Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
DỤNG LÝ VÔ THƯỜNG VÀO CUỘC SỐNG
Thích Thông Phương
---o0o---
            I. VÔ THƯỜNG LÀ MỘT LẼ THẬT:
             Nói đến vô thường thì đa số người học Phật đều biết, đều hiểu: thế gian vô thường, cõi đời tạm bợ, nghe quá thường. Song người cảm ngộ sâu vô thường, có nhiều chăng? Ứng dụng vào cuộc sống thế nào mới thiết thực? Đây mới là điều quan trọng. 
            Trước khi đi sâu vào vấn đề, để xác định lòng tin vững chắc, mỗi người chúng ta hãy xét rõ lại xem, lý vô thường có từ bao giờ? Ai lập ra? Nhiều thơ văn cho là tạo hóa gây ra, như bài thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan đã nói:
            “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”.
            Nhưng có phải là tạo hóa gây ra chăng?
            Một LẼTHẬT mà do tạo ra, tức là cái mới có rồi. Nếu vô thường là do tạo hóa tạo ra hoặc do Phật lập thành chẳng hạn, vậy trước đó là không có vô thường, thì sao gọi là chân lý xưa nay được? Và sao có người tu hành? Lẽ thực thì có chúng sanh là có vô thường, không do ai tạo ra, khong phải cái mới có, Phật cũng chỉ là người giác ngộ rõ lý vô thường và chỉ dạy lại cho chúng sinh hiểu thôi. 
            Bởi có vô thường mới có khổ, cũng như mọi thứ khổ đều từ vô thường mà thành. Như sinh, do vô thường nên có già, có bệnh, có chết. Mong cầu muốn như ý mà vô thường nên không như ý, thương yêu muốn gần gũi mãi nhưng vô thường nên phải xa lìa, người oán ghét không muốn gặp nhưng vô thường nên lại phải gặp, do đó mà có khổ. Có khổ mới có Tập là nhân của khổ, tức những phiền não tham, sân, si... 
            Từ trong vô thường đau khổ ấy mà giác ngộ tìm đường giải thoát, dứt cái nhân ấy thì được an vui hết khổ, đó là Diệt. Song muốn được diệt khổ thực sự thì phải có con đường tu đúng đắn chân thật, không phảo chỉ nói suông, hiểu suông trên lý thuyết mà được. Con đường đó là Đạo. Tức từ vô thường mà có Tứ Đế, là bốn điều chắc thật Phaatj đã nói trong bài pháp đầu ở Lộc Uyển. 
            Thực tế, dù có Phật hay không có Phật, hễ ai đã sinh ra thì phải có chết, cái có tạo ra thì phải có cái hoại diệt, có làm thành thì phải có biến đổi... Nói chung, tất cả pháp hữu vi đều vô thường. Bài kệ Kinh Kinh Cang đã nói: 
                        "Nhất thiết hữu vi pháp,
                        Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
                        Như lộ diệc như điện, 
                        Ưng tác như thị quan." 
                        Nghĩa: 
                       "Tất cả pháp hữu vi, 
                       Như mộng, huyễn, bọt, bóng, 
                       Như sương cũng như chớp, 
                       Phải nên quán như thế." 
            Pháp hữu vi tức là pháp có làm ra, có tạo thành. Cái gì có tạo tác, làm ra, được thành... đều thuộc vô thường không bền chắc. Dù lý luận giỏi cũng không tránh khỏi vô thường. Đó là một lẽ thực muôn thưở. Ngài Hàn Sơn có một bài thơ: 
                        "Hoa đào sắp sang hạ 
                        Trăng gió giục không thôi. 
                        Tim hỏi người thời Hán 
                        Không còn được một người. 
                        Sáng sáng hoa rơi rụng 
                        Năm năm người đổi đời. 
                        Hôm nay bụi tung đấy 
                        Xưa kia là biển khơi. 
                        (Đào hoa dục kinh hạ 
                        Phong nguyệt thôi bất đãi 
                        Phong mích Hán thời nhân 
                        Năng vô nhất cá tại 
                        Triêu triêu hoa thiên lạc 
                        Tuế tuế nhân di cải 
                        Kim nhật dương trần xứ 
                        Tích thời vi đại hải)."
             Hoa đào sắp sang hạ là báo hiệu thời tiết nở khoe sắp hết, mỗi cơn gió thổi qua là mang theo từng cánh hoa rụng, không thể giữ mãi trên cành. Bao nhiêu người thời Hán, thời Trần... hiện nay tìm hỏi xem, còn được một ai? Mỗi buổi sáng, hoa cũ trên cành đã rụng dần, rụng dần không còn như trước. Mỗi năm, mỗi năm con người đã đổi thay, đã chuyển dời, năm nay không giống như năm qua. Hôm nay nơi này bụi xe khói mù, người vạt đông đúc, xưa kia chính đây là biển khơi. “Thế gian biến cải vũng nên đồi”. Lẽ thật của cuộc đời là như thế. Từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau không hạn cuộc ở thời gian nào. Vì vậy có câu: “Bãi biển nương dâu”, mỗi người cần nghiệm kỹ! 
            II. RÕ VÔ THƯỜNG LÀ LÝ CHUNG CỦA TẤT CẢ 
            Vô thường là một lẽ thật chung cho tất cả thế gian, không phải của riêng ai, không phải của người này mà không của người kia. Người học Phật quán sâu, thấy rõ điều ấy sẽ cởi mở được nhiều đau khổ trong cuộc sống. Trái lại, cứ tưởng nó là của ai, thuộc về người khác không dính dáng gì tới mình, khi nó đến bất ngờ chịu không nổi, sẽ bứt tóc, đập đầu, đấm ngực than khóc kêu trời! Bởi do không có chuẩn bị trước. 
            Có câu chuyện thời Phật, lúc Ngài ở tỉnh xá Kỳ Hoàn, bà KISA-GOTAMI chỉ có đứa con yêu quý bỗng chết đi. Bà chưa bao giờ thấy cái chết nên khi người ta mang thấy đứa bé đi thiêu, bà không cho, tưởng là nó còn sống. Bà bế thấy chết trên hông, chạy từ nhà này tới nhà khác cầu thuốc cứu con. Có người hiểu, chỉ cho bà đến gặp Phật. Phật bảo bà: 
            - Người hãy đi tìm một lon hạt cải trắng (có chỗ nói một ít nhang) của nhà nào từ trước đến giờ chưa có ai chết đem về đây, ta sẽ chữa cho. 
            Bà đi khắp từ sáng đến chiều, hỏi nhà nào cũng có người thân chết. Cuối cùng mệt mỏi, bà chợt hiểu ra, người chết quá nhiều hơn người trong làng, không riêng con bà, không phải một mình bà chịu sự vô thường đó. Bà liền cảm thấy nhẹ bớt và đếm thây con vào rừng, rồi trở về gặp Thế Tôn. Ngài hỏi: 
            - Ngươi có tìm được lon hạt cải trắng chăng? 
            Bà thưa: 
            - Bạch Thế Tôn, không. Làng nào cũng có người chết nhiều hơn người sống. 
            Nhân đó Phật dạy: 
            - Thật hão huyền, nếu người cho rằng chỉ mình người mất con. Ai cũng chịu ĐỊNH LUẬT BẤT BIẾN đó là: “Thần chết như một dòng nước lũ, cuốn trôi hết thảy mọi chúng sinh ra biển hoại diệt, trong khi đó, lòng tham đắm của họ vẫn chưa thỏa mãn”. Thế Tôn liền nói kệ: 
               "Người tâm ý đắm say 
               Con cái và súc vật 
               Tử thần bắt người ấy 
               Như lụt troi làng ngủ." 
               Cuối bài kệ bà chứng quả Tu đà hoàn. (Tích Truyện Pháp Cú) 
            Ban đầu, bà Ki-sa tưởng như sự vô thường chỉ đến với mình, riêng một mình bà phải chịu, và đó cũng là việc bà không bao giờ nghĩ tới, mà bất ngờ như thế! Phật khéo léo giúp cho bà thức tỉnh, thấy rõ những người chung quanh cũng từng chịu chung cái khổ đó, đâu phải chỉ riêng bà, khiến bà tỉnh ngộ. 
            Bơi thông thường người cứ tưởng đời là êm ả, là mùa xuân, là nắng ấm, là bài thơ..., còn tai nạn vô thường không can hệ đến mình, bất ngờ gặp phải, tưởng chừng như không bao giờ có, nên tinh thần bị suy sụp nặng, thật đau khổ! Đó là sống với ảo tưởng nhiều, khi sự thực đến không giống như vậy, khó nhẫn chịu được.
            Điểm kế là, tưởng như vô thường quá bất công, chỉ đổ ập lên đầu mình, lựa riêng mình mà tìm đến, khiến một mình ta phải chịu, do đó mình cảm thấy tủi nhục, hận đời và tràn đầy đau khổ... Giờ đây được Phật dạy, hiểu rõ ra chính đó là một lý chung cho tất cả: Ai sinh ra đời đều mang BẢN ÁN VÔ THƯỜNG đó hết. Mình liền cảm thấy có phân an ủi, hóa ra còn có nhiều người đồng cảnh ngộ với ta! Cái khổ này được chia đều với tất cả, không phải chỉ một mình ta! Liền thấy bớt khổ. Nghĩa là đã có người cùng chia sẻ với ta. Đó là LÝ CHUNG CHO TẤT CẢ. 
            Song tiến thêm một bước, theo tinh thần nhà Thiền thì có khác. Như câu chuyện: Có bà già đến hỏi Hòa thượng Triệu Châu: 
            - Con mang thân nữ này bị năm dây ràng buộc, gây chướng ngại cho Phật tính, làm sao thoát ly những phiền trược ấy? 
            Triệu Châu bảo: 
            - Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sinh lên cõi trời, còn thân hèn hạ này nguyện tiếp tục trầm luân một mình trong biển khổ. 
            Người nghe có thấy lạ chăng? Tại sao bà muốn hết khổ, mà Hòa thượng Triệu Châu lại bảo chịu khổ? Đây là một ý nghĩa rất sâu xa: Chính tâm rộng lớn vô ngã quên mình vì người khác, tức hết khổ. Sở dĩ chúng ta cảm thấy khổ nhiều, vì quá nghĩ về mình, nên thấy mình thiệt thòi, mình bị chèn ép, mình bị đày đọa, bất công... Nếu QUÊN MÌNH, không thấy có ta thì còn AI để khổ ? Lý giải thoát là ngay đó! 
            Đây chính là tinh thần vô ngã của Bồ Tát, là thuốc trị tận gốc khổ cho chúng sinh, không phải muốn cho mọi người cùng chia khổ với mình, mình mới bớt khổ. 
            III. BIẾT VÔ THƯỜNG THÔI LÀM KHỔ THÊM CHO NHAU
            Người hiểu đạo, quán kỹ, thấy rõ thế gian đều vô thường tạm bợ, cuộc sống là mỏng manh không bền chắc, từ thân, tâm cho đến sự vật đều luôn dời đổi vô thường. Thân thì nương bốn đại: Đất, nước, gió, lửa hòa hợp tạm thành, mạng sống rút ngắn từng giờ từng phút. Tâm thì mừng giận yêu ghét... thay đổi không dừng. Hôm nay anh là bạn thân, ngày mai lại hết thân, đó cũng là chuyện thường vì TÂM NGƯỜI VÔ THƯỜNG. Sự vật thì có thành hoại, có nở tàn, có tròn khuyết... Kinh Kim Cang nói: “Cái gì có tưởng đều hư vọng”. Vậy thì ở trong tranh giành hơn thua một chút, rồi buông tay nằm cứng đơ, bỏ lại tất cả, có được gì? Sao lại làm khổ thêm cho nhau? 
            Kinh Pháp Cú Thí Dụ có bài Kinh:Phật ở vườn Trúc, nước La Duyệt Kỳ. Hôm ấy thọ trai xong, trở về, giữa đường gặp một người lùa bầy bò mập béo, chúng chạm sừng, đấu húc, nhảy múa, Phật bèn nói ba bài kệ:
                        "Như người đuổi bò kia 
                        Nuôi bò để ăn thịt 
                        Nuôi mạng để làm gì?
                        Để cấp cho già chết."
                        "Trăm năm chẳng có một
                        Họ hàng nam cùng nữ 
                        Của cải nhiều tích trữ 
                        Không vật nào không mất." 
                        "Sống một ngày một đêm 
                        Họ hàng nam cùng nữ 
                        Mạng tự gọt, tự chuốt
                        Còn gì? Cái giếng không!" 
            Về Trúc Lâm, tôn giả A Nan bạch Phật về ý nghĩa ba bài kệ. Phật dạy:
            - Bầy bò đó, trước đây cả nhàn con, được người nuôi mập béo, rồi làm thịt bán. Đến nay chỉ còn phân nửa, mà chúng nó có biết, cứ lo vui vẻ nhảy múa, đấu sừng, la rống. Thấy vậy Ngài thương hại mà nói lên ba bài kệ ấy. 
            Phật lại so sánh với người đời:
            - Họ cứ chấp có ta, dốt về lẽ vô thường, lo ăn uống, ngủ nghỉ, nuôi dưỡng thân mình cho khoái tâm vừa ý, là nuôi giặc mà không hay. Vô thường chực sẵn đó, chết đến không kỳ hạn, thế mà mờ tối chẳng biết, so với bày bò có khác gì! 
            Theo đây nhìn lại chúng ta có sống như vậy chăng? Vô thường già chết luôn chực sẵn một bên, mỗi ngày qua là mạng sống đã giảm dần theo; một năm qua tuy lớn lên một tuổi nhưng thực ra là gần cái chết thêm một đoạn. Vậy mà người đời không hiểu, cứ ở trong đó vui theo dụclạc, rồi giành giựt, chém giết làm khổ thêm cho nhau. Người hiểu đạo, xét thấy ai ai cũng đang chịu chung cái khổ vô thường nên thôi làm thêm cho nhau, mà cần giúp nhau tìm đường thoát, giúp nhau để bớt khổ, đó mới là tâm hồn cao thượng, là sống có ý nghĩa.
            Như vậy hiểu rõ vô thường giúp cho người ứng dụng vào cuộc sống được bớt khổ an vui và đầy đạo lý. Tuy nhiên đó mới là chiều tiêu cực, tiến lên chiều tích cực của lý vô thường càng thấy ý nghĩa rất vi diệu. 
            IV. BIẾT VÔ THƯỜNG, QUÝ TIẾC THỜI GIAN, TINH TIẾN TU HÀNH 
            Phật nói vô thường không phải khiến người buông xuôi chán đời, ngồi chờ chết. Người nghiên cứu đạo Phật một mặt, đôi khi hiểu lầm đạo Phật là bi quan tiêu cực là chưa hiểu hết đạo Phật. Ở đây, người học đạo, thấu rõ thế gian vô thường, một ngày qua là không tìm lại được, hôm nay ngồi đây, ngày mai chưa chẵc còn ngồi thế này; nhân duyên tốt lành hôm nay gặp được đâu dễ gặp lại lần thứ hai? Người xưa có câu:”Không thẻ tắm hai lần trong một dòng sông”, thì tại sao mình lại phung phí thời gian vô ích ? 
            Hôm nay còn khỏe mạnh, ngày mai đâu chắc được? Hoặc bệnh hoạn, suy yếu, tinh thần sẽ yếu đi, việc muốn làm cũng không làm được. Rồi bất chợt nhắm mát ra đi, lấy gì bảo đảm để ra đi an ổn? Tổ Qui Sơn Linh Hựu đã nhắc trong bài Cảnh Sách:”Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng?”. nghĩa là,” đường mờ mờ mịt mịt chẳng biết đi về đâu?”. Thật là đau đớn! Thật là hoang mang! Do đó, mỗi người phải tận dụng hết thời gian quý báu đang có để học, để tu, để hành, tạo công đức lành giúp cho mình có được ít nhiều quả lành cho ngày ra đi.
            Khóa lễ buổi chiều trong chùa thường có bài kệ nhắc nhở tu hành: 
                    "Thị nhật dĩ quá 
                    Mạng diệc tùy giảm 
                    Như thiểu thủy ngư 
                    Tư hữu hà lạc? 
                    Đại chúng! 
                    Đương cần tinh tấn 
                    Như cứu đầu nhiên 
                    Thận vật phóng dật!" 
                    "Ngày nay lại đã qua rồi 
                    Mạng căn huyết mạch lần hồi kho khao 
                    Dường như cá cạn ở ao 
                    Khổ thêm thì có, chút nào vui đâu ? 
                    Cần tu tợ lửa cháy đầu 
                    Đừng cho sái buổi như chầu đề vương 
                    Thân này mỏng mỏng mảnh không thường 
                    Sớm còn tối mất lo phương cứu mình." 
            Đó là chư Tổ nhắc nhở người tu, mỗi khi chiều đến, là một ngày đã trôi qua, tức mạng sống của mình cũng theo đó mà rút ngắn dần, trong khi đó công phu tu hành của mình thì sao? Có tiến được gì chưa? Phải tâm tâm niệm niệm ghi khắc thống thiết, khẩn cấp công phu không dám bê trễ, biếng lười, giống như lửa rớt trên đầu, phải phủi ngay không cho chần chờ, hẹn hò, lần lựa. 
            Thiền sư Y Am Quyền mỗi khi chiều xuống liền tự rơi nước mắt than:
            "Ngày hôm nay lại cũng chỉ thế ấy trôi qua suông, chưa biết ngày mai công phu của ta sẽ thế nào?". 
            Người xưa cũng có câu:
            "Lúc hoàng hôn xuống chớ tự hào cho ngày mai bạn sẽ thức dậy như thường lệ!". 
            Rõ lý vô thường càng thấy thời gian chúng ta hiện có mặt ở đây rất là quý báu, do đó phải biết quý tiếc nó, phải sống cho xứng đáng không để phung phí thời gian trôi qua suông, sau ăn năn không kịp. 
            Ở Nhật Bản có câu chuyện Ngài Thân Loan đi xuất gia rất hay. Lúc lên 9 tuổi, Sư quyết tâm xuất gia, đến cầu Hòa thượng Từ Trấn cạo tóc. Từ Trấn hỏi:
            - Con còn nhỏ tuổi thế này, vì sao muốn xuất gia? 
            Thân Loan đáp: 
            - Tuy con mới 9 tuổi mà cha mẹ đã mất hết, con chẳng hiểu”Vì sao con người quyết phải chết? Vì sao nhất định phải chia lìa cha mẹ?”, do đó mà tìm cho thấu đạo lý này nên con nhất định muốn xuất gia. 
            Ngài Từ Trấn rất tán thành chí nguyện của Sư, bảo: 
            - Tốt, ta đã tỏ rõ rồi! Ta đồng ý thâu con làm đệ tử, nhưng mà hôm nay tối quá rồi, đợi sáng sớm mai ta sẽ cạo tóc cho con. 
            Thân Loan nghe xong, chẳng bằng lòng, bèn thưa: 
            - Bạch Thầy! Dù rằng thầy bảo sáng sớm ngày mai cạo tóc cho con, nhưng conthật là tuổi nhỏ không hiểu biết, chẳng thể bảo đảm quyết tâm xuất gia của chính mình có thể kéo dài đến sáng mai chăng? Hơn nữa, bạch thấy! Thầy tuổi đã cao, thầy cũng chẳng thể bảo đảm sáng mai khi dậy khỏi giường là còn sống chăng?
            Ngài Từ Trấn nghe xong, vỗ tay khen ngợi và rất hoan hỷ bảo:
            - Đúng! Lời con nói hoàn toàn không sai. Ta cạo tóc cho con liền đây vậy. (Tinh Vân Thiền Thoại) 
            Câu chuyện nhắc nhở cho người phải biết sự vô thường luôn ở sẵn bên mình, nên rất phải quý tiếc hiện tại, sống đúng ý nghĩa. Đó là một tiếng trống thúc giục người tiến tới, vươn lên, không phải buông xuôi tiêu cực. 
            V. BIẾT VÔ THƯỜNG VƯƠN LÊN LÀM VIỆC LÀNH KHÔNG CHÁN 
            Không phải thấy vô thường ròi buông xuôi mặc kệ cho thế gian, khổ vui không cần biết tới, hoặc khoanh tay ngồi yên, vì tất cả vô thường mộng ảo mà! Đó là lầm! Tại sao?
            Bởi mình biết rồi nhưng phải thương người chưa biết, nhớ đến còn bao nhiêu người đồng cảnh ngộ mình lúc trước, bỏ họ sao? Như người tỉnh, thấy kẻ còn đang mộng la hét khổ sở, mình đành ngồi nhìn họ mơ khổ sở sao? Phải đánh thức cho họ chớ! Cho nên Bồ Tát dù biết thế gian là vô thường mộng ảo mà vẫn phát tâm luôn độ chúng sinh không ngừng nghỉ. 
            Một mặt tích cực nữa, nhờ vô thường mà mọi vật mới có phát triển, như con người có lớn lên, học hành có tăng tiến, từ không biết chữ tới biết chữ và hiểu rộng. 
            Nhờ vô thường mới có chúng sinh thành Ơhật, có chuyển me thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề, không thì, chúng sinh cố sđịnh là chúng sinh, mê cố định là mê mãi, dù tu hành cũng thế thôi. 
            Do tham sân si cũng vô thường nên có thể chuyển hóa nó, do đó mới có tu để chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề. Đó là tạo một niểm tin vững mạnh giúp cho người vươn lên, là con đường thăng hoa tiến triển. Nếu mọi thứ là cố định thì hết tu! Vì tu cũng không làm gì khác hơn được.
            Có vị nông dân đến thưa với thiền sư Bàn Khuê:
            - Con có tật nóng bẩm sinh, xin thầy chỉ cho cách phải làm sao sửa đổi?
            Sư bảo:
            Ông hãy đem ra đây ta xem, ta sẽ sửa đổi cho! 
            Vị nông dân thưa:
            - Bạch thầy, ngay đây không thể đem ra được.
            Sư hỏi:
            - Vì sao?
            Nông dân đáp:
            -Nó bất thường lắm, đụng việc nó mới phát sinh.
            Sư kết luận:
            - Rồi! Nó không phải là cái bẩm sinh của ông. (Nếu nó có thật, ông có thể trình ra cho ta xem bất cứ lúc nào, ông hãy nghĩ kỹ lại xem!). Đụng chuyện mới có, vậy là do ông tạo ra, sao lại đem lỗi lầm gán cho cha mẹ, thật quá bất công!
            Cho thấy, nóng giận không phải là cái cố định sẵn có, mà nó là cái do duyên sinh, đợi gặp việc mới có, có rồi cũng qua, nên cũng vô thường và có thể chuyển hóa.
            Từ thấy rõ lý vô thường , người học đạo ở trong đó mà vươn lên, tìm cách giải thoát, vượt ra và làm chủ trở lại tức là sống bình an trong vô thường. Không phải biết vô thường rồi ngồi khoanh tay chờ chết! Bởi vậy, Bồ tát biết vô thường mà cười hoài và luôn lăn mình trong đó để độ người. Vì thấy rõ mọi việc vô thường, thân này cũng tạm bợ, không có gì đáng kể!
                Thiền sư Vạn Hạnh sắp tịch có bài kệ:
                "Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
                Vạn mộc xuân vinh thu hữu độ
                Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
                Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
                Nghĩa:
                "Thân như điện chớp có rồi không
                Cây cỏ xuấn tươi thu héo tàn.
                Mặc cuộc thịnh suy không sợ hải
                Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông."
            Thiền sư thấy rõ thân này vô thường tạm bợ như ánh điện chớp. Cảnh vật cũng vậy, không có gì dừng trụ, kiên cố. Vậy thì sự thịnh suy ở đời cũng đâu có gì quan trọng? Thân còn không chắc chắn gì kia mà! Do đó, Thiền sư sống vững vàng trước mọi sự thịnh suy thay đổi của cuộc đời. Nghĩa là, các Ngài làm chủ trở lại trong vô thường.
            VI. Ý NGHĨA SÂU XA CỦA VÔ THƯỜNG
            Tiến lên một bước nữa là ý nghĩa sâu xa của vô thường. Chỗ vi diệu của Phật pháp là ở đây. Nói vô thường nhưng nếu chỉ dừng ở ngang đó thì Phật pháp chưa thật sâu mầu, chính Phật nói vô thường để ngầm nhắc người, khéo nhận rõ cái chân thật hằng hữu không thuộc vô thường và không lầm với vô thường . Đó mới là chỗ sống chân thật an ổn, là chỗ đến của Phật pháp. Chúng sinh mê chỗ này mới theo vô thường mà chịu khổ. Ngộ trở lại nó, là quay về cội nguồn chân thật, là con đường xuất thế gian.
            Có đoạn nhân duyên Tổ Thương Na Hòa Tu hỏi Ngài Ưu Ba Cúc Đa:
            - Ngươi bao nhiêu tuổi ?
            Ưu Ba Cúc Đa đáp:
            - Con mười bảy tuổi.
            - Thân ông mười bảy tuổi hay tánh ông mười bảy tuổi?
            - Tóc Hòa thượng đã bạc, là tóc bạc hay tâm Hòa thượng bạc?
            - Tóc ta bạc chẳng phải tâm ta bạc.
            - Thân con mười bảy tuổi, chẳng phải tánh con mười bảy tuổi.
            Trong đây ngầm chỉ ra ý nghĩa sâu xa trong vô thường đó rồi. Cái có tuổi tác, có đen bạc, già trẻ tức là vô thường, là thuộc sinh diệt. Còn cái không tuổi tác, không già trẻ, đen bạc thì nó đâu thuộc vô thường sinh diệt. Tại sao mọi người lại mê cái đó để sống theo cái vô thường kia? Thiền tông thường đánh thức người phải tỉnh lại chỗ này. Song điểm khó là, nó vượt ngoài sự hiểu biết của phàm tình nên nhiều người khó tin. Tuy nhiên không vì người chẳng tin mà nó thành không có. Mà dù cho người có tin hay chẳng tin, nó vẫn luôn hiện hữu đó thôi!
            Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật đã chỉ cho vua Ba Tư Nặc thấy trong thân sinh diệt có tánh không sinh diệt. Phật bảo vua:
            - Đại vương, thân ông hiện đang sống đây, nay tôi hỏi ông: Thân thịt này của ông là đồng như kim cang thường còn chẳng hoại hay sẽ bị biến hoại?
            Vua đáp:
            - Bạch Thế Tôn, thân con hiện nay đây, rốt cuộc cũng thay đổi và hoại diệt.
            Phật bảo:
            - Đại vương, thân ông chưa hoại diệt, làm sao biết phải diệt?
            Vua đáp:
            - Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại này của con đây tuy chưa diệt, nhưng con xem hiện tiền mỗi niệm dời đổi mãi mãi không dừng, như lửa thành tro lần lần tiêu mất, vì dứt mất không dừng nên con biết thân này quyết định phải theo nó mà diệt mất.
            Phật nói:
            - Đúng vậy, Đại vương! Nay ông đã già yếu, dáng mạo so với lúc còn bé thế nào?
            Vua đáp:
            - Bạch Thế Tôn, xưa kia khi còn bé thì da dẻ hồng hào, đến tuổi trưởng thành khí huyết đầy đủ, nay tuổi già hình sắc cũng theo đó mà già yếu khô gầy, tinh thần tối tăm, tóc bạc mặt nhăn, s8áp chết chẳng còn bao lâu. Như thế, đâu thể so sánh với khi còn trẻ mạnh.
            Phật bảo:
            - Đại vương, thân thể của ông đâu phải già liền?
            Vua đáp:
            - Bạch Thế Tôn, nó biến hóa thầm thầm thay đổi, con thật chẳng biết, lạnh nóng đổi dời, lần lần cho đến ngày nay. Vì sao? Vì lúc con hai mươi tuổi, tuy tuổi còn nhỏ nhưng nhan sắc đã già hơn khi lên mười, đến ba mươi tuổi lại già hơn năm hai mươi tuổi; đến nay sáu mươi hai tuổi so với lúc năm mươi tuổi, rõ ràng khi năm mươi tuổi sức lực còn cường tráng hơn. Bạch Thế Tôn, con thấy nó thầm thầm dời đổi, tuy cái già nua này thay đổi giới hạn trong mười năm, nhưng nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong những mười năm, hai mươi năm mà thực nó thay đổi từng năm, từng tháng; chẳng những thay đổi từng tháng, mà nó thay đổi từng ngày, và xét cho cùng nghĩ cho kỹ thì nó thay đổi trong từng sát-na, một niệm không dừng. Thế nên con biết thân này trọn phải theo sự biến đổi và hoại diệt.
            Phật bảo:
            - Đại vương, ông thấy sự biến hóa đổi thay không dừng nên ngộ biết thân ông hoại diệt, vậy chính khi hoại diệt, ông có biết trong thân có cái gì chẳng hoại diệt chăng?
            Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật.
            - Thật con chẳng biết.
            Phật bảo:
            - Nay tôi chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt. Đại vương, khi ông được mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?
            Vua đáp:
            - Con được ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ ra mắt thần Kỳ Bà Thiên, điều ngang qua dòng sông này, khi ấy con được thấy nước sông Hằng.
            Phật bảo:
            - Đại vương, như ông đã nói: Khi hai mươi tuổi đã già hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng, ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông Hằng này, đến mười ba tuổi, cái thấy sông Hằng ấy thế nào?
            Vua đáp:
            - Như khi ba tuổi rõ ràng không khác, và đến nay con đã sáu mươi hai tuổi, cái thấy vẫn không khác.
            Phật bảo:
            - Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặc ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ, vậy cái thấy hiện nay xem thấy sông Hằng, cùng với khi xưa còn trẻ xem thấy sông Hằng, cái thấy ấy có già, có trẻ chăng?
            Vua đáp:
            - Bạch Thế Tôn, không vậy.
            Phật bảo:
            - Đại vương, mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy này chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái chẳng bị nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi thì phải chịu hoại diệt, cái chẳng biến đổi kia vẫn không sinh diệt, làm sao trong ấy lại nhận chịu cái sinh tử của ông mà ông còn dẫn lời của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng, thân này sau khi chết là hoàn toàn mất hẳn?
            Như vậy Phật đã chỉ rõ, cái gì có vô thường biến đổi thì có hoại diệt, còn cái không biến đổi thì đâu từng hoại diệt! Tức ngầm chỉ cái không sanh diệt nằm sẵn trong cái sanh diệt mà vua từng sống trong đó nhưng không biết. Chúng ta cũng như thế, nên Phật gọi là mê. Bởi mê nên ban đầu Phật chưa thể chỉ ngay cái không sinh diệt, mà phải chỉ cái vô thường sanh diệt trước để người thấy rõ không lầm, rồi mới chỉ ra cái kia. Do đó, tuy nói vô thường mà ý Phật là ở chỗ kia, người khéo lanh lợi thầm nhận ra ngay. Và sống được chỗ này là tự giải quyết xong cái khổ vô thường.
            Đây dẫn bài kệ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý để sáng tỏ thêm ý trên:
                "Xuân khứ bách hoa lạc
                Xuân đáo bách hoa khai
                Sự trục nhãn tiền quá
                Lão tùng đầu thượng lai
                Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
                Đình tiền tạc dạ nhất chi mai."
                Nghĩa:
                "Xuân đi trăm hoa rụng
                Xuân đến trăm hoa cười
                Việc đời qua trước mắt
                Trên đầu già đến rồi
                Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                Đêm qua sân trước một cành mai."
            Hai câu đầu, thiền sư chỉ ra cảnh vật vô thường qua hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa nở hoa tàn. Hai câu kế, chỉ ra con người vô thường, việc đời cứ trôi qua, trôi qua trước mắt, nhìn lại đầu đã bạc, cái già đã đến. Một thời oanh liệt đã qua, giờ đây chân chùn gối mỏi, đi đứng khó khăn, không tự cảm thương sao? Song, người tu hành không dừng ngang đó, mà còn nữa… Xuân tàn, hoa rụng, người già cỗi, mọi sự đều vô thường, nhưng trong đó còn có một cái: Cái gì?
            “Một cành mai trước sân đêm qua”.
            Ai biết cành mai gì? Chớ hiểu là cành mai già khẳng khiu, có hoa vàng năm cánh, tám cánh… Mà chính là CÀNH MAI BẤT DIỆT TRONG TÂM. Ai cũng đều có sẵn một cành mai ấy trong tâm, muôn đời vẫn còn đó, đúng lúc, gặp thời tiết nó sẽ trổ hoa trong con mắt ai kia! Mắt ai thấy được cành hoa này?
            Trong đây có ai cần thấy chăng? Nhưng phải thấy bằng gì? Chớ dùng hai tròng mắt này! Phải mở con mắt thứ ba kia! Mùa Xuân viên miễn là đây.
            VII. TÓM KẾT
            Một lý vô thường này mà quán kỹ, thấy sâu và ứng dụng đúng đắn, là đã mở cho mình con đường giải thoát khổ đau, thắp sáng trí tuệ lên giữa thế gian này, không phải chuyện thường.
Biết rõ vô thường, rồi vươn lên để thoát khỏi vô thường và làm chủ trở lại trong vô thường, đó là người trí được Phật khen ngợi.
            Một điểm nữa, khi quán sâu vô thường tức là phát tâm bồ đề rồi. Như trong Tập Học Đạo Dụng Tâm của Thiền sư Đạo Nguyên có đoạn nói về phát tâm bồ đề như sau:
            “Tâm bồ đề phần nhiều gọi là nhất tâm. Tổ sư Long Thọ nói: “Chỉ quán tâm sinh diệt vô thường của thế gian, cũng gọi là tâm bồ đề”. Vậy thì tạm nương nơi tâm này có thể cho là tâm bồ đề chăng? Thực đấy! Khi quán vô thường thì tâm ta đây chẳng sinh, niệm danh lợi chẳng khởi, lo sợ thời gian qua nhanh chóng, do đó gấp rút tu hành như cứu lửa cháy đầu; nhìn lại thân mạng không bền chắc, do đó tinh tiến quên cả mỏi mệt. Dù nghe tiếng thần Khẩn-na-la hay chim Ca-lăng-tần-già cũng như gió chiều thổi qua tai vậy thôi. Dẫu thấy mặt mày Vương Tường, Tây Thi cũng như sương sớm che mắt. Đã lìa sự trói buộc của thanh sắc, tự hợp đạo lý quá rồi vậy!
            Tức do quán vô thường mà lo tinh tiến tu hành gấp rút, không dám buông lung giải đãi, không để tâm chạy theo thanh sắc, là hợp trở về tính giác. Người lanh lợi, ngay đó tự sáng tỏ tâm tính, tức mở tâm bồ đề chứ gì?
            Như vậy một lý vô thường này, nếu người nhận sâu, thấy tột là đã giúp mình tiến xa trên con đường giác ngộ không thể nghĩ bàn. Người học đạo chân chính không thể xem thường! Điều quan trọng là: Hiểu và phải Hành.
            Thích Thông Phương
            (Thiền Viện Thường Chiếu)
            07-23-2008 07:45:23
--o0o--