CHUYỂN HOÁ SANH THÂN THÀNH PHÁP THÂN
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    HT.Thích Trí Quảng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Giáo hội chúng ta quy định Tăng Ni mỗi năm phải 
                    cấm túc an cư mới được một tuổi đạo; nhưng an cư có an cư 
                    tập trung và an cư tại chỗ. An cư tập trung quan trọng hơn 
                    đối với người xuất gia; vì nếu chỉ an cư tại chỗ sẽ không 
                    học được những điều tốt đẹp của chúng bạn, cũng như không cọ 
                    xát được thực tế cuộc sống. Vì vậy, mặc dù chúng ta tu hành 
                    đã lâu nhưng nghiệp và phiền não vẫn tiềm ẩn trong tâm, 
                    không phát hiện được. Có thể nói an cư tập trung vô cùng 
                    quan trọng để chúng ta nương vào con mắt của đại chúng mà 
                    quan sát nghiệp của chúng ta; nhờ đại chúng chỉ bảo chúng ta 
                    mới sửa đổi được lỗi lầm.  
                  
                  
                    
                    
                                Có thể lần đầu chúng ta an cư tập trung cảm thấy 
                    bị ràng buộc, khó chịu; vì người dòm ngó làm "mình" mất tự 
                    do. Nhưng thử nghĩ xem "mình" này là gì? "mình" này là 
                    nghiệp, là phiền não, là ma ngũ ấm. Nếu nhận ngũ ấm ma và 
                    phiền não là "mình" mà tu thì ngũ ẩm ma sẽ tăng trưởng, 
                    nghĩa là chúng ta càng tu càng phiền não, càng bị nghiệp bức 
                    bách mình nhiều hơn; cho đến mức độ quyết định cất am, cất 
                    cốc tu một mình cho dễ. Nhưng cái dễ này sẽ giúp cho phiền 
                    não và nghiệp của mình tăng trưởng; vì sống một mình, muốn 
                    tụng kinh hay không tụng kinh cũng được, không muốn ngồi 
                    thiền cũng không sao. Tu như vậy chỉ luẩn quẩn trong sinh tử 
                    luân hồi.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì lợi ích của việc an cư tập trung, Thành hội 
                    Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh quyết định tất cả Tỳ kheo, 
                    Tỳ kheo ni dù tu bao nhiêu lâu cũng phải có ít nhất mười lần 
                    an cư tập trung, mới được tấn phong giáo phẩm. Thời xưa, 
                    trong đạo chúng ta cũng có quy định mười hạ trở lên mới được 
                    làm Hòa thượng, đó là mười hạ an cư tập trung.  
                  
                  
                    
                    
                                Bắt đầu năm nay, Giáo hội chúng ta tổ chức an cư 
                    tập trung cấp thành phố vâ cấp quận, huyện ít nhất Tăng Ni 
                    phải có ba hạ an cư tập trung ở cấp thành phố. An cư tập 
                    trung cấp thành phố quan trọng hơn ở quận huyện, vì an cư 
                    tập trung cấp thành phố, chúng ta được tu học chung với 
                    nhiều tu sĩ thuộc nhiều tự viện của các quận, huyện khác 
                    nhau, chúng ta lần quen biết và kết bạn tâm giao với đại 
                    chúng trong toàn thành phố và nhờ có sống chung mới có cơ 
                    hội học hỏi, trao đổi, chúng ta mới có tầm nhìn và sự hiểu 
                    biết rộng hơn, giúp cho chúng ta sau này dễ dàng hành đạo.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Theo kinh nghiệm riêng tôi, nhờ những mùa an cư 
                    vào những năm còn ngồi ghế nhà trường ở Phật học đường Nam 
                    Việt, mà tôi có thể trao đổi với những bạn đồng tu về sinh 
                    hoạt từng vùng khác nhau, cho nên sau này tôi đến những nơi 
                    đó hành đạo, đã biết được dân tình và những điểm đặc biệt 
                    của vùng đó, lại thêm có bạn đồng học với mình năm xưa ở đó 
                    thì việc hành đạo của tôi gặp nhiều thuận lợi hơn.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Năm nay Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí 
                    Minh tổ chức hai trường hạ an cư tập trung cấp thành phố, 
                    một trường hạ dành cho chư Tăng và một trường hạ của chư Ni. 
                    Ngoài ra, trong ba tháng an cư, mỗi tháng Thành hội Phật 
                    giáo thành phố Hồ Chí Minh sẽ chọn thêm ba ngày thích hợp để 
                    Tăng Ni thành phố về học tập trung. Khi mãn hạ, Thành hội 
                    Phật giáo sẽ cấp chứng nhận cho những hành giả đã an cư tập 
                    trung ở cấp thành phố.  
                  
                  
                    
                    
                                Trở lại đề tài chúng ta học là kinh Pháp Hoa. Bộ 
                    kinh Pháp Hoa được kiết tập và phiên dịch mà chúng ta thường 
                    thọ trì, đọc tụng, gồm có 28 phẩm. Nương theo bộ kinh Pháp 
                    Hoa bằng văn tự có giới hạn này, để lần mở ra cho chúng ta 
                    thấy tổng quát những tinh ba Đức Phật chỉ dạy, mà ngài Trí 
                    Giả gọi lâ Viên giáo .  
                  
                  
                    
                    
                                Viên giáo có nghĩa là pháp cốt lõi của đạo Phật, 
                    là sở đắc của Đức Phật Người tu phải đạt cho được phần cốt 
                    lõi này và mỗi ngày chúng ta tụng kinh là để bóc lần cái vỏ 
                    bên ngoài, mới đi vào phần cốt lõi bên trong quan trọng Kinh 
                    Pháp Hoa được gọi là thuần Viên độc Diệu; còn kinh Hoa 
                    Nghiêm là Viên giáo.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng khi Ngài 
                    thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, đạt đến đỉnh cao nhất là Vô 
                    thượng Bồ đề, tức trí giác cao nhất, Ngài quán sát thấy rằng 
                    không có người nào có thể tiếp thu sự hiểu biết mà Ngài đã 
                    chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả sự tuyệt phần này rằng 
                    hàng Nhị thừa hiện hữu trong pháp hội giống như nguời điếc 
                    có tai mà không nghe, như người mù có mắt mà không thấy. Ý 
                    thức sâu sắc điều này để tự biết rằng trên bước đường tu, 
                    khi chúng ta chưa đạt được quả vị của Nhị thừa, không phải 
                    là Bích Chi Phật, không phải là La hán, tất nhiên chỗ ngộ 
                    của mình còn cách Phật xa lắm. Có thể nói rằng dù chúng ta 
                    có học và tu suốt đời cũng không hiểu được Phật. Thật vậy, 
                    Đức Phật cũng khẳng định trong kinh Pháp Hoa rằng nếu tập 
                    hợp tất cả Bích Chi Phật và A la hán nhiều vô số và suốt đời 
                    tìm hiểu Vô thượng Bồ đề của Đức Phật thì cũng không hiểu 
                    được gì. Còn chúng ta đọc vài lần tự cho là đã học, đã hiểu 
                    kinh Pháp Hoa, thì chắc chắn là "Hiểu mà không hiểu", nghĩa 
                    là ta hiểu văn tự, hiểu nghĩa của kinh, nhưng chưa hiểu được 
                    Đức Phật. Phải thấy được Phật, mới hiểu được Phật.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khi Đức Phật chứng quả Vô thượng Bồ đề là đạt 
                    đến hiểu biết cao tột nhất về toàn thể Pháp giới, thì không 
                    ai hiểu được sở đắc này của Phật, chỉ có hàng Bồ tát Nhứt 
                    sanh bổ xứ, tức hàng Bồ tát từ thập địa trở lên là Đẳng giác 
                    và Diệu giác Bồ tát mới tiếp cận được với sở đắc vô thượng 
                    này của Phật.  
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, từ A la hán cho đến hàng Bồ tát thập 
                    địa trở xuống còn không hiểu được trí tuệ của Như Lai thì 
                    làm sao hàng phàm phu chúng ta biết được. Vì không có đối 
                    tượng để truyền trao trí giác, cho nên Đức Phật Thích Ca 
                    muốn nhập Niết bàn. Không riêng gì Đức Phật Thích Ca, lịch 
                    sử cho thấy ngay cả hàng A la hán, thậm chí những vị mới 
                    chứng sơ quả Dự lưu mà các Ngài cũng muốn vào Niết bàn; vì 
                    nói sở đắc của mình cho người khác nghe được rất khó. Mình 
                    hiểu đã khó, mà làm cho người khác hiểu còn khó hơn . Bồ tát 
                    còn kẹt trần sa  hoặc và vô minh hoặc, nên độ chúng sinh rất 
                    khó. Thật vậy, trên bước đường tu, sở đắc trong pháp Phật 
                    làm cho mình sống rất an lạc, nhưng dấn thân hành đạo thì 
                    phải chịu hết khổ này đến khổ khác. Đối với tôi, ngồi yên ở 
                    chùa tu quả là dễ vô cùng, một ngày không ăn cũng không cần 
                    và mình hoàn toàn tự do, muốn nhập thiền bao nhiêu lâu cũng 
                    được, muốn đọc sách đến chừng nào tùy ý. Sống với nội tâm, 
                    với tuệ giác của mình, cảm thấy thú vị lắm chứ. Những vị 
                    chứng quả Dự lưu không còn lệ thuộc việc ăn uống, tức không 
                    bị trạng thái đói khát hành hạ thân tâm, nên họ sống nội tâm 
                    nhiều hơn là sống với bên ngoài và giáo hóa độ sinh, phải 
                    tiếp xúc với Phật tử, khiến họ mất công suy nghĩ những việc 
                    không đáng, làm động tâm. Vì vậy, đắc đạo rồi, nhiều vị 
                    không muốn giáo hóa độ sinh.  
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật đắc đạo, thấy biết cao tột mọi diễn 
                    tiến của muôn loài, của cả vũ trụ bao la và Ngài cũng biểt 
                    rõ tất cả mọi người trong tam giới này không thể học, không 
                    thể hiểu được trí giác ấy, thì làm sao Ngài dạy; cho nên Đức 
                    Phật Thích Ca muốn nhập Niết bàn. Bấy giờ mười phương Phật 
                    xuất hiện để an ủi Ngài rằng chỗ ngộ của Phật Thích Ca đồng 
                    với chỗ ngộ của chư Phật mười phương; nhưng có khác ở điểm 
                    Đức Phật Thích Ca có thân tứ đại, còn chư Phật mười phương 
                    đã xả thân tứ đại và vào Niết bàn rồi, thì làm sao các Ngài 
                    giáo hóa được chúng sinh. Nói cho dễ hiểu, tôi có thân tứ 
                    đại ngũ uẩn, dù nó gây khó dễ cho tôi, nhưng tôi còn đến đây 
                    thuyết pháp, nhắc nhở quý vị tu hành được. Trong khi Sư bà 
                    Huyền Học muốn xuất hiện ở đây để dạy dỗ quý vị cũng không 
                    được, vì Sư bà không còn thân tứ đại ngũ uẩn nữa.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Chư Phật mười phương ở thế giới Thường Tịch 
                    Quang, không hiện hữu trên cuộc đời này, nên các Ngài không 
                    giáo hóa chúng ta được; ngoại trừ những người có căn lành 
                    mới có niềm tin, nghĩ về Phật và đi tìm Phật, thì họ thấy 
                    Phật. Thuở nhỏ, tôi xuất gia cũng nhờ căn lành, tuy chưa 
                    thấy Phật, nhưng trong lòng tin Phật một cách sâu sắc, tôi 
                    mới cố gắng đi từ chùa này sang chùa khác để tìm Phật. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khi Đức Phật Thích Ca thành đạo ở Bồ Đề Đạo 
                    Tràng là chuyển đổi được ngũ uẩn thân thành Pháp thân. Huyền 
                    Giác Đại sư diễn tả ý này rằng huyễn hóa sanh thân tức Pháp 
                    thân. Nghĩa là tu hành, phải chuyển đổi ngũ uẩn thân thành 
                    pháp khí Đại thừa; nếu không thì giữ nguyên ngũ ấm ma, dù có 
                    tu suốt đời cũng rơi vào thế giới ma, tức càng tu thì càng 
                    tham lam, càng hung dữ thêm.  
                  
                  
                    
                    
                                Chuyển hóa ngũ ấm thân thành Pháp thân bằng cách 
                    nào và làm sao chúng ta biết được mình đã chuyền hóa? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật dạy rằng phá được một phần vô minh, 
                    phiền não, nghiệp chướng trần lao thì một phần Pháp thân 
                    hiện ra. Vì phiền não, vô minh và nghiệp chướng trần lao cấu 
                    tạo nên con người phàm phu tội lỗi; cho nên chúng ta phải 
                    phá lần những hạt nhân xấu này để chuyển đổi và có hai cách 
                    chuyển đổi. Một là chuyển đổi tâm trước và phần vật chất sẽ 
                    thay đổi theo. Hai là chuyền đổi vật chất trước và tâm theo 
                    đó thay đổi, phần nào dễ chuyển đổi, chúng ta làm trước. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khi Đức Phật Thích Ca chứng được Pháp thân và 
                    được chư Phật mười phương nhắc nhở phải sử dụng sanh thân để 
                    tiếp cận, giáo hóa chúng sinh. Như vậy, Đức Phật Thích Ca có 
                    sanh thân và Ngài đã chuyển đổi thành Pháp thân. Chuyển đổi 
                    sanh thân thành Pháp thân nghĩa là gì?  
                  
                  
                    
                    
                                Mọi người đều có sanh thân ngũ uẩn giống nhau, 
                    nhưng khác nhau ở công phu tu hành để chuyển đổi sanh thân 
                    thành Pháp thân. Trong ngũ uần sanh thân của chúng ta có 
                    thân vật chất và phần tinh thần. Chúng ta tu trên thân ngữ 
                    uẩn, nhưng từng bước chuyển đổi phần vật chất và tinh thần 
                    trở thành Pháp thân. 
                  
                  
                    
                    
                                Thật vậy khi chưa xuất gia, chúng ta cũng mang 
                    thân này, nhưng cạo tóc, xuất gia và thọ giới rồi, thân vật 
                    chất của chúng ta liền trở thành pháp khí Đại thừa, hay công 
                    cụ của Đại thừa giúp chúng ta truyền giáo. Có thể trên thực 
                    tế, quý thầy cô học chưa bằng ai, nhưng chắc chắn quý vị hơn 
                    các cư sĩ tại gia ở chiếc áo tu hành và quan trọng hơn cả là 
                    hơn người đời ở nếp sống phạm hạnh thanh tịnh. Với hình thức 
                    và đời sống của người xuất gia, người ta biết rõ chúng ta là 
                    người truyền bá Chánh pháp. Như vậy, chúng ta đã chuyển đổi 
                    thân tứ đại của người thế tục bằng cách thay đổi chiếc áo 
                    thế tục và cuộc sống thế tục thành chiếc y Phật và cuộc sống 
                    tu hành phạm hạnh thanh tịnh. Tôi nhờ khoác áo Phật và sống 
                    đời phạm hạnh thanh tịnh, nên tôi giảng dạy, người ta mới 
                    nghe theo và thấy mình giống với Đức Phật hơn.  
                  
                  
                    
                    
                                Và mặc áo Phật, phủi tóc theo Phật, sống trong 
                    chốn già lam là tự khẳng định mình là đệ tử xuất gia của 
                    Phật, chúng ta phải gánh lấy trách nhiệm rất lớn. Nếu ta làm 
                    điều sai trái, sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho đạo Phật; tội 
                    lỗi này khó mà trả nổi. Vì vậy, người tu phải giữ giới luật, 
                    thể hiện tứ oai nghi và sống phạm hạnh thanh tịnh.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Pháp thân Phật do Báo thân kết hợp mà thành, cho 
                    nên chúng ta phát triển Báo thân bao nhiêu thì có được Pháp 
                    thân bấy nhiêu. Báo thân là thân phước đức và trí tuệ, mà 
                    phước đức là do phạm hạnh thanh tịnh tạo nên. Và khi chúng 
                    ta thể hiện được cuộc sống phạm hạnh thanh tịnh, chúng ta 
                    lại hiện tướng giải thoát, tác động cho người nghĩ rằng 
                    chúng ta thay Phật thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, họ 
                    thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, họ mới cung kính cúng dường. 
                    Như vậy, do giữ giới mà thành đức và từ đức hạnh này thành 
                    tựu, chúng ta đã chuyển đổi được một phần thân vật chất ngũ 
                    uẩn thành Pháp thân.  
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên, nếu do giữ giới và sống phạm hạnh 
                    thanh tịnh mà đắc quả vị A la hán, Trí Giả gọi đó là độn căn 
                    La hán. Chúng ta thấy có những vị tu hành tuy không có hiểu 
                    biết nhiều, nhưng nhờ thành tựu giới đức, sống phạm hạnh, họ 
                    được kính trọng Chúng ta nương những vị đức hạnh để rèn 
                    luyện mình thành người đức hạnh là chúng ta mới có được một 
                    nửa Báo thân mà thôi. Một nửa Báo thân còn lại là trí tưệ 
                    cần được phát triển; nhưng muốn tăng trưởng trí tuệ phải tu 
                    tập thiền quán.  
                  
                  
                    
                    
                                Đạo đức do xây dựng bên ngoài và trí tuệ do nội 
                    quán bên trong. Tu giới ban đầu tạo thành đức và tu định tuệ 
                    tác động hỗ tuơng cho nhau. Có định sanh tuệ là tu từ nhân 
                    hướng quả và có tưệ mới định là từ quả hướng nhân.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Như đã nói, đối với chúng phàm phu, khi vừa 
                    thành đạo, Đức Phật Thích Ca nghĩ rằng Ngài không thể truyền 
                    dạy cho họ trí giác vô thượng. Nhưng nhờ chư Phật mười 
                    phương an ủi, Ngài mới nghĩ phương cách sử dụng phương tiện, 
                    tức các pháp môn tu hành, để giúp cho chúng phàm phu phát 
                    sinh trí tuệ và đạo đức.  
                  
                  
                    
                    
                                Khởi đầu, từ Bỏ Đề Đạo Tràng đến Lộc Uyền, Đức 
                    Phật lập giáo khai tông, Ngài chỉ dạy một pháp môn duy nhẩt 
                    là Tứ Thánh đế, tức bốn chân lý. Trong Tứ Thánh đế, Khổ đế 
                    và Tập đế chúng ta phải biết, đi tu quan trọng nhất chúng ta 
                    phải làm là Đạo đế; còn Diệt đế chúng ta chưa chứng.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đối với tất cả Tăng Ni xuất gia học đạo, Đạo đế 
                    thu gọn là 37 trợ học đạo, Đạo đế thu gọn là 37 trợ đạo phẩm, 
                    hay 37 phương tiện giúp chúng ta đắc Thánh quả; đó là giáo 
                    pháp cốt lõi quan trọng ban đầu. Theo Trí Giả đại sư, 37 trợ 
                    đạo phẩm cũng là kinh Pháp Hoa, nhưng là ẩn mật Pháp Hoa, 
                    tức kinh Pháp Hoa tiềm ẩn trong 37 trợ đạo phẩm. Vì kinh 
                    Pháp Hoa là Phật thừa, tiêu biểu cho tuệ giác vô thượng của 
                    Đức Phật Thích Ca mà chúng ta không thề nào hiểu được; cho 
                    nên Ngài phải sử dụng phương tiện huệ là 37 trợ đạo phẩm đề 
                    dìu dắt chúng ta từng bước.  
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, chúng ta học ẩn mật Pháp Hoa, nương 
                    theo phương tiện huệ của Đức Phật là 37 trợ đạo phẩm của Đạo 
                    đế khởi đầu là Tứ niệm xứ quán để dẫn dắt chúng ta vào đâu, 
                    cần phải biết rõ.  
                  
                  
                    
                    
                                Tứ niệm xứ quán gồm có quán thân bất tịnh, quán 
                    thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, sẽ giúp 
                    chúng ta đoạn trừ ái dục, hạn chế quan hệ với cuộc đời, 
                    không chấp vào việc thế gian và quán pháp vô ngã, để cuối 
                    cùng đi đến pháp Xả. Theo ngài Thế Thân, trong ba thọ là khổ 
                    thọ, lạc thọ và xả thọ, lấy xả thọ làm pháp tu hành đề chúng 
                    ta rời bỏ tâm chấp trước.  
                  
                  
                    
                    
                                Thành tựu pháp Tứ niệm xứ quán, chúng ta sẽ 
                    chứng được Hư không thân, sẽ đi vào cảnh giới Phật của hàng 
                    Dự lưu. Hiểu như vậy, chúng ta nỗ lực thực hiện cho được 
                    pháp quán vô ngã, luôn ý thức mọi việc trên thế gian này là 
                    giả hợp mà thành, không có gì thật sự là ta, là của ta để 
                    chứng được Hư không thân. Và khi thân chúng ta như hư không, 
                    thì người có đánh mắng, mình trụ ở hư không, không trụ sắc 
                    thân, chắc chắn sẽ được giải thoát. Nếu trụ sắc thân, thí dụ 
                    như ta trụ trì chùa, khi chùa xuống cấp, hoặc bị chiếm giữ, 
                    chúng ta liền sanh tâm chấp giữ, buồn khổ, đấu tranh, v.v... 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật dạy chúng ta bất trụ sắc sanh tâm, bất 
                    trụ thanh, hương, vị xúc pháp sanh tâm, cho đến Ưng vô sở 
                    trụ sanh tâm, nghĩa là hoàn toàn không có sự chấp thủ nào cả 
                    mới được tự tại giải thoát thật sự. Đa số chúng ta khó thực 
                    hiện điều này, vì chúng ta sợ mất của cải, cho đến sợ mất 
                    thân mạng. Nhưng thử nghĩ xem tất cả mọi người đều phải chết, 
                    tài sản mất trước và thân mạng mất sau; cần phải luôn giác 
                    ngộ sự thật này.  
                  
                  
                    
                    
                                Trên bước đường tu, đạt được Ưng vô sở trụ sanh 
                    tâm là sanh được bốn tâm vô lượng, từ bi hỷ xả. Ai làm gì 
                    tổn hại, mình tha thứ bỏ qua. Đối với tôi ai khinh chê, chửi 
                    mắng, tôi lấy đó làm phương tiện hành đạo. Họ nói xấu, mình 
                    có mình mới sợ; nếu mình không có lỗi thì họ phải nợ mình và 
                    phải sợ mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Nếu tu thuần Tứ niệm xứ quán, trụ ở Không tâm, 
                    hay Ưng vô sở trụ sanh tâm, tức sanh tâm ở chỗ không trụ 
                    pháp, không trụ vật chất, nên đạt giải thoát. Đó là thành 
                    tựu pháp Tứ niệm xứ quán, có tâm nhẹ nhàng như hư không, mới 
                    phát triển pháp Tứ chánh cần là bốn việc siêng năng làm. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong thiền quán, chúng ta đã được an lạc, giải 
                    thoát nhưng xả thiền, đi vào cuộc đời thì không giống trong 
                    thiền định. Vì trong thiền định, chúng ta muốn sao được vậy, 
                    mọi điều diễn ra hoàn toàn theo ý muốn chúng ta; còn ở thực 
                    tế cuộc sống, đâu có việc gì cũng theo ý chúng ta, chúng ta 
                    muốn mà không được, vì phải đối diện với nghiệp và phiền não 
                    của người, của mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhờ đã thực tập Tứ niệm xứ quán vững vàng, chúng 
                    ta đi vào đời và đối cảnh, mới biết để thực hiện đúng đắn 
                    pháp Tứ chánh cần. Tâm xấu ác như ghét ganh, ty hiềm, hơn 
                    thua, hại người, v.v... chưa sinh ra, chúng ta có thể tránh 
                    mặt nguời để không cho tâm xấu này khởi lên. Tâm xấu ác đã 
                    sinh ra, phải xóa ngay, bằng cách niệm Phật, hoặc dùng pháp 
                    khác để quán tưởng. Trên bước đường tu, cần phải cọ xát với 
                    thực tế mới phát huy được pháp hành, mới tạo được công đức. 
                    Điều thiện đã sinh ra, nói cụ thể là càm tình tốt đẹp của 
                    người đành cho ta vì ta đã giúp đỡ họ, thì cần phát triển 
                    thiện cảm này. Điều tốt chưa sinh, chưa làm tốt cho người, 
                    nên cố gắng gieo trồng hạt giống lành này.  
                  
                  
                    
                    
                                Phải nói rằng nhờ có trí tuệ chúng ta mới nhận 
                    ra điều thiện đề phát huy và điều xấu đề từ bỏ. Như vậy, có 
                    trí tuệ là thiện và không có trí tuệ là ác. Và cuối cùng 
                    Phật dạy rằng tịnh là thiện và động là ác. Tâm chúng ta vọng 
                    động thì dù có làm việc tốt cũng thuộc vọng tâm, nên có tạo 
                    được phước thì càng ở trong vòng nghiệp và quả báo. Thí dụ 
                    xây chùa cho người tu, mình được phước; nhưng nếu đầu tư 
                    công sức vào việc này, mình cũng phải tính toán, đối phó, lo 
                    lắng, buồn phiền...; tâm đâu có an lạc giải thoát. Thực tế 
                    cho thấy chúng ta lăn xả vào đời vì thương chúng sinh, muốn 
                    cứu giúp họ; nhưng rõ ràng chúng ta bị thiệt thòi rất nhiều, 
                    vì chúng ta dễ bị trần ai làm ô nhiễm.  
                  
                  
                    
                    
                                Tóm lại, học kinh Pháp Hoa, chúng ta cần có cái 
                    nhìn tổng quát, nhận ra Tứ Thánh đế, giáo pháp cốt lõi ban 
                    đầu của Đức Phật chỉ dạy, cũng chính là kinh Pháp Hoa với 
                    tên gọi là ẩn mật Pháp Hoa, vì đã tiềm ẩn những hạt nhân cần 
                    thiết để dẫn dắt tất cả hàng đệ tử Phật vượt qua 500 do tuần 
                    đường hiểm, từng bước đến cứu cánh vô thượng Bồ đề. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                HT.Thích Trí Quảng
                  
                  
                    
                    
                                (Bài giảng tại trường hạ chùa Vĩnh Phước ngày 
                    7-6-2008)
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nguồn: Báo Giác Ngộ số 439 & 440
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người gửi bài: Tịnh Tú: phatphap.wordpress.com & 
                    phatphapnhiemmau.com
                    
                  
                  
                    
                    
                                07-13-2008 11:12:46