nhẫn nhục làm 
                    tiêu chuẩn đẹp để xử sự với người. Hôm nay, đã sau nhiều 
                    năm, nhìn lại việc cũ, tôi thầm thầm cảm nhận: Nhẫn nhục 
                    thật là lực lượng mạnh mẽ nhất của thế giới. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục không phải là khiếp đảm 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi xuất thân từ Tô Bắc nghèo nàn, năm 12 tuổi 
                    xuất gia. Cảnh bần hàn thích hợp cho mình gắng chí. Tánh 
                    khắc khổ chịu nhọc của tôi đều được hun đúc từ lúc này.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Năm 30 tuổi tôi dời về Đài Loan. Trong lúc loạn 
                    lạc, vô ý đánh mất hành lý, không còn gì trong thân, chùa 
                    chiền lúc ấy lại không nhận người ngoài tỉnh đến. Tôi chỉ 
                    đành phiêu bạt khắp nơi, nuốt gió nằm sương qua ngày. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhớ lại đã từng đi trong mưa gió bão bùng, té 
                    xuống rãnh nước bị cuốn trôi cả đỗi, cũng đã từng đi dưới 
                    trời nắng cháy, mồ hôi ướt đẫm lưng, da đầu nổi nhọt. Cuối 
                    cùng lận đận từ Đài Nam đến Đài Trung, nhờ ơn tiên sinh Lâm 
                    Cẩm Đông ở chùa Bảo Giác đã cho tôi tá túc ít ngày. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Về sau tôi lại dần dà đến chùa Lôi Âm ở Nghi Lan 
                    hoằng pháp hơn mười năm. Thời gian đó kinh tế của tôi rất 
                    quẫn bách. Nhiều người muốn nhận làm mẹ con, anh em, quyến 
                    thuộc với tôi, thậm chí có người còn mong tôi kế thừa gia 
                    nghiệp, tài sản nhưng tôi hoàn toàn nghiêm trang cự tuyệt. 
                    Trong khi đó, tôi lại được tin có những đồng đạo, vì sinh 
                    hoạt khó khăn đã ùn ùn tìm cách kiếm đường thoát ra. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu như tôi lúc đó không thể nhịn đói, chịu 
                    nghèo, há không phải cũng bị lưu chuyển theo đời hay sao? 
                    Lại làm sao có thể gánh vác việc phát triển hoằng pháp lợi 
                    sanh ngày sau? Do đó, nhẫn nhục không phải là khiếp đảm, mà 
                    là lúc đối diện với sự sống còn, vinh nhục, khen chê lại có 
                    thể đủ sức phát dũng khí vô bờ giữ vững lý tưởng của mình.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi còn nhớ mười năm tham học ở tùng lâm, để 
                    phục vụ đại chúng, ngoài giờ lao động bình thường, tôi tự 
                    nguyện làm điển toạ nấu cơm sáu năm, gánh nước nấu trà một 
                    năm rưỡi. Lúc mới đến Đài Loan, để đáp ơn tự viện đã cho ở, 
                    ngoài lúc lên lớp ra, tôi phát tâm làm mọi việc khổ dịch, 
                    mỗi ngày xách sáu trăm thùng nước giếng, quét sạch lá rụng 
                    mấy giờ liền, cả ở ngòi nước, cầu tiêu. Mỗi ngày lại kéo xe 
                    hơn mười dặm đến chợ, mua dầu, mua củi, gạo cho hơn tám mươi 
                    chúng. Tuy tôi không rành ngôn ngữ ở đó, nhưng nhờ công tác 
                    siêng năng mau lẹ, nên được cảm tình của đại chúng. Nhưng có 
                    ai biết đâu, tôi thường vì sức khỏe kém mà bị nôn oẹ hoài, 
                    luôn luôn sau cơn trời xoay đất chuyển, tôi lại lặng lẽ 
                    nghiến chặt răng, tiếp tục việc làm dang dở. 
                  
                  
                    
                    
                                Về sau, khi dùng văn tự Bát-nhã ra hoằng dương 
                    Phật pháp, tôi bắt đầu rút hết ruột gan, viết lách suốt đêm. 
                    Năm 1953, tôi hoà nhập vào xã hội, thuyết pháp độ sanh. Để 
                    chuẩn bị lời lẽ, tôi đã phí bao tâm sức hết năm này qua năm 
                    khác, có lúc suốt đêm chẳng ngủ. Lúc mới xây dựng Phật Quang 
                    Sơn, tôi lại phải chiến đấu ngày đêm với sơn băng, hồng 
                    thuỷ. 
                  
                  
                    
                    
                                Gần mười năm trời, tôi như ngựa không dừng vó, 
                    giảng kinh độ chúng khắp trong và ngoài nước, cất chùa, an 
                    Tăng, hằng năm thi đua từng giây từng phút với thời gian có 
                    hạn. Mấy mươi năm qua, không lúc nào không trong nhẫn nhục 
                    bận rộn, nhẫn nhục bôn ba, nhẫn nhục lao nhọc, nhẫn nhục mỏi 
                    mệt mà vượt qua. Nhưng tôi không cho là cay đắng, bởi vì 
                    nhẫn nhục là muốn tích cực khai mở nhân sinh, sáng tạo tiến 
                    trình to lớn và xa xôi của Phật giáo. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục là gánh vác 
                  
                  
                    
                    
                                "Anh hùng chỉ sợ bịnh đến mài!" 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi đem thân mình làm chứng, nhưng cũng có mấy 
                    phen kinh nghiệm đau ốm khiến tôi khổ không thể tả. Lúc tham 
                    học tùng lâm mười năm trời, tôi từng bị nổi nhọt, sốt rét. 
                    Tuy khổ sở khó chịu chết đi được, tôi vẫn chưa hề tìm thầy 
                    trị bịnh, vì chính đã đem "sắc thân quay về thường trụ, tánh 
                    mạng giao phó long thiên", chỉ biết dùng niềm tin và thời 
                    gian trị liệu. Chẳng biết là nhờ chư Phật Bồ Tát gia bị hay 
                    do sức nhẫn nhục đem đến, mà tôi đều lành bịnh không cần 
                    thuốc men. 
                  
                  
                    
                    
                                Ngoài ra, cảm mạo, đau răng, đau mắt, đau đầu 
                    đều coi như không. Do đó, suốt năm gặp cảm mạo tái phát nặng 
                    nề, đau bịnh nghiêm trọng, tôi cũng quen nhẫn chịu tiếp tục 
                    hoằng pháp, viết lách, thường thường đến khi công tác hoàn 
                    thành thì tôi cũng phát giác ra mình đã lành bịnh tự bao 
                    giờ. 
                  
                  
                    
                    
                                Mấy năm gần đây, tinh lực của tôi không còn như 
                    trước. Bịnh tiểu đường, huyết áp cao, đau mắt, đau đùi theo 
                    nhau đến, tứ chi, ngũ căn cũng ngày càng suy yếu, thoái hoá, 
                    cũng may mà đầu óc vẫn trong sáng như thường, nên vẫn vân du 
                    mọi nơi, hoằng pháp lợi sanh không dứt. Kinh nghiệm của 
                    nhiều năm qua khiến tôi thầm cảm nhận bịnh khổ của xác thân 
                    chưa phải là thật khổ. Chỉ cần chúng ta chịu nhẫn nhục thì 
                    tự nhiên có đủ sức gánh vác tất cả bịnh khổ. Nếu ngay lúc 
                    bịnh không biết mình bịnh, lúc khổ không thấy mình khổ, thì 
                    tự biết lực lượng nhẫn nhục có thể ứng phó được tất cả.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục thành tựu đại khí 
                  
                  
                    
                    
                                Thời trước, sự giáo dục tùng lâm ở Đại lục rất 
                    có truyền thống. Lúc lắng nghe bậc trưởng lão khai thị, phải 
                    chắp tay, nếu được chỉ dạy đến mấy tiếng đồng hồ, thì lúc 
                    buông tay ra, cánh tay đã cứng đờ không nhúc nhích nổi. Thời 
                    kỳ huấn luyện nghiêm khắc nhất phải kể là lúc thọ giới, 
                    chúng tôi phải quỳ trên lớp đá lởm chởm năm sáu tiếng đồng 
                    hồ. Lúc đứng lên, đá đã găm sâu vào thịt, hai chân đau buốt. 
                    Thầy kiểm soát tay cầm cành dương, như bóng theo hình sát 
                    sau lưng chúng tôi, có động tác nào không đúng tiêu chuẩn là 
                    ăn đòn liền, thử hỏi người học ngày nay có thể chịu nổi lối 
                    giáo dục nghiêm khắc như thế không? Lúc bình thường cũng bị 
                    đánh chửi, gậy hét hoài nhưng chưa hề nghe ai oán trách kêu 
                    than. 
                  
                  
                    
                    
                                Còn nhớ, có lần tôi thưa với vị gia sư rằng có 
                    vị giáo sư ở học viện thúc giục tôi đi học trường Giáo Dục 
                    Quốc Lập. Gia sư nghe xong mắng: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đồ hỗn xược! Sao lại đi học ngoài đời? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Và tát cho tôi hai bạt tai tóe lửa. Sau đó, khi 
                    nghĩ đến việc học trường ngoài, hiện nay có rất nhiều thanh 
                    niên cống cao ngã mạn, hiếu động phản kháng, thật khiến cho 
                    tôi nặng lòng. Bọn họ làm sao ở thời đại lớn có thể đối mặt 
                    với mọi khiêu chiến được? Muốn thành bậc đại khí, trong sự 
                    sinh hoạt trước tiên cần phải học nhẫn nhục: "Muốn thành bậc 
                    long tượng trong cửa Phật, trước hãy làm trâu ngựa cho chúng 
                    sanh". Đối với nghịch cảnh, trước nhịn ở miệng, đó là hạ 
                    nhẫn; rồi nhịn ở mặt, đó là trung nhẫn, nếu như có thể gặp 
                    việc gì cũng không động tâm, đó mới là thượng nhẫn. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục không phải  là rụt rè 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Lúc mới vào Phật Học Viện, tôi đã không rành chữ 
                    Phạn, lại không thông hiểu kinh văn, do đó thường chịu sự kỳ 
                    thị của bạn đồng học. Thậm chí thầy dạy cũng nghĩ là tôi 
                    không thể học nổi. Thường thường lúc xếp bảng làm Phật sự 
                    thấy có tên, mà đến lúc làm bị bôi mất. Làm văn bị thầy giáo 
                    phê bình chẳng chỗ nào đúng, nếu may có làm được bài hay thì 
                    lại bị nghi ngờ là sao chép của ai. Một vị chức sự thậm chí 
                    nói ngay với mọi người nếu tôi làm được thì mặt trời mọc ở 
                    phương Tây. 
                  
                  
                    
                    
                                Những oan uổng uỷ khúc khác không thể đếm xuể, 
                    nhưng tôi luôn biết rằng tất cả việc này đều là lẽ đương 
                    nhiên, không cần suy tính gì nữa. Những việc này xảy ra đã 
                    lâu, hiện giờ đâu có ai biết! 
                  
                  
                    
                    
                                Lúc vừa đến Đài Loan hoằng pháp, do vì Phật giáo 
                    chưa phổ biến, lại thêm tôi là dân ngoài tỉnh, nên thường có 
                    người không ưa, cứ chỉ chỉ, điểm điểm, thậm chí còn ngăn trở 
                    một vài cơ hội tốt. Cũng có người cố ý quấy nhiễu sự thuyết 
                    pháp, họ kéo đông người đến cầm gậy, trừng trợn làm dữ. Đối 
                    với sự đối xử khác biệt này, đối với sự quấy nhiễu hiểu lầm 
                    này, tôi xưa nay chưa hề oán hận, chỉ một lòng một dạ làm 
                    tròn bổn phận người xuất gia. Dùng hành động để chứng minh 
                    lòng thành thật của mình, lấy tĩnh lặng để đáp lại loạn 
                    động. Do đó nhẫn nhục không phải là co rút rụt rè, mà là 
                    dùng tâm bình thường để đối đãi với cảnh bất bình của nhân 
                    gian. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục không phải là bất lực 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thể xác bị đói lạnh, gân cốt bị lao khổ, có thể 
                    dùng ý chí khắc phục. Những uỷ khúc trong lòng, bị người 
                    khác hiểu lầm có thể dùng tâm bình thường đối trị. Thông 
                    thường điều khó nhẫn nhất là danh dự vô cớ bị thương tổn, bị 
                    người cố ý mạt sát. Nhưng trong mấy chục năm qua, những việc 
                    này, tôi hoàn toàn đã gặp đủ. Lúc còn ở Đại lục, bên kia bảo 
                    tôi là đặc vụ của bên này, muốn giết tôi. Sang đến Đài Loan, 
                    bên này lại bảo tôi gián điệp của bên kia, muốn xử bắn tôi.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thời kỳ mới hoằng pháp, do tôi sáng lập khá 
                    nhiều hoạt động Phật giáo mới mà bị xã hội hiểu lầm, đồng 
                    môn phê bình, lúc thì bị những tội danh đáng bị chặt đầu, 
                    đưa vào chỗ chết. Nhưng tôi chẳng vội vã tranh cãi, chỉ đem 
                    hết khả năng làm việc đáng làm. 
                  
                  
                    
                    
                                Lúc trẻ, tôi nhân vì Phật giáo mà nói năng mạnh 
                    mẽ, nhiều lần bị các nhân sĩ phê bình là phần tử dị đoan. Về 
                    sau, do vì quan viên trong các giới quân, công, thương tìm 
                    tôi thưa hỏi về Phật pháp, tôi lại bị nhóm "Tân Văn Môi Thể" 
                    gán là thả câu với chính trị. Toàn là những lời đả kích rất 
                    tổn thương, nhưng tôi chẳng để ý, chỉ đạm bạc đối xử, lặng 
                    thinh mà đáp. Quả nhiên, sự thật phát triển chứng minh lý 
                    niệm chính xác của tôi… Thời gian đổi thay cũng lại cho tôi 
                    rõ ràng công đạo. 
                  
                  
                    
                    
                                Do đó nhẫn nhục không phải là nhu nhược, bất 
                    lực, mà là đối diện với huỷ báng chê bai, lại có thể chọn 
                    điều thiện để giữ vững, không oán không hối. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục vì lợi người 
                  
                  
                    
                    
                                Có người thấy tôi thường vân du hoằng pháp, đi 
                    hành khước ở những kinh đô nổi tiếng, những thành phố lớn, 
                    vui thích muôn phần. Kỳ thực sự cay đắng cá nhân ít ai biết 
                    đến. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi thường chỉ vì một buổi diễn thuyết, phải 
                    chạy trên đường cao tốc suốt một đêm. Vì một câu nhận lời, 
                    phải bay trên trời hơn mười giờ. Gần mười năm nay, lời mời 
                    hoằng pháp không ngớt. Thường thường do hành trình gấp gáp, 
                    mồ hôi ướt đẫm y áo mà thay chẳng kịp, đành phải mặc y phục 
                    ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt. Độ ấm của bản thân cũng 
                    theo hơi lạnh, luồng nóng ở trong nhà, ngoài nhà mà chợt 
                    lạnh, chợt nóng. 
                  
                  
                    
                    
                                Chạy một lượt ở hải ngoại, đến thăm năm, sáu 
                    nước là việc thường. Có lúc từ nhiệt đới đến hàn đới, có lúc 
                    chạy một vòng địa cầu. Thuyền xe vất vả cố nhiên là cực khổ; 
                    phải thích ứng với thời gian sai biệt, khí hậu, phong thổ, 
                    nhân tình bất đồng lại còn khó khăn hơn. Khi tôi đến thăm 
                    Tân Đề Ly – Ấn Độ lần đầu tiên, khí trời quá nóng nực, tối 
                    đến ngủ không được, tôi đành nằm bò trên đất viết nhật ký. 
                    Quyển "Hải Thuyên Du Tung" được hoàn thành theo lối này.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ba năm, vào tháng bảy, tôi lại đến thăm Ấn Độ 
                    lần thứ bảy. Đến vùng Lạp-đát-khắc ở phía Bắc, tôi biết rõ 
                    mắc bịnh "núi cao" đủ để chí mạng, nhưng tôi cố chịu đau 
                    đầu, sưng mặt và hít thở khó khăn, ráng chủ trì pháp hội, 
                    thăm viếng khách khứa kéo dài cả tuần lễ. Kinh nghiệm này 
                    không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng tôi lại vui không thấy 
                    mệt. Bởi vì nhẫn nhục có lúc không phải chỉ vì chính mình, 
                    mà còn vì lợi ích người khác. Tôi tự xét Bồ Tát phát tâm xả 
                    thân để thành tựu lòng nhân, quên mình để giữ nghĩa. Sự hy 
                    sinh nhỏ nhoi của tôi thực là ít ỏi có gì đáng nói. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục hoá giải oán hận 
                  
                  
                    
                    
                                Chịu nghèo, chịu đói, chịu bịnh, chịu khổ, chịu 
                    nhọc, chịu đánh, chịu chửi lại còn dễ dàng, chỉ việc nhẫn mà 
                    thôi. Còn khó tiêu trừ nhất là nhẫn hận tranh chấp. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhớ lúc tôi tám, chín tuổi, quê tôi thiếu nước, 
                    dân làng chen lấn giành nước không có lối ra. Ông hàng xóm 
                    họ Giải té chết ngay máy nước trước nhà tôi. Con ông ta là 
                    Giải Nhân Bảo đến gây sự, nói bướng là nhà tôi làm cha y 
                    chết, đòi nhà tôi phải lo tiền chôn cất. Người cha đôn hậu 
                    thật thà của tôi liền bị quan phủ bắt giữ. Sau may nhờ Giải 
                    Nhân Bảo không dám ra pháp đình thẩm xét nên cha tôi mới vô 
                    tội, được thả. Tai ách vô vọng tuy đã kết thúc, nhưng tâm 
                    linh bé nhỏ của tôi không cách gì dẹp được nỗi oán hận. Đến 
                    lúc xuất gia rồi, nghe nói Giải Nhân Bảo thất nghiệp, không 
                    có cách sinh sống, tôi lại trắc ẩn, bèn dẹp oán hận, xin ân 
                    sư giới thiệu công việc cho anh ta, giải quyết vấn đề sinh 
                    sống cho cả nhà anh ta. 
                  
                  
                    
                    
                                Năm 1937, chiến tranh xâm lược Trung Quốc của 
                    Nhật bộc phát, Hà Sơn đẹp đẽ bị gót sắt của quân Nhật Bản 
                    chà đạp trở thành tan nát khó kham, vườn nhà êm ấm của tôi 
                    làm mồi cho ngọn lửa. Cha tôi đi buôn bị mất tích giữa 
                    đường. Căn cứ theo sự điều tra có lẽ ông đã bị hy sinh dưới 
                    mũi súng của quân Nhật. 
                  
                  
                    
                    
                                Lúc mười một tuổi, tôi theo người mẹ góa bụa tìm 
                    cha khắp nơi, đi đâu cũng thấy ngói bể, tường sập, thây chết 
                    đầy rừng, càng làm đậm thêm ý thức thù Nhật trong lòng tôi. 
                    Đến khi thành nhân, tôi tuy có cơ hội đến Nhật mấy lần, 
                    nhưng rốt cuộc vì thù nhà hận nước chẳng đội trời chung mà 
                    dứt khoát huỷ bỏ. 
                  
                  
                    
                    
                                Năm 1973, vì chính phủ một lần nữa mời tôi xúc 
                    tiến việc giao lưu văn hoá giữa hai nước Hoa – Nhật, tôi 
                    nhẫn chịu nỗi thống khổ trong lòng bao năm, ra nhận chức Hội 
                    trưởng "Hội xúc tiến quan hệ Phật giáo Hoa – Nhật". Rốt 
                    cuộc, oan gia nên cởi, không nên buộc. Lịch sử quá khứ cố 
                    nhiên không cho xóa hết, nhưng cứ tìm xét mãi chỉ khiến hận 
                    thêm sâu. Tôi chỉ ghi nhớ lời giáo huấn đã chiêm nghiệm 
                    trước để ngăn ngừa chút đỉnh, trên căn bản là xúc tiến việc 
                    cởi mở hai bên, hợp tác hỗ trợ. Đây mới là đường lối lâu 
                    dài, an ổn. 
                  
                  
                    
                    
                                Anh thấy chăng? Bức tường giữa Đông và Tây Đức 
                    dựng đã lâu, nay họ đã giao lưu với nhau. Các nước Âu Châu 
                    cũng nhộn nhịp trừ bỏ thành kiến quá khứ, thiết lập thị 
                    trường chung, cùng nỗ lực gắng sức. Thậm chí giữa hai bên 
                    nhiều năm cừu hận, cũng nhờ một ý nghĩ của các ông lãnh đạo 
                    mà hoá giải được. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục thật là sự rộng lượng bao dung tôn quý 
                    nhất trong trời đất. Nhẫn nhục thật là động lực hoà bình vĩ 
                    đại nhất trong vũ trụ. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục là từ bi 
                  
                  
                    
                    
                                Trong và ngoài nước, tín chúng của tôi có đến 
                    trăm vạn người. Ở Phật Quang Sơn, đệ tử xuất gia của tôi 
                    cũng không dưới ngàn người. Bọn họ đối với tôi cố nhiên cung 
                    kính hiếu thuận. Tôi cũng dâng hiến cho họ biết bao tinh 
                    lực, tâm huyết. Việc lớn chẳng nêu làm gì, chỉ nói việc nhỏ: 
                    Tôi chịu đựng tính cách sai khác của họ, chịu khó khéo léo 
                    dẫn dụ từ từ. Tôi chịu đựng việc làm tùy hứng của họ, chịu 
                    khó ôn tồn dạy dỗ. Tôi chịu đựng ý kiến bất đồng của họ, 
                    chịu khó theo đó điều hoà. Tôi chịu đựng sự không giữ giờ 
                    giấc của họ, chịu khó đợi chờ… 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục là một lực lượng, là một loại từ bi, 
                    là một thứ trí tuệ, lại là một nghệ thuật. Do tôi chịu đựng, 
                    chịu khó mới có thể thu phục họ đến cửa Phật phục vụ đại 
                    chúng. 
                  
                  
                    
                    
                                Con nít lấy kêu khóc làm sức mạnh, nhưng một mai 
                    đã khóc rồi, hơi sức cũng hết. Phụ nữ lấy vẻ đẹp làm sức 
                    mạnh, nhưng một mai vẻ đẹp ra đi, khí thế cũng tiêu mất. 
                    Người lỗ mãng lấy nắm tay làm sức mạnh, nhưng một mai xuôi 
                    tay rồi, chính khí cũng tan nát. Chỉ có người hành Bồ Tát, 
                    họ lấy nhẫn nhục làm sức mạnh, lấy từ bi làm sức mạnh, làm 
                    được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, do đó có thể vỗ 
                    tay nên kêu, bài trừ muôn khó, thành tựu công nghiệp vĩ đại, 
                    phước nước lợi dân, hữu ích chúng sanh. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhẫn nhục: Vô sanh pháp nhẫn tối thượng
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nói tôi một mực chịu nhẫn nhục, nhưng nhớ 
                    lại cũng có lúc không nhịn được. Ví dụ như lúc tôi đang diễn 
                    giảng ở trên đài, trông thấy bên dưới có ghế trống mà người 
                    phía sau lại không có ghế ngồi, tôi lại ngại ngùng bất nhẫn. 
                    Lúc biết người khác bị xâm phạm, tôi cũng phẫn hận đè ngực. 
                    Khi đệ tử làm tàng với khách khiến người không vui, tôi cũng 
                    tới chỉ trích. Thấy nghe việc tốt không tức khắc tham dự, 
                    tôi cũng đứng ngồi chẳng yên. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi cho rằng nén hơi, nuốt tiếng, nhân nhượng, 
                    dung bậy để được không biến đổi, chẳng phải là đạo nhẫn 
                    nhục. Nhẫn nhục chân chính phải là đảm đương việc nhân, 
                    không nhượng bộ, chiếu cố toàn thể đại cuộc, mưu cầu phước 
                    lợi cho mọi người. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi năm nay đã gần bảy mươi tuổi, tự thẹn là 
                    trên nhẫn nhục không ngừng học tập, đột phá trong lúc sinh 
                    hoạt. Đối với ba cảnh giới nhẫn mà Phật dạy, tôi thể hội khá 
                    nhiều. Tôi cho rằng: 
                  
                  
                    
                    
                                - "Sanh nhẫn" là vì sự sống còn cần phải gom sức 
                    chịu đựng với người. 
                  
                  
                    
                    
                                - "Pháp nhẫn" là ở tâm cảnh chuyển tư tưởng, 
                    dùng Phật pháp để sanh trí tuệ. 
                  
                  
                    
                    
                                - "Vô sanh pháp nhẫn" là tùy duyên, tùy chỗ rộng 
                    xét tất cả sự vật vốn ở cảnh giới tự tại không sanh diệt.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu có đủ "sanh nhẫn" thì đầy đủ dũng khí đối 
                    diện cuộc sống. Có đủ "pháp nhẫn" thì đầy đủ lực lượng diệt 
                    trừ phiền não. Có đủ "vô sanh pháp nhẫn" thì nơi nơi, chốn 
                    chốn không đâu không là thế giới Đào nguyên, Tịnh độ, tự do 
                    tự tại.