SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA TÂM THỨC
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    H.T. Thích Kiến Tánh
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vì cách Phật quá xa, chúng ta ra đời không gặp 
                    được Minh Sư, thiện hữu tri thức vì vậy trên bước đường tu 
                    tập chúng ta cần phải trạch pháp. Nghĩa là phải chọn cho 
                    mình một pháp môn tu học hợp với khế cơ khế lý, nhất là phải 
                    có lòng tin, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin vào tự tánh.
                    
                  
                  
                    
                                
                    Lòng tin là mẹ sanh ra tất cả công đức, nhưng cần phải có 
                    chánh tín. Muốn có chánh tín thì phải có trí tuệ để hiện 
                    biệt chánh tà, không thể đụng đâu tin đó. Tin một cách mù 
                    quáng thơ ngây để ân hận chán nản. Tổ Sư bảo: "Thà mê muôn 
                    kiếp, còn hơn ngộ một phút sai lầm". 
                  
                  
                    
                    
                                Tùy theo trình độ tâm thức của chúng sanh mà có 
                    cái nhìn sai khác. Phàm phu thấy cành hoa cho là thật cành 
                    hoa. Nhị thừa phân biệt cành hoa không phải cành hoa. Duyên 
                    Giác cho là cành hoa là hình tướng huyễn giả. Bồ Tát trực 
                    nhận cành hoa đương thể tức không. Phật hoa là hoa. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, niệm Phật là tin vãng sanh, trì chú là 
                    tin yêu trừ nghiệp chướng hoặc để cho tâm được tịnh. Nếu 
                    không có sự khai mở của tánh giác thì tâm sẽ bị ngưng lại, 
                    vì tịnh có nhiều loại, tịnh của chúng sanh, tịnh của thần 
                    tiên, tịnh của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai tất cả 
                    đều không giống nhau. Nếu chúng ta rời sự giác ngộ của tự 
                    tánh, thì cái tịnh đó là cái nhân không phải chứng ngộ A La 
                    Hán, Bồ Tát và Như Lai được. Chúng ta cho là tịnh thì có 
                    nhiều cái nhân để tịnh, nếu niệm Phật mà khởi tâm loạn tưởng 
                    thì niệm cho đến mãn đời làm sao được vãng sanh? Niệm Phật, 
                    trì chú mà buông hết, không hề nuối tiếc vật gì, không lòng 
                    não hại, quán thân bình đẳng, không chán nản nghịch duyên, 
                    không khinh chê ghét bỏ kẻ ác, hộ trì tịnh giới, quán sát 
                    diệu nghĩa, không lui sụt Bồ Đề tâm nguyện, thấu suốt nhân 
                    quả rõ ràng tâm thể bất động, niệm Phật như thế ắt được vãng 
                    sanh, thấy được tự tánh. Còn nói cái nhân niệm Phật suông 
                    mong sẽ vãng sanh về đất Phật, trì Mật Tông thì chư Thiên 
                    gia hộ, trì giới sanh về cõi trời hưởng được phước lạc. Tất 
                    cả như vậy đều là danh vọng, hết sáng qua tối, hết thiện qua 
                    ác. Cứ như thế mà lẩn quẩn trong lục đạo luân hồi, cho nên 
                    toàn là huyễn ảo cả. 
                  
                  
                    
                    
                                Các pháp không rời tâm sanh. Bản thể không rời 
                    tự tánh. Tâm-pháp không sai khác. Bởi vậy Phật tùy căn cơ 
                    chúng sanh mà giáo hóa, tùy bịnh mà cho thuốc, chúng sanh 
                    niệm Phật để cầu vãng sanh. Muốn cầu vãng sanh phải có nhất 
                    tâm bất loạn. Muốn có nhất tâm bất loạn phải thiền định. 
                    Muốn định thiền thì phải hiểu rõ pháp môn tu: Niệm đến chỗ 
                    không phải miệng niệm, không phải thức niệm, không phải vọng 
                    niệm, cũng không phải tâm niệm. Vậy cái gì niệm? Đó là chỗ 
                    cứu cánh chứng được niệm Phật tam muội. 
                  
                  
                    
                    
                                Đối với vấn đề trì giới cũng phải có giới sư 
                    thanh tịnh khai giới tánh là chỉ cho thấy bản thể của giới 
                    tánh bình đẳng bất nhị. Giới răn vì kẻ dữ mà thiết lập để 
                    ngăn ngừa tội lỗi. Với người hiền thiện mỗi mỗi oai nghi tế 
                    hạnh, lưu xuất từ giới tánh, giữ hay không giữ giới tướng 
                    không cần thiết cho nên Lục Tổ bảo: "Lòng bình đẳng đâu cần 
                    giữ giới. Dạ thẳng ngay nào nệ tu thiền" là vậy. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trì chú cũng thế, trì chỗ tam mật tịnh minh. 
                    Nghĩa là thân mật giữ ấn quyết, khẩu mật niệm chơn ngôn, ý 
                    mật thường thanh tịnh. Thân-khẩu-ý khế hợp tương ưng không 
                    còn vọng tưởng đảo điên, thể lộ chân thường tự tánh. Nếu tất 
                    cả không được khai thị của Minh Sư thì trở thành đạo bệnh, 
                    chúng ta chưa đạt ngộ thì dù có độ chúng sanh kiểu nào đi 
                    chăng nữa, cũng chỉ là người không biết lội mà cứu kẻ chết 
                    đuối, lẩn quẩn trong lục đạo mà thôi. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu chúng ta cho cái bản thể pháp giới nầy có 
                    nguồn gốc, thì tận nguồn gốc nó ở đâu? Nếu nói không có 
                    nguồn gốc thì sao có các pháp hội tụ. Kinh Pháp Hoa nói rằng: 
                    "Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng". Như thế 
                    thì bản thể của các pháp là thường tịch nhiên. Bản thể đó 
                    không bị thời gian, không gian chi phối; không đến không đi, 
                    không động không tịnh, không sanh không diệt, không tăng 
                    không giảm. Như vậy không trụ ở chỗ nào mà trụ tất cả, tùy 
                    duyên biến hiện, phải bỏ đi cái tướng văn tự ba đời quá khứ, 
                    hiện tại, vị lai. Thời gian không phải là một, cũng không là 
                    ba. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu ta muốn trở về chơn tâm thường trú, thì đừng 
                    chạy theo cái tướng thay hình đổi dạng, cái huyễn hư của 
                    trần cảnh kia, tức sẽ thấy được pháp thân bất động, khi chưa 
                    khai ngộ thì ta thấy cái thân sanh tử này rất đau khổ, khi 
                    ngộ rồi thì ta thấy cái thân này trở thành diệu dụng, nhiệm 
                    mầu, quý báu. Nếu không có sanh tử thì không có gì quý báu. 
                    Chính cái sanh tử đó là sự sống động của pháp thân, nếu 
                    không sanh thì muôn đời không có tử, nếu không có tử thì 
                    muôn đời không có sanh. Sanh tử là sự vận chuyển sống động 
                    thường còn của pháp thân; sanh như đắp chăn đông; tử như cởi 
                    áo hạ. Nó chỉ là hiện tượng của pháp thân. Hư không ví như 
                    pháp thân, mây nổi ví như sanh tử. Mây nổi có chuyển dời tan 
                    hợp. Hư không thì bất động trên khắp không ngăn ngại. Do đó 
                    không phải lìa sanh tử mà có Niết Bàn. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong quá trình chuyển hóa tâm thức, cần phải 
                    nhận thức được sanh tử, không mê lầm, thấy rõ nó như thật, 
                    chính đó là Niết Bàn. Trạng thái tỉnh lự, tỉnh giác và thanh 
                    tịnh ấy là Niết Bàn mà đức Phật đã thành tựu. Ví như bụng ta 
                    không đói mà ăn sẽ không ngon miệng. Đói ăn khát uống, mệt 
                    nghỉ, làm chủ mọi tình huống, mỗi lúc mỗi nơi không thái quá, 
                    không bất cập, không ngưng bí, chỗ ấy là giá trị của Niết 
                    Bàn. 
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, nếu không có sanh tử thì không có Niết 
                    Bàn, sát na sanh tử nầy rất là vi tế, không dứt đoạn, khi 
                    mất thân nầy liền thọ nhận thân khác, sanh rồi diệt, diệt 
                    rồi sanh. Hiện tướng (mây nổi) có sanh diệt nên không thực 
                    có. Thể tánh (hư không) không sanh diệt cũng không thực 
                    không. Siêu vượt "Có Không" tức thể vô sanh vậy.