VỀ BỘ TƯỢNG NĂM VỊ TẠI CÁC NGÔI CHÙA CỔ Ở NAM BỘ
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    TS. Trần Hồng Liên
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khái niệm và thuật ngữ chỉ bộ tượng 5 vị gồm 
                    Phật Thích Ca và 4 bồ tát, cho đến nay quả thật còn chưa 
                    thống nhất. Khi khảo sát các ngôi chùa cổ, có người đã định 
                    tên cho bộ tượng này là bộ Ngũ Hiền[1]. Thật ra cách gọi 
                    trên chưa thật thỏa đáng! Tên gọi Ngũ Hiền phù hợp và thường 
                    được dùng để nói đến các bậc thánh hiền. Và như vậy, một mặt 
                    nào đó đã hạ thấp vị trí và vai trò của Phật và Bồ Tát. Năm 
                    tượng này được gọi là 5 vị vì trong Phật giáo, khái niệm 5 
                    vị bao gồm tất cả Bồ Tát 10 phương[2]. Trong sách Phật, bốn 
                    bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là 4 vị 
                    tiêu biểu cho các hạnh nguyện và đức tính căn bản để trở 
                    thành bậc giác giả (Buddha)  
                  
                  
                    
                    
                                Quán Thế Âm Bồ Tát hay Bồ Tát Quán Tự Tại, còn 
                    gọi Avalokitesvara, là vị Bồ Tát của lòng từ bi cứu độ chúng 
                    sinh. Đại Thế Chí bồ tát, còn gọi là Mahasthamaprata, tiêu 
                    biểu cho hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, tinh thần đại hùng 
                    đại lực. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát được đặt 
                    hai bên tượng A Di Đà Phật trong cấu trúc Bộ tượng “Di Đà 
                    tam tôn”, có hầu hết ở các chùa và là hiện thân của  
                    tha lực cứu độ. 
                  
                  
                    
                    
                                Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát còn gọi là Manjurci, tượng 
                    trưng cho lý trí, trí tuệ, là vị bồ tát hiểu thấu phật tánh, 
                    có đầy đủ ba đức: pháp thân, bát nhã, giải thoát[3], hằng 
                    đem ba đức ấy cứu độ chúng sinh. Phổ Hiền Bồ Tát, còn gọi là 
                    Samantabhadra, là vị Bồ tát có 10 hạnh nguyện lớn, tượng 
                    trưng cho chân lý, hạnh và từ bi. Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền 
                    bồ tát thường được đặt thờ trong hệ thống bộ tượng  Hoa 
                    nghiêm tam thánh, còn gọi là bộ Thích Ca tam tôn, chung 
                    với Thích Ca ở giữa, ngụ ý Phật Thích Ca dùng chân trí để 
                    thâm đạt chân lý, hoặc tượng trưng cho Bi (Phổ Hiền ) và Trí 
                    ( Văn Thù ) viên mãn của Phật Thích Ca, nên hai vị Bồ Tát 
                    này thường có mặt ở bên trái và  phải của tượng đức Phật,  
                    là hiện thân của tự lực . 
                  
                  
                    
                    
                                Tại Nam Bộ, hai hệ thống tượng này, gồm 6 tượng,  
                    được kết hợp lại thành một bộ tượng gồm 5 vị với một  vị ở 
                    giữa, vừa mang ý nghiã là Phật A Di Đà trong cấu trúc “Di Đà 
                    tam tôn”, vừa là Thích Ca Mâu Ni Phật trong hình tượng “Hoa 
                    nghiêm tam thánh”. 
                  
                  
                    
                    
                                Mặt khác, trong dân gian còn lưu truyền ý nghĩa 
                    5 vị này có nguồn gốc từ truyện phong thần, đã giải thích 
                    Phật và Tứ Chúng mang phong cách thượng kỳ thú ( ngồi trên 
                    lưng thú ) đi can gián hai nhóm Thiên Tiên và Địa Tiên đánh 
                    nhau, kêu gọi hai nhóm này hãy trở về nguyên dạng các con 
                    vật đã quy y Phật. Đây có thể là một huyền thoại được nêu 
                    lên nhằm mục đích kêu gọi tất cả các loài hãy bỏ dữ làm lành, 
                    noi gương hạnh, nguyện, bi, trí của Phật và 4 vị Bồ Tát này.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong thực tiễn này ở Nam Bộ, tại các ngôi chùa 
                    cổ dưới triều Nguyễn, bộ tượng 5 vị là một đặc trưng riêng 
                    có tại đây, được thể hiện dưới nhiều phong cách, chất liệu 
                    khác nhau. Tại đa số chùa cổ, tượng được tạc bằng gỗ mít nài, 
                    to nhỏ khác nhau đôi chút, nhưng vẫn là dạng thượng kỳ thú. 
                    Trong địa phận thành phố Hồ Chí Minh, các chùa Giác Lâm (quân 
                    Tân Bình), Giác Viên và Phụng Sơn (quân 11), Long Thạnh (Bà 
                    Hom, huyện Bình Chánh), … là những ngôi chùa cổ đặt thờ bộ 
                    tượng này. 
                  
                  
                    
                    
                                Bộ tượng 5 vị chùa Giác Lâm, được xem là bộ 
                    tượng xưa nhất, được tạc bằng gỗ mít nài, thếp vàng, cao 80 
                    cm. Tượng Thích Ca đặt giữa, ngồi trên tòa sen làm bệ đỡ, 
                    cao hơn các tượng khác. Bố cục bệ hình thang nên dáng ngồi 
                    vững chãi; 4 tượng Bồ Tát đều ngồi một bên lưng con vật. Phổ 
                    Hiền bồ tát ngồi trên mình voi, tay cầm nhánh sen hồng. Đại 
                    Thế Chí bồ tát và Quan Thế Âm bồ tát cưỡi sư tử, tay cầm 
                    cuốn thư. Văn Thù bồ tát, tay cầm cành như ý, cưỡi sư tử. 
                    Các con vật đều nằm trong tư thế phủ phục . 
                  
                  
                    
                    
                                Ở chùa Giác Viên, bộ tượng 5 vị cũng có cùng 
                    phong cách với chùa Giác Lâm. Tại chùa Phụng Sơn, bộ tượng 5 
                    vị bằng gỗ, dạng thượng kỳ thú. Đặc biệt, chùa có tạc tượng 
                    Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi 9 ngà. Tượng Thích Ca cũng có dạbng 
                    ngồi trên mình thú và tất cả các con vật đều đứng. Thích Ca 
                    và Bồ Tát đều đang bắt ấn quyết (mudra). Chùa Long Thạnh, do 
                    bị hư hoại sau chiến tranh, nên bộ tượng 5 vị được tạc lại 
                    bằng xi măng, sơn màu bên ngoài. Phật và Bồ Tát đều bắt ấn 
                    và ngồi trên mình thú. Đặc biệt, hình tượng Quan Thế Âm và 
                    Đại Thế Chí trong bộ tượng này ở tất cả các chùa đều được 
                    tạc dưới dạng cư sĩ, xỏa tóc thành 6 tết xuống tận vai, 
                    tượng trưng cho lục độ[4].  
                  
                  
                    
                    
                                Ngoài ra, tại một số chùa cổ như chùa Giác Lâm (quận 
                    Tân Bình), chùa Phước Lâm (thị xã Tây Ninh), còn đặt thờ 5 
                    vị này dưới dạng phù điêu bằng gỗ. Năm bức phù điêu này được 
                    gọi là bộ Sám bài, sử dụng trong việc cúng cầu an và cầu 
                    siêu tại nhà phật tử. Khi ấy, vị Phật ở giữa được quan niệm 
                    là A Di Đà Phật. Tại chùa Phước Lưu  (thị trấn trảng Bàng) 
                    và chùa Long Sơn (thị xã Tây Ninh) còn đặt thờ bộ tượng này 
                    dưới dạng tranh màu, lộng kiếng .  
                  
                  
                    
                    
                                Bộ tượng 5 vị xuất hiện ở Nam bộ vào giai đoạn 
                    đầu thế kỷ XIX, tức giai đoạn mở đầu triều đại nhà Nguyễn. 
                    Chùa Giác Lâm, ngôi chùa cổ xưa nhất hiện nay ở thành phố Hồ 
                    Chí Minh, hiện còn lưu giữ hai lớp tượng nhỏ và lớn, thuộc 
                    hai giai đọan lịch sử khác nhau: bộ nhỏ được tạo tác vào 
                    giữa thế kỷ XVIII ; bộ lớn vào đầu thế kỷ XIX. Trong số các 
                    bộ tượng nhỏ ở  các chùa, chúng ta chưa thấy xuất hiện bộ 
                    tượng 5 vị này. Sự xuất hiện của bộ tượng 5 vị vào giai đoạn 
                    đó chứng tỏ đời sống của cư dân tại đây đã tương đối sung 
                    túc, người dân lập chùa, tạc nhiều tượng và bên cạnh những 
                    phong cách cổ xưa vốn chịu ảnh hưởng từ miền Trung và miền 
                    Bắc, Nam bộ đã sáng tạo thêm những nét riêng biệt, độc đáo 
                    qua hình tượng 5 vị này. Mặc dù đường nét thần linh vẫn còn 
                    phảng phất qua phong cách tô tạc, nhưng phải thừa nhận rằng 
                    bộ tượng đã thể hiện được tính thực tiễn cao qua việc kết 
                    hợp và thể hiện ý nghĩa của bộ tượng: đó là tinh thần 
                    của một đạo Phật nhập thế, đi vào cuộc đời. Bộ tượng 
                    được tạc dưới dạng thượng kỳ thú, tay bắt ấn, tay cầm bửu 
                    bối của mình, chứng tỏ tượng đặt thờ không phải trong 
                    tư thế tham thiền nhập định, mà là đang ở tình trạng hoằng 
                    hoá, thuyết hoá độ sanh. Chùa Phụng Sơn còn tạc 
                    Thích Ca và Bồ Tát cưỡi trên các con vật đang trong tư thế 
                    đứng, dường như là biểu hiện của sự gấp gáp cứu độ. Các Bồ 
                    Tát được đưa trở về gần gũi hơn với con người phàm tục, với 
                    tóc tết và bộ tượng 5 vị được đặt tại bàn tam bảo là bàn 
                    thấp nhất và gần gũi nhất với phật tử, không tạo thế xa cách 
                    mà như hòa với họ. 
                  
                  
                    
                    
                                Trên bước đường đi vào vùng đất mới, cư dân nơi 
                    ở mới có nhu cầu dựng chùa, tạc tượng. Vốn là những người 
                    dân cùng khổ, phiêu tán, hơn ai hết họ là những người đang 
                    cần sự cứu độ, hướng về tha lực, cần có được niềm an ủi về 
                    mặt tinh thần. Tình cảm xa quê cách tổ, nỗi nhớ thương người 
                    thân thuộc, sự mong ước được an lành khi bệnh tật, đau ốm và 
                    được siêu thoát khi qua đời… đã làm cho hình ảnh của A Di Đà 
                    Phật, của Quan Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát, biểu tượng của 
                    lòng từ bi, tha lực, trở thành hình ảnh chủ yếu mà người dân 
                    có tín ngưỡng ở Nam Bộ cần đến. Nhưng một mặt khác, quan 
                    trọng hơn, vì vốn là người cùng khổ, điều kiện sống phải đấu 
                    tranh không ngừng với thiên nhiên, với những bất công trong 
                    xã hội quanh mình buộc họ phải có một ý chí mãnh liệt, một 
                    tinh thần dũng cảm, bất khuất, kiên cường. Trong chiều hướng 
                    đó, người dân có đạo đã tha thiết hướng về những vị Bồ Tát 
                    mang hạnh nguyện tiêu biểu cho tinh thần tự cường, tự lực, 
                    đó chính là hình ảnh của Thích Ca Mâu Ni Phật, của Văn Thù 
                    Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ Tát. Hơn ai hết, người dân có đạo ở 
                    Nam Bộ đã cảm nhận được nhu cầu của tự lực và tha lực đến 
                    mức nào! Hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và đặc trưng 
                    trong cá tính của người di dân đã đem lại những nhu cầu này. 
                    Và vào đầu thế kỷ XIX, tại Nam Bộ, nhu cầu đó đã được đáp 
                    ứng bằng bộ tượng 5 vị nêu trên. Tính thực tiễn đặt nặng vào 
                    cuộc sống hiện tại hơn là quá khứ đã qua, đã được thể hiện 
                    qua hình ảnh tượng Thích Ca, vị Phật tiêu biểu cho thời hiện 
                    tại, được đặt giữa bộ tượng này. Mặt khác, vai trò và hình 
                    ảnh của một dòng Phật giáo Nam Tông tại vùng đất Nam Bộ lúc 
                    ấy không phải là không có. Hình ảnh Phật Thích Ca là hình 
                    ảnh duy nhất có trong quan niệm của những người theo Phật 
                    giáo Nam tông ở Campuchia, trong cư dân Khmer Nam Bộ và xa 
                    hơn là một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Do vậy mới có 
                    biểu tượng về sự kết hợp 4 vị Bồ Tát, mà mổi vị tiêu biểu 
                    cho một đức tính căn bản Bi, Trí, Hạnh, Nguyện. Có đầy đủ 
                    các đức tính ấy là có Phật tánh, là bậc giác giả, là Phật, 
                    là Buddha.  
                  
                  
                    
                    
                                Có thể thấy rõ hơn nét đặc trưng trong thờ cúng 
                    của cư dân Việt theo đạo Phật khi so sánh bộ tượng này với 
                    bộ tượng 5 vị tại các ngôi chùa của người Hoa. Tại đây hệ 
                    thống 5 vị được biểu tượng bằng hình ảnh của Di Lặc bồ tát ở 
                    giữa, hai bên là Địa Tạng Vương, Phổ Hiền bồ tát, Văn Thù bồ 
                    tát và Quan Thế Âm bồ tát. Hình ảnh này hiện đang được đặt 
                    thờ tại ngôi chùa Thảo Đường (quận 6, thành phố Hồ Chí Minh) 
                    thuộc dòng Tào Động từ Trung Quốc truyền sang. 
                  
                  
                    
                    
                                Tóm lại, biểu tượng kết hợp 5 vị Phật và Bồ Tát 
                    hiện còn lưu giữ tại một số chùa cổ ở Nam Bộ đã góp phần 
                    dựng lại một góc sinh động trong văn hoá Phật giáo thời 
                    Nguyễn ở Nam Bộ. Qua biểu tượng này ta thấy, cùng với niềm 
                    tin về sự hỗ trợ của tha lực, của Phật và Bồ Tát…, cư dân có 
                    tín ngưỡng tại đây còn có niềm tin vào sức sống, ý chí mạnh 
                    mẽ của nội lực, của chính mình để chiến thắng ngọai cảnh, 
                    thiên nhiên và xã hội. Đó là một trong những nét sáng tạo 
                    độc đáo mà bộ tượng đã thể hiện. Cùng với phong cách nghệ 
                    thuật của mình, bộ tượng 5 vị đã  góp vào dòng sinh hoạt văn 
                    hóa thời Nguyễn thế kỷ XIX những đường nét mới lạ, tiêu biểu 
                    và thể hiện rõ nét tinh thần nhập thế và tính chất dân gian 
                    của Phật giáo ở Nam Bộ. 
                                Chú thích 
                  
                  
                    
                    
                                 1- Nguyễn Quảng Tuân. Những ngôi chuà danh 
                    tiếng, Nxb Trẻ, Viện Nghiên cứu Phật học, Thành Phố Hồ Chí 
                    Minh 1990, tr 173. Huỳnh Ngọc Trảng – Đỗ Duy Ngọc, “Nghệ 
                    Thuật chạm  khắc gỗ” trong: Địa chí Văn Hóa Thành phố  Hồ 
                    Chí Minh, Tập III, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1900, tr.376 
                    
                  
                  
                    
                    
                                2- Kiến Nguyệt . Tỳ Ni Hương Nhũ . Thích Thiện 
                    Chơn dịch. 1969, tr. 237
                    
                  
                  
                    
                    
                                3- Thanh Từ. Thâm ý qua hình tượng Phật, Bồ Tát. 
                    Hoa Đàm, 1967, tr. 58
                    
                  
                  
                    
                    
                                4-Lục độ : Bố thí, trì giới, Nhẫn nhục, Tinh 
                    tiến, thiền định, bát nhã ( trí huệ). 
                      
                  
                  
                    
                    
                                08-07-2008 11:33:12