DỤNG LÝ VÔ THƯỜNG VÀO CUỘC SỐNG
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Thích Thông Phương
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                I. VÔ THƯỜNG LÀ MỘT LẼ THẬT:
                    
                  
                  
                    
                    
                                 Nói đến vô thường thì đa số người học Phật đều 
                    biết, đều hiểu: thế gian vô thường, cõi đời tạm bợ, nghe quá 
                    thường. Song người cảm ngộ sâu vô thường, có nhiều chăng? 
                    Ứng dụng vào cuộc sống thế nào mới thiết thực? Đây mới là 
                    điều quan trọng.  
                  
                  
                    
                    
                                Trước khi đi sâu vào vấn đề, để xác định lòng 
                    tin vững chắc, mỗi người chúng ta hãy xét rõ lại xem, lý vô 
                    thường có từ bao giờ? Ai lập ra? Nhiều thơ văn cho là tạo 
                    hóa gây ra, như bài thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà 
                    Huyện Thanh Quan đã nói:
                  
                  
                    
                    
                                “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”. 
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng có phải là tạo hóa gây ra chăng?
                  
                  
                    
                    
                                Một LẼ THẬT 
                    mà do tạo ra, tức là cái mới có rồi. Nếu vô thường là do tạo 
                    hóa tạo ra hoặc do Phật lập thành chẳng hạn, vậy trước đó là 
                    không có vô thường, thì sao gọi là chân lý xưa nay được? Và 
                    sao có người tu hành? Lẽ thực thì có chúng sanh là có vô 
                    thường, không do ai tạo ra, khong phải cái mới có, Phật cũng 
                    chỉ là người giác ngộ rõ lý vô thường và chỉ dạy lại cho 
                    chúng sinh hiểu thôi.  
                  
                  
                    
                    
                                Bởi có vô thường mới có khổ, cũng như mọi thứ 
                    khổ đều từ vô thường mà thành. Như sinh, do vô thường nên có 
                    già, có bệnh, có chết. Mong cầu muốn như ý mà vô thường nên 
                    không như ý, thương yêu muốn gần gũi mãi nhưng vô thường nên 
                    phải xa lìa, người oán ghét không muốn gặp nhưng vô thường 
                    nên lại phải gặp, do đó mà có khổ. Có khổ mới có Tập là nhân 
                    của khổ, tức những phiền não tham, sân, si...  
                  
                  
                    
                    
                                Từ trong vô thường đau khổ ấy mà giác ngộ tìm 
                    đường giải thoát, dứt cái nhân ấy thì được an vui hết khổ, 
                    đó là Diệt. Song muốn được diệt khổ thực sự thì phải có con 
                    đường tu đúng đắn chân thật, không phảo chỉ nói suông, hiểu 
                    suông trên lý thuyết mà được. Con đường đó là Đạo. Tức từ vô 
                    thường mà có Tứ Đế, là bốn điều chắc thật Phaatj đã nói 
                    trong bài pháp đầu ở Lộc Uyển.  
                  
                  
                    
                    
                                Thực tế, dù có Phật hay không có Phật, hễ ai đã 
                    sinh ra thì phải có chết, cái có tạo ra thì phải có cái hoại 
                    diệt, có làm thành thì phải có biến đổi... Nói chung, tất cả 
                    pháp hữu vi đều vô thường. Bài kệ Kinh Kinh Cang đã nói: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                            "Nhất thiết hữu vi pháp, 
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Như mộng, huyễn, bào, ảnh, 
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Như lộ diệc như điện,  
                  
                  
                    
                    
                                            Ưng tác như thị quan."  
                  
                  
                    
                    
                                            Nghĩa:  
                  
                  
                    
                    
                                           "Tất cả pháp hữu vi,  
                  
                  
                    
                    
                                           Như mộng, huyễn, bọt, bóng,  
                    
                  
                  
                    
                    
                                           Như sương cũng như chớp,  
                    
                  
                  
                    
                    
                                           Phải nên quán như thế."  
                  
                  
                    
                    
                                Pháp hữu vi tức là pháp có làm ra, có tạo thành. 
                    Cái gì có tạo tác, làm ra, được thành... đều thuộc vô thường 
                    không bền chắc. Dù lý luận giỏi cũng không tránh khỏi vô 
                    thường. Đó là một lẽ thực muôn thưở. Ngài Hàn Sơn có một bài 
                    thơ:  
                  
                  
                    
                    
                                            "Hoa đào sắp sang hạ  
                  
                  
                    
                    
                                            Trăng gió giục không thôi.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Tim hỏi người thời Hán  
                  
                  
                    
                    
                                            Không còn được một người.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Sáng sáng hoa rơi rụng  
                  
                  
                    
                    
                                            Năm năm người đổi đời.  
                  
                  
                    
                    
                                            Hôm nay bụi tung đấy  
                  
                  
                    
                    
                                            Xưa kia là biển khơi. 
                  
                  
                    
                    
                                            (Đào hoa dục kinh hạ  
                  
                  
                    
                    
                                            Phong nguyệt thôi bất đãi  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Phong mích Hán thời nhân  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Năng vô nhất cá tại 
                  
                  
                    
                    
                                            Triêu triêu hoa thiên lạc  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            Tuế tuế nhân di cải  
                  
                  
                    
                    
                                            Kim nhật dương trần xứ  
                  
                  
                    
                    
                                            Tích thời vi đại hải)." 
                  
                  
                    
                    
                                 Hoa đào sắp sang hạ là báo hiệu thời tiết nở 
                    khoe sắp hết, mỗi cơn gió thổi qua là mang theo từng cánh 
                    hoa rụng, không thể giữ mãi trên cành. Bao nhiêu người thời 
                    Hán, thời Trần... hiện nay tìm hỏi xem, còn được một ai? Mỗi 
                    buổi sáng, hoa cũ trên cành đã rụng dần, rụng dần không còn 
                    như trước. Mỗi năm, mỗi năm con người đã đổi thay, đã chuyển 
                    dời, năm nay không giống như năm qua. Hôm nay nơi này bụi xe 
                    khói mù, người vạt đông đúc, xưa kia chính đây là biển khơi. 
                    “Thế gian biến cải vũng nên đồi”. Lẽ thật của cuộc đời là 
                    như thế. Từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau không hạn cuộc ở thời 
                    gian nào. Vì vậy có câu: “Bãi biển nương dâu”, mỗi người cần 
                    nghiệm kỹ!  
                  
                  
                    
                    
                                II. RÕ VÔ THƯỜNG LÀ LÝ CHUNG CỦA TẤT CẢ 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vô thường là một lẽ thật chung cho tất cả thế 
                    gian, không phải của riêng ai, không phải của người này mà 
                    không của người kia. Người học Phật quán sâu, thấy rõ điều 
                    ấy sẽ cởi mở được nhiều đau khổ trong cuộc sống. Trái lại, 
                    cứ tưởng nó là của ai, thuộc về người khác không dính dáng 
                    gì tới mình, khi nó đến bất ngờ chịu không nổi, sẽ bứt tóc, 
                    đập đầu, đấm ngực than khóc kêu trời! Bởi do không có chuẩn 
                    bị trước.  
                  
                  
                    
                    
                                Có câu chuyện thời Phật, lúc Ngài ở tỉnh xá Kỳ 
                    Hoàn, bà KISA-GOTAMI chỉ có đứa con yêu quý bỗng chết đi. Bà 
                    chưa bao giờ thấy cái chết nên khi người ta mang thấy đứa bé 
                    đi thiêu, bà không cho, tưởng là nó còn sống. Bà bế thấy 
                    chết trên hông, chạy từ nhà này tới nhà khác cầu thuốc cứu 
                    con. Có người hiểu, chỉ cho bà đến gặp Phật. Phật bảo bà: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Người hãy đi tìm một lon hạt cải trắng (có chỗ 
                    nói một ít nhang) của nhà nào từ trước đến giờ chưa có ai 
                    chết đem về đây, ta sẽ chữa cho.  
                  
                  
                    
                    
                                Bà đi khắp từ sáng đến chiều, hỏi nhà nào cũng 
                    có người thân chết. Cuối cùng mệt mỏi, bà chợt hiểu ra, 
                    người chết quá nhiều hơn người trong làng, không riêng con 
                    bà, không phải một mình bà chịu sự vô thường đó. Bà liền cảm 
                    thấy nhẹ bớt và đếm thây con vào rừng, rồi trở về gặp Thế 
                    Tôn. Ngài hỏi:  
                  
                  
                    
                    
                                - Ngươi có tìm được lon hạt cải trắng chăng? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bà thưa:  
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, không. Làng nào cũng có người 
                    chết nhiều hơn người sống.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhân đó Phật dạy:  
                  
                  
                    
                    
                                - Thật hão huyền, nếu người cho rằng chỉ mình 
                    người mất con. Ai cũng chịu ĐỊNH LUẬT BẤT BIẾN đó là: “Thần 
                    chết như một dòng nước lũ, cuốn trôi hết thảy mọi chúng sinh 
                    ra biển hoại diệt, trong khi đó, lòng tham đắm của họ vẫn 
                    chưa thỏa mãn”. Thế Tôn liền nói kệ:  
                  
                  
                    
                    
                                   "Người tâm ý đắm say  
                  
                  
                    
                    
                                   Con cái và súc vật  
                  
                  
                    
                    
                                   Tử thần bắt người ấy  
                  
                  
                    
                    
                                   Như lụt troi làng ngủ."  
                  
                  
                    
                    
                                   Cuối bài kệ bà chứng quả Tu đà hoàn. (Tích 
                    Truyện Pháp Cú)  
                  
                  
                    
                    
                                Ban đầu, bà Ki-sa tưởng như sự vô thường chỉ đến 
                    với mình, riêng một mình bà phải chịu, và đó cũng là việc bà 
                    không bao giờ nghĩ tới, mà bất ngờ như thế! Phật khéo léo 
                    giúp cho bà thức tỉnh, thấy rõ những người chung quanh cũng 
                    từng chịu chung cái khổ đó, đâu phải chỉ riêng bà, khiến bà 
                    tỉnh ngộ.  
                  
                  
                    
                    
                                Bơi thông thường người cứ tưởng đời là êm ả, là 
                    mùa xuân, là nắng ấm, là bài thơ..., còn tai nạn vô thường 
                    không can hệ đến mình, bất ngờ gặp phải, tưởng chừng như 
                    không bao giờ có, nên tinh thần bị suy sụp nặng, thật đau 
                    khổ! Đó là sống với ảo tưởng nhiều, khi sự thực đến không 
                    giống như vậy, khó nhẫn chịu được. 
                  
                  
                    
                    
                                Điểm kế là, tưởng như vô thường quá bất công, 
                    chỉ đổ ập lên đầu mình, lựa riêng mình mà tìm đến, khiến một 
                    mình ta phải chịu, do đó mình cảm thấy tủi nhục, hận đời và 
                    tràn đầy đau khổ... Giờ đây được Phật dạy, hiểu rõ ra chính 
                    đó là một lý chung cho tất cả: Ai sinh ra đời đều mang BẢN 
                    ÁN VÔ THƯỜNG đó hết. Mình liền cảm thấy có phân an ủi, hóa 
                    ra còn có nhiều người đồng cảnh ngộ với ta! Cái khổ này được 
                    chia đều với tất cả, không phải chỉ một mình ta! Liền thấy 
                    bớt khổ. Nghĩa là đã có người cùng chia sẻ với ta. Đó là LÝ 
                    CHUNG CHO TẤT CẢ.  
                  
                  
                    
                    
                                Song tiến thêm một bước, theo tinh thần nhà 
                    Thiền thì có khác. Như câu chuyện: Có bà già đến hỏi Hòa 
                    thượng Triệu Châu:  
                  
                  
                    
                    
                                - Con mang thân nữ này bị năm dây ràng buộc, gây 
                    chướng ngại cho Phật tính, làm sao thoát ly những phiền 
                    trược ấy?  
                  
                  
                    
                    
                                Triệu Châu bảo:  
                  
                  
                    
                    
                                - Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sinh 
                    lên cõi trời, còn thân hèn hạ này nguyện tiếp tục trầm luân 
                    một mình trong biển khổ.  
                  
                  
                    
                    
                                Người nghe có thấy lạ chăng? Tại sao bà muốn hết 
                    khổ, mà Hòa thượng Triệu Châu lại bảo chịu khổ? Đây là một ý 
                    nghĩa rất sâu xa: Chính tâm rộng lớn vô ngã quên mình vì 
                    người khác, tức hết khổ. Sở dĩ chúng ta cảm thấy khổ nhiều, 
                    vì quá nghĩ về mình, nên thấy mình thiệt thòi, mình bị chèn 
                    ép, mình bị đày đọa, bất công... Nếu QUÊN MÌNH, không thấy 
                    có ta thì còn AI để khổ ? Lý giải thoát là ngay đó!  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đây chính là tinh thần vô ngã của Bồ Tát, là 
                    thuốc trị tận gốc khổ cho chúng sinh, không phải muốn cho 
                    mọi người cùng chia khổ với mình, mình mới bớt khổ.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                III. BIẾT VÔ THƯỜNG THÔI LÀM KHỔ THÊM CHO NHAU
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người hiểu đạo, quán kỹ, thấy rõ thế gian đều vô 
                    thường tạm bợ, cuộc sống là mỏng manh không bền chắc, từ 
                    thân, tâm cho đến sự vật đều luôn dời đổi vô thường. Thân 
                    thì nương bốn đại: Đất, nước, gió, lửa hòa hợp tạm thành, 
                    mạng sống rút ngắn từng giờ từng phút. Tâm thì mừng giận yêu 
                    ghét... thay đổi không dừng. Hôm nay anh là bạn thân, ngày 
                    mai lại hết thân, đó cũng là chuyện thường vì TÂM NGƯỜI VÔ 
                    THƯỜNG. Sự vật thì có thành hoại, có nở tàn, có tròn khuyết... 
                    Kinh Kim Cang nói: “Cái gì có tưởng đều hư vọng”. Vậy thì ở 
                    trong tranh giành hơn thua một chút, rồi buông tay nằm cứng 
                    đơ, bỏ lại tất cả, có được gì? Sao lại làm khổ thêm cho nhau? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Kinh Pháp Cú Thí Dụ có bài Kinh:Phật ở vườn Trúc, 
                    nước La Duyệt Kỳ. Hôm ấy thọ trai xong, trở về, giữa đường 
                    gặp một người lùa bầy bò mập béo, chúng chạm sừng, đấu húc, 
                    nhảy múa, Phật bèn nói ba bài kệ: 
                  
                  
                    
                    
                                            "Như người đuổi bò kia  
                  
                  
                    
                    
                                            Nuôi bò để ăn thịt  
                  
                  
                    
                    
                                            Nuôi mạng để làm gì? 
                  
                  
                    
                    
                                            Để cấp cho già chết." 
                  
                  
                    
                    
                                            "Trăm năm chẳng có một
                  
                  
                    
                    
                                            Họ hàng nam cùng nữ  
                  
                  
                    
                    
                                            Của cải nhiều tích trữ  
                  
                  
                    
                    
                                            Không vật nào không mất."  
                    
                  
                  
                    
                    
                                            "Sống một ngày một đêm  
                  
                  
                    
                    
                                            Họ hàng nam cùng nữ  
                  
                  
                    
                    
                                            Mạng tự gọt, tự chuốt 
                  
                  
                    
                    
                                            Còn gì? Cái giếng không!"  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Về Trúc Lâm, tôn giả A Nan bạch Phật về ý nghĩa 
                    ba bài kệ. Phật dạy: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bầy bò đó, trước đây cả nhàn con, được người 
                    nuôi mập béo, rồi làm thịt bán. Đến nay chỉ còn phân nửa, mà 
                    chúng nó có biết, cứ lo vui vẻ nhảy múa, đấu sừng, la rống. 
                    Thấy vậy Ngài thương hại mà nói lên ba bài kệ ấy.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Phật lại so sánh với người đời: 
                  
                  
                    
                    
                                - Họ cứ chấp có ta, dốt về lẽ vô thường, lo ăn 
                    uống, ngủ nghỉ, nuôi dưỡng thân mình cho khoái tâm vừa ý, là 
                    nuôi giặc mà không hay. Vô thường chực sẵn đó, chết đến 
                    không kỳ hạn, thế mà mờ tối chẳng biết, so với bày bò có 
                    khác gì!  
                  
                  
                    
                    
                                Theo đây nhìn lại chúng ta có sống như vậy chăng? 
                    Vô thường già chết luôn chực sẵn một bên, mỗi ngày qua là 
                    mạng sống đã giảm dần theo; một năm qua tuy lớn lên một tuổi 
                    nhưng thực ra là gần cái chết thêm một đoạn. Vậy mà người 
                    đời không hiểu, cứ ở trong đó vui theo dụclạc, rồi giành 
                    giựt, chém giết làm khổ thêm cho nhau. Người hiểu đạo, xét 
                    thấy ai ai cũng đang chịu chung cái khổ vô thường nên thôi 
                    làm thêm cho nhau, mà cần giúp nhau tìm đường thoát, giúp 
                    nhau để bớt khổ, đó mới là tâm hồn cao thượng, là sống có ý 
                    nghĩa. 
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy hiểu rõ vô thường giúp cho người ứng 
                    dụng vào cuộc sống được bớt khổ an vui và đầy đạo lý. Tuy 
                    nhiên đó mới là chiều tiêu cực, tiến lên chiều tích cực của 
                    lý vô thường càng thấy ý nghĩa rất vi diệu.  
                  
                  
                    
                    
                                IV. BIẾT VÔ THƯỜNG, QUÝ TIẾC THỜI GIAN, TINH 
                    TIẾN TU HÀNH 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Phật nói vô thường không phải khiến người buông 
                    xuôi chán đời, ngồi chờ chết. Người nghiên cứu đạo Phật một 
                    mặt, đôi khi hiểu lầm đạo Phật là bi quan tiêu cực là chưa 
                    hiểu hết đạo Phật. Ở đây, người học đạo, thấu rõ thế gian vô 
                    thường, một ngày qua là không tìm lại được, hôm nay ngồi đây, 
                    ngày mai chưa chẵc còn ngồi thế này; nhân duyên tốt lành hôm 
                    nay gặp được đâu dễ gặp lại lần thứ hai? Người xưa có 
                    câu:”Không thẻ tắm hai lần trong một dòng sông”, thì tại sao 
                    mình lại phung phí thời gian vô ích ?  
                  
                  
                    
                    
                                Hôm nay còn khỏe mạnh, ngày mai đâu chắc được? 
                    Hoặc bệnh hoạn, suy yếu, tinh thần sẽ yếu đi, việc muốn làm 
                    cũng không làm được. Rồi bất chợt nhắm mát ra đi, lấy gì bảo 
                    đảm để ra đi an ổn? Tổ Qui Sơn Linh Hựu đã nhắc trong bài 
                    Cảnh Sách:”Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng?”. nghĩa là,” 
                    đường mờ mờ mịt mịt chẳng biết đi về đâu?”. Thật là đau đớn! 
                    Thật là hoang mang! Do đó, mỗi người phải tận dụng hết thời 
                    gian quý báu đang có để học, để tu, để hành, tạo công đức 
                    lành giúp cho mình có được ít nhiều quả lành cho ngày ra đi.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khóa lễ buổi chiều trong chùa thường có bài kệ 
                    nhắc nhở tu hành:  
                  
                  
                    
                    
                                        "Thị nhật dĩ quá 
                  
                  
                    
                    
                                        Mạng diệc tùy giảm  
                  
                  
                    
                    
                                        Như thiểu thủy ngư  
                  
                  
                    
                    
                                        Tư hữu hà lạc?  
                  
                  
                    
                    
                                        Đại chúng!  
                  
                  
                    
                    
                                        Đương cần tinh tấn  
                  
                  
                    
                    
                                        Như cứu đầu nhiên  
                  
                  
                    
                    
                                        Thận vật phóng dật!"  
                  
                  
                    
                    
                                        "Ngày nay lại đã qua rồi  
                  
                  
                    
                    
                                        Mạng căn huyết mạch lần hồi kho khao 
                    
                  
                  
                    
                    
                                        Dường như cá cạn ở ao  
                  
                  
                    
                    
                                        Khổ thêm thì có, chút nào vui đâu ? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                        Cần tu tợ lửa cháy đầu  
                  
                  
                    
                    
                                        Đừng cho sái buổi như chầu đề vương 
                    
                  
                  
                    
                    
                                        Thân này mỏng mỏng mảnh không thường 
                    
                  
                  
                    
                    
                                        Sớm còn tối mất lo phương cứu mình." 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đó là chư Tổ nhắc nhở người tu, mỗi khi chiều 
                    đến, là một ngày đã trôi qua, tức mạng sống của mình cũng 
                    theo đó mà rút ngắn dần, trong khi đó công phu tu hành của 
                    mình thì sao? Có tiến được gì chưa? Phải tâm tâm niệm niệm 
                    ghi khắc thống thiết, khẩn cấp công phu không dám bê trễ, 
                    biếng lười, giống như lửa rớt trên đầu, phải phủi ngay không 
                    cho chần chờ, hẹn hò, lần lựa.  
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Y Am Quyền mỗi khi chiều xuống liền tự 
                    rơi nước mắt than:
                  
                  
                    
                    
                                "Ngày hôm nay lại cũng chỉ thế ấy trôi qua suông, 
                    chưa biết ngày mai công phu của ta sẽ thế nào?".  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người xưa cũng có câu:
                  
                  
                    
                    
                                "Lúc hoàng hôn xuống chớ tự hào cho ngày mai bạn 
                    sẽ thức dậy như thường lệ!".  
                  
                  
                    
                    
                                Rõ lý vô thường càng thấy thời gian chúng ta 
                    hiện có mặt ở đây rất là quý báu, do đó phải biết quý tiếc 
                    nó, phải sống cho xứng đáng không để phung phí thời gian 
                    trôi qua suông, sau ăn năn không kịp.  
                  
                  
                    
                    
                                Ở Nhật Bản có câu chuyện Ngài Thân Loan đi xuất 
                    gia rất hay. Lúc lên 9 tuổi, Sư quyết tâm xuất gia, đến cầu 
                    Hòa thượng Từ Trấn cạo tóc. Từ Trấn hỏi: 
                  
                  
                    
                    
                                - Con còn nhỏ tuổi thế này, vì sao muốn xuất gia? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thân Loan đáp:  
                  
                  
                    
                    
                                - Tuy con mới 9 tuổi mà cha mẹ đã mất hết, con 
                    chẳng hiểu”Vì sao con người quyết phải chết? Vì sao nhất 
                    định phải chia lìa cha mẹ?”, do đó mà tìm cho thấu đạo lý 
                    này nên con nhất định muốn xuất gia.  
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Từ Trấn rất tán thành chí nguyện của Sư, 
                    bảo:  
                  
                  
                    
                    
                                - Tốt, ta đã tỏ rõ rồi! Ta đồng ý thâu con làm 
                    đệ tử, nhưng mà hôm nay tối quá rồi, đợi sáng sớm mai ta sẽ 
                    cạo tóc cho con.  
                  
                  
                    
                    
                                Thân Loan nghe xong, chẳng bằng lòng, bèn thưa: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thầy! Dù rằng thầy bảo sáng sớm ngày mai 
                    cạo tóc cho con, nhưng conthật là tuổi nhỏ không hiểu biết, 
                    chẳng thể bảo đảm quyết tâm xuất gia của chính mình có thể 
                    kéo dài đến sáng mai chăng? Hơn nữa, bạch thấy! Thầy tuổi đã 
                    cao, thầy cũng chẳng thể bảo đảm sáng mai khi dậy khỏi 
                    giường là còn sống chăng? 
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Từ Trấn nghe xong, vỗ tay khen ngợi và rất 
                    hoan hỷ bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đúng! Lời con nói hoàn toàn không sai. Ta cạo 
                    tóc cho con liền đây vậy. (Tinh Vân Thiền Thoại)  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Câu chuyện nhắc nhở cho người phải biết sự vô 
                    thường luôn ở sẵn bên mình, nên rất phải quý tiếc hiện tại, 
                    sống đúng ý nghĩa. Đó là một tiếng trống thúc giục người 
                    tiến tới, vươn lên, không phải buông xuôi tiêu cực.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                V. BIẾT VÔ THƯỜNG VƯƠN LÊN LÀM VIỆC LÀNH KHÔNG 
                    CHÁN 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Không phải thấy vô thường ròi buông xuôi mặc kệ 
                    cho thế gian, khổ vui không cần biết tới, hoặc khoanh tay 
                    ngồi yên, vì tất cả vô thường mộng ảo mà! Đó là lầm! Tại sao?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bởi mình biết rồi nhưng phải thương người chưa 
                    biết, nhớ đến còn bao nhiêu người đồng cảnh ngộ mình lúc 
                    trước, bỏ họ sao? Như người tỉnh, thấy kẻ còn đang mộng la 
                    hét khổ sở, mình đành ngồi nhìn họ mơ khổ sở sao? Phải đánh 
                    thức cho họ chớ! Cho nên Bồ Tát dù biết thế gian là vô 
                    thường mộng ảo mà vẫn phát tâm luôn độ chúng sinh không 
                    ngừng nghỉ.  
                  
                  
                    
                    
                                Một mặt tích cực nữa, nhờ vô thường mà mọi vật 
                    mới có phát triển, như con người có lớn lên, học hành có 
                    tăng tiến, từ không biết chữ tới biết chữ và hiểu rộng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhờ vô thường mới có chúng sinh thành Ơhật, có 
                    chuyển me thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề, không 
                    thì, chúng sinh cố sđịnh là chúng sinh, mê cố định là mê mãi, 
                    dù tu hành cũng thế thôi.  
                  
                  
                    
                    
                                Do tham sân si cũng vô thường nên có thể chuyển 
                    hóa nó, do đó mới có tu để chuyển xấu thành tốt, chuyển mê 
                    thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề. Đó là tạo một niểm 
                    tin vững mạnh giúp cho người vươn lên, là con đường thăng 
                    hoa tiến triển. Nếu mọi thứ là cố định thì hết tu! Vì tu 
                    cũng không làm gì khác hơn được. 
                  
                  
                    
                    
                                Có vị nông dân đến thưa với thiền sư Bàn Khuê:
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Con có tật nóng bẩm sinh, xin thầy chỉ cho 
                    cách phải làm sao sửa đổi? 
                  
                  
                    
                    
                                Sư bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                Ông hãy đem ra đây ta xem, ta sẽ sửa đổi cho! 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vị nông dân thưa: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch thầy, ngay đây không thể đem ra được.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sư hỏi: 
                  
                  
                    
                    
                                - Vì sao? 
                  
                  
                    
                    
                                Nông dân đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                -Nó bất thường lắm, đụng việc nó mới phát sinh.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sư kết luận: 
                  
                  
                    
                    
                                - Rồi! Nó không phải là cái bẩm sinh của ông. (Nếu 
                    nó có thật, ông có thể trình ra cho ta xem bất cứ lúc nào, 
                    ông hãy nghĩ kỹ lại xem!). Đụng chuyện mới có, vậy là do ông 
                    tạo ra, sao lại đem lỗi lầm gán cho cha mẹ, thật quá bất 
                    công! 
                  
                  
                    
                    
                                Cho thấy, nóng giận không phải là cái cố định 
                    sẵn có, mà nó là cái do duyên sinh, đợi gặp việc mới có, có 
                    rồi cũng qua, nên cũng vô thường và có thể chuyển hóa.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Từ thấy rõ lý vô thường , người học đạo ở trong 
                    đó mà vươn lên, tìm cách giải thoát, vượt ra và làm chủ trở 
                    lại tức là sống bình an trong vô thường. Không phải biết vô 
                    thường rồi ngồi khoanh tay chờ chết! Bởi vậy, Bồ tát biết vô 
                    thường mà cười hoài và luôn lăn mình trong đó để độ người. 
                    Vì thấy rõ mọi việc vô thường, thân này cũng tạm bợ, không 
                    có gì đáng kể! 
                  
                  
                    
                    
                                    Thiền sư Vạn Hạnh sắp tịch có bài kệ: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    "Thân như điện ảnh hữu hoàn vô 
                  
                  
                    
                    
                                    Vạn mộc xuân vinh thu hữu độ 
                  
                  
                    
                    
                                    Nhậm vận thịnh suy vô bố úy 
                  
                  
                    
                    
                                    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô." 
                  
                  
                    
                    
                                    Nghĩa: 
                  
                  
                    
                    
                                    "Thân như điện chớp có rồi không 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    Cây cỏ xuấn tươi thu héo tàn. 
                  
                  
                    
                    
                                    Mặc cuộc thịnh suy không sợ hải 
                  
                  
                    
                    
                                    Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông." 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư thấy rõ thân này vô thường tạm bợ như 
                    ánh điện chớp. Cảnh vật cũng vậy, không có gì dừng trụ, kiên 
                    cố. Vậy thì sự thịnh suy ở đời cũng đâu có gì quan trọng? 
                    Thân còn không chắc chắn gì kia mà! Do đó, Thiền sư sống 
                    vững vàng trước mọi sự thịnh suy thay đổi của cuộc đời. 
                    Nghĩa là, các Ngài làm chủ trở lại trong vô thường. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                VI. Ý NGHĨA SÂU XA CỦA VÔ THƯỜNG
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tiến lên một bước nữa là ý nghĩa sâu xa của vô 
                    thường. Chỗ vi diệu của Phật pháp là ở đây. Nói vô thường 
                    nhưng nếu chỉ dừng ở ngang đó thì Phật pháp chưa thật sâu 
                    mầu, chính Phật nói vô thường để ngầm nhắc người, khéo nhận 
                    rõ cái chân thật hằng hữu không thuộc vô thường và không lầm 
                    với vô thường . Đó mới là chỗ sống chân thật an ổn, là chỗ 
                    đến của Phật pháp. Chúng sinh mê chỗ này mới theo vô thường 
                    mà chịu khổ. Ngộ trở lại nó, là quay về cội nguồn chân thật, 
                    là con đường xuất thế gian. 
                  
                  
                    
                    
                                Có đoạn nhân duyên Tổ Thương Na Hòa Tu hỏi Ngài 
                    Ưu Ba Cúc Đa: 
                  
                  
                    
                    
                                - Ngươi bao nhiêu tuổi ? 
                  
                  
                    
                    
                                Ưu Ba Cúc Đa đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Con mười bảy tuổi. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thân ông mười bảy tuổi hay tánh ông mười bảy 
                    tuổi? 
                  
                  
                    
                    
                                - Tóc Hòa thượng đã bạc, là tóc bạc hay tâm Hòa 
                    thượng bạc? 
                  
                  
                    
                    
                                - Tóc ta bạc chẳng phải tâm ta bạc. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thân con mười bảy tuổi, chẳng phải tánh con 
                    mười bảy tuổi. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong đây ngầm chỉ ra ý nghĩa sâu xa trong vô 
                    thường đó rồi. Cái có tuổi tác, có đen bạc, già trẻ tức là 
                    vô thường, là thuộc sinh diệt. Còn cái không tuổi tác, không 
                    già trẻ, đen bạc thì nó đâu thuộc vô thường sinh diệt. Tại 
                    sao mọi người lại mê cái đó để sống theo cái vô thường kia? 
                    Thiền tông thường đánh thức người phải tỉnh lại chỗ này. 
                    Song điểm khó là, nó vượt ngoài sự hiểu biết của phàm tình 
                    nên nhiều người khó tin. Tuy nhiên không vì người chẳng tin 
                    mà nó thành không có. Mà dù cho người có tin hay chẳng tin, 
                    nó vẫn luôn hiện hữu đó thôi! 
                  
                  
                    
                    
                                Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật đã chỉ cho vua Ba 
                    Tư Nặc thấy trong thân sinh diệt có tánh không sinh diệt. 
                    Phật bảo vua: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, thân ông hiện đang sống đây, nay 
                    tôi hỏi ông: Thân thịt này của ông là đồng như kim cang 
                    thường còn chẳng hoại hay sẽ bị biến hoại? 
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, thân con hiện nay đây, rốt cuộc 
                    cũng thay đổi và hoại diệt. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, thân ông chưa hoại diệt, làm sao 
                    biết phải diệt? 
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại này 
                    của con đây tuy chưa diệt, nhưng con xem hiện tiền mỗi niệm 
                    dời đổi mãi mãi không dừng, như lửa thành tro lần lần tiêu 
                    mất, vì dứt mất không dừng nên con biết thân này quyết định 
                    phải theo nó mà diệt mất. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật nói: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đúng vậy, Đại vương! Nay ông đã già yếu, dáng 
                    mạo so với lúc còn bé thế nào? 
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, xưa kia khi còn bé thì da dẻ 
                    hồng hào, đến tuổi trưởng thành khí huyết đầy đủ, nay tuổi 
                    già hình sắc cũng theo đó mà già yếu khô gầy, tinh thần tối 
                    tăm, tóc bạc mặt nhăn, s8áp chết chẳng còn bao lâu. Như thế, 
                    đâu thể so sánh với khi còn trẻ mạnh. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, thân thể của ông đâu phải già liền?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, nó biến hóa thầm thầm thay đổi, 
                    con thật chẳng biết, lạnh nóng đổi dời, lần lần cho đến ngày 
                    nay. Vì sao? Vì lúc con hai mươi tuổi, tuy tuổi còn nhỏ 
                    nhưng nhan sắc đã già hơn khi lên mười, đến ba mươi tuổi lại 
                    già hơn năm hai mươi tuổi; đến nay sáu mươi hai tuổi so với 
                    lúc năm mươi tuổi, rõ ràng khi năm mươi tuổi sức lực còn 
                    cường tráng hơn. Bạch Thế Tôn, con thấy nó thầm thầm dời đổi, 
                    tuy cái già nua này thay đổi giới hạn trong mười năm, nhưng 
                    nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong những 
                    mười năm, hai mươi năm mà thực nó thay đổi từng năm, từng 
                    tháng; chẳng những thay đổi từng tháng, mà nó thay đổi từng 
                    ngày, và xét cho cùng nghĩ cho kỹ thì nó thay đổi trong từng 
                    sát-na, một niệm không dừng. Thế nên con biết thân này trọn 
                    phải theo sự biến đổi và hoại diệt. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, ông thấy sự biến hóa đổi thay không 
                    dừng nên ngộ biết thân ông hoại diệt, vậy chính khi hoại 
                    diệt, ông có biết trong thân có cái gì chẳng hoại diệt chăng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thật con chẳng biết. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Nay tôi chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt. Đại 
                    vương, khi ông được mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Con được ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ ra mắt 
                    thần Kỳ Bà Thiên, điều ngang qua dòng sông này, khi ấy con 
                    được thấy nước sông Hằng. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, như ông đã nói: Khi hai mươi tuổi 
                    đã già hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng, 
                    ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông 
                    Hằng này, đến mười ba tuổi, cái thấy sông Hằng ấy thế nào?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Như khi ba tuổi rõ ràng không khác, và đến nay 
                    con đã sáu mươi hai tuổi, cái thấy vẫn không khác. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặc 
                    ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ, vậy cái thấy hiện nay xem 
                    thấy sông Hằng, cùng với khi xưa còn trẻ xem thấy sông Hằng, 
                    cái thấy ấy có già, có trẻ chăng? 
                  
                  
                    
                    
                                Vua đáp: 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, không vậy. 
                  
                  
                    
                    
                                Phật bảo: 
                  
                  
                    
                    
                                - Đại vương, mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy này 
                    chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái chẳng 
                    bị nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi thì phải chịu hoại 
                    diệt, cái chẳng biến đổi kia vẫn không sinh diệt, làm sao 
                    trong ấy lại nhận chịu cái sinh tử của ông mà ông còn dẫn 
                    lời của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng, thân này sau khi chết 
                    là hoàn toàn mất hẳn? 
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy Phật đã chỉ rõ, cái gì có vô thường biến 
                    đổi thì có hoại diệt, còn cái không biến đổi thì đâu từng 
                    hoại diệt! Tức ngầm chỉ cái không sanh diệt nằm sẵn trong 
                    cái sanh diệt mà vua từng sống trong đó nhưng không biết. 
                    Chúng ta cũng như thế, nên Phật gọi là mê. Bởi mê nên ban 
                    đầu Phật chưa thể chỉ ngay cái không sinh diệt, mà phải chỉ 
                    cái vô thường sanh diệt trước để người thấy rõ không lầm, 
                    rồi mới chỉ ra cái kia. Do đó, tuy nói vô thường mà ý Phật 
                    là ở chỗ kia, người khéo lanh lợi thầm nhận ra ngay. Và sống 
                    được chỗ này là tự giải quyết xong cái khổ vô thường. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đây dẫn bài kệ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý để 
                    sáng tỏ thêm ý trên: 
                  
                  
                    
                    
                                    "Xuân khứ bách hoa lạc 
                  
                  
                    
                    
                                    Xuân đáo bách hoa khai 
                  
                  
                    
                    
                                    Sự trục nhãn tiền quá 
                  
                  
                    
                    
                                    Lão tùng đầu thượng lai 
                  
                  
                    
                    
                                    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận 
                  
                  
                    
                    
                                    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai." 
                  
                  
                    
                    
                                    Nghĩa: 
                  
                  
                    
                    
                                    "Xuân đi trăm hoa rụng 
                  
                  
                    
                    
                                    Xuân đến trăm hoa cười 
                  
                  
                    
                    
                                    Việc đời qua trước mắt 
                  
                  
                    
                    
                                    Trên đầu già đến rồi 
                  
                  
                    
                    
                                    Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết 
                  
                  
                    
                    
                                    Đêm qua sân trước một cành mai." 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hai câu đầu, thiền sư chỉ ra cảnh vật vô thường 
                    qua hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa nở hoa tàn. Hai câu kế, 
                    chỉ ra con người vô thường, việc đời cứ trôi qua, trôi qua 
                    trước mắt, nhìn lại đầu đã bạc, cái già đã đến. Một thời 
                    oanh liệt đã qua, giờ đây chân chùn gối mỏi, đi đứng khó 
                    khăn, không tự cảm thương sao? Song, người tu hành không 
                    dừng ngang đó, mà còn nữa… Xuân tàn, hoa rụng, người già cỗi, 
                    mọi sự đều vô thường, nhưng trong đó còn có một cái: Cái gì?
                    
                  
                  
                    
                    
                                “Một cành mai trước sân đêm qua”. 
                  
                  
                    
                    
                                Ai biết cành mai gì? Chớ hiểu là cành mai già 
                    khẳng khiu, có hoa vàng năm cánh, tám cánh… Mà chính là CÀNH 
                    MAI BẤT DIỆT TRONG TÂM. Ai cũng đều có sẵn một cành mai ấy 
                    trong tâm, muôn đời vẫn còn đó, đúng lúc, gặp thời tiết nó 
                    sẽ trổ hoa trong con mắt ai kia! Mắt ai thấy được cành hoa 
                    này? 
                  
                  
                    
                    
                                Trong đây có ai cần thấy chăng? Nhưng phải thấy 
                    bằng gì? Chớ dùng hai tròng mắt này! Phải mở con mắt thứ ba 
                    kia! Mùa Xuân viên miễn là đây. 
                  
                  
                    
                    
                                VII. TÓM KẾT
                    
                  
                  
                    
                    
                                Một lý vô thường này mà quán kỹ, thấy sâu và ứng 
                    dụng đúng đắn, là đã mở cho mình con đường giải thoát khổ 
                    đau, thắp sáng trí tuệ lên giữa thế gian này, không phải 
                    chuyện thường. 
                  
                  
                    
                    
                    Biết rõ vô thường, rồi vươn lên để thoát khỏi vô thường và 
                    làm chủ trở lại trong vô thường, đó là người trí được Phật 
                    khen ngợi. 
                  
                  
                    
                    
                                Một điểm nữa, khi quán sâu vô thường tức là phát 
                    tâm bồ đề rồi. Như trong Tập Học Đạo Dụng Tâm của Thiền sư 
                    Đạo Nguyên có đoạn nói về phát tâm bồ đề như sau: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                “Tâm bồ đề phần nhiều gọi là nhất tâm. Tổ sư 
                    Long Thọ nói: “Chỉ quán tâm sinh diệt vô thường của thế gian, 
                    cũng gọi là tâm bồ đề”. Vậy thì tạm nương nơi tâm này có thể 
                    cho là tâm bồ đề chăng? Thực đấy! Khi quán vô thường thì tâm 
                    ta đây chẳng sinh, niệm danh lợi chẳng khởi, lo sợ thời gian 
                    qua nhanh chóng, do đó gấp rút tu hành như cứu lửa cháy đầu; 
                    nhìn lại thân mạng không bền chắc, do đó tinh tiến quên cả 
                    mỏi mệt. Dù nghe tiếng thần Khẩn-na-la hay chim Ca-lăng-tần-già 
                    cũng như gió chiều thổi qua tai vậy thôi. Dẫu thấy mặt mày 
                    Vương Tường, Tây Thi cũng như sương sớm che mắt. Đã lìa sự 
                    trói buộc của thanh sắc, tự hợp đạo lý quá rồi vậy! 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tức do quán vô thường mà lo tinh tiến tu hành 
                    gấp rút, không dám buông lung giải đãi, không để tâm chạy 
                    theo thanh sắc, là hợp trở về tính giác. Người lanh lợi, 
                    ngay đó tự sáng tỏ tâm tính, tức mở tâm bồ đề chứ gì? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy một lý vô thường này, nếu người nhận sâu, 
                    thấy tột là đã giúp mình tiến xa trên con đường giác ngộ 
                    không thể nghĩ bàn. Người học đạo chân chính không thể xem 
                    thường! Điều quan trọng là: Hiểu và phải Hành. 
                  
                  
                    
                    
                                Thích Thông Phương
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Thiền Viện Thường Chiếu)
                    
                  
                  
                    
                    
                                07-23-2008 07:45:23