|     | 
  
           
  | 
              BỒ TÁT HẠNH 
             
                
                   Ý Nghĩa
                   Vía Phật - 
                  Bồ Tát Trong Năm
                   ---o0o--- 
                  HÀNH TRÌNH 
                  CUỐI CÙNG 
                  CỦA ĐỨC PHẬT 
                  Thích An Hải 
                  --o0o--
                  
                
                 
                Theo Kinh Đại 
                Viên Tịch Niết Bàn (Mahapannibbàna Sutta) Bài Kinh Thứ 16, 
                Trường Bộ Kinh (Dighamikaya), tạng Pàlì.- Vào năm 80 tuổi, tâm 
                đức Phật vẫn toả sáng, nhưng thân thể suy yếu, ngài chưa chùn 
                bước truyền dạy giáo Pháp hoá độ chúng sanh. Hành trình cuối 
                cùng của đức Phật từ núi Gijjhakùta (Linh thứu), cận thành 
                Rajagha, Kinh đô xứ Magadha (Ma Kiệt Đà), đức Phật cùng tôn giả 
                Aønandà, đi bộ đến thành Kusinàrà, rừng TaLa Song Thọ.
                Mặc dù đức 
                Phật dừng lại nhiều nơi để nghỉ ngơi và thuyết pháp. Nhưng đây 
                là con đường dài mệt mỏi đối với người khỏe mạnh huống chi thân 
                ngài già yếu. Đó cũng là sự thể hiện tác phong trì bình khất sĩ 
                độ sanh, truyền thống đặc biệt của một bậc thầy gương mẫu thời 
                xưa. Rồi ngài cũng đến thành Vesali (Tỳ xá li).
                Trước khi đi, 
                tại núi Gijjhakùta (Linh thứu), đức Phật thuyết bảy pháp bất 
                thối của một quốc gia và của giáo hội cho sứ giả của vua 
                Ajàtasattu (A xà thế) là Vassakàra và hội chứng tỳ Khưu Tăng 
                nghe như những lời dặn bảo cuối cùng cảm động dưới ánh sáng trí 
                tuệ của bậc đại thánh giả, nhưng không có vị nào hiểu ý đức Phật 
                sắp nhập diệt. Người ta chỉ ca ngợi nội dung hai bài pháp bất 
                thối cho đời cho đạo. Đức Phật bao giờ cũng thế không áp đặt ai 
                phải tu theo, ngài vạch rõ con đường đi xuống là đau khổ, đi lên 
                là hạnh phúc, tuỳ người nghe chọn lựa.
                Đức Phật rời 
                Rajagha, cùng đại đức Aønandà đi đến AmpalathiKa, rồi từ đó đến 
                NaLanda. Nơi đây ngài ngự tại vườn xoài Bàvàrika. Trong dịp này 
                Đại đức Sariputta (Xá Lợi Phất) đến hầu Phật và tán dương trí 
                tuệ xuất thế của bậc đại giác. Thay vì chấp nhận, đức Phật nhắc 
                đến pháp tu diệt trừ Năm triền cái, trú tâm vào Tứ Niệm Xứ, phát 
                triển Thất giác chi, dẫn đến quả Chánh đẳng giác của một vị 
                Phật.
                Từ Nàlandà, 
                đức Phật lần hồi đi đến Pàtaligàma. Nơi đây đức Phật thuyết 
                giảng cho chúng tăng nghe 5 điều nguy hại của sự phá giới và 5 
                điều lợi ích của sự giữ giới. Tại xứ này có hai vị đại thần 
                vương quốc Ma Kiệt Đà là Sunìdha và Vassàkàra, đang chỉ huy dân 
                quân xây thành đắp luỹ để phòng thủ người Vajjan, lúc ấy rất 
                hùng cường thịnh vượng. Đức Phật và tôn giả Aønanda trú trong 
                một căn nhà bỏ trống, nhận thấy Chư Thiên xuất hiện đây đó khắp 
                vùng, ngài nói đó là điềm Kiết tường, trú địa này sau sẽ thành 
                một thị trấn bậc nhất, một trung tâm thương mại lớn có tên gọi 
                là Pàtaliputta và sẽ bị ba nạn nước lửa và phân tranh. Hai vị 
                đại thần Vương quốc Ma Kiệt Đà và dân chúng thỉnh đức Phật và 
                đại chúng tăng về nhà thọ thực. Xong rồi đức Phật nói lên kệ tuỳ 
                hỉ: “Dầu cư trú nơi nào, người khôn ngoan sáng suốt luôn thận 
                trọng, hết lòng nâng đỡ nhau, đó là những người tốt biết tự kiểm 
                soát, hồi hướng phước báu đến những vị trời cư ngụ trong vùng 
                (...) Người được Chư Thiên chiếu cố sẽ hưởng nhiều may mắn!
                Hai vị đại 
                thần thuận theo ý dân chúng đặt tên cổng thành này là cổng 
                Gotama để kỷ niệm và chuẩn bị một chiếc đò đưa đức Phật và chư 
                tăng qua sông, vì sông Hằng lúc ấy nước dâng cao, nhưng đức Phật 
                cùng các thánh đệ tử dùng thần thông bay qua sông.
                Đức Phật ít khi dùng thần thông, 
                tránh xáo động tâm lý hiếu kỳ, có lẽ lần này quá gấp rút, quỹ 
                thời gian của ngài sắp cạn.
                Từ bờ sông 
                Hằng, đức Phật đi đến Kotigàma. Tại nơi đây, đức Phật cho biết 
                do không thấu triệt chơn lý Tứ đế nên chúng sanh phải khổ đau. 
                Những ai thông hiểu và giác ngộ Tứ Đế, sẽ đoạn tận khổ căn sanh 
                tử.
                Từ Kotigàma, 
                đức Phật đi đến Nàdika, tại đây ngài ngự trong lò gạch trống 
                hoang. Nhân dịp này, đại đức Aønanda, đến gần đức Phật cung kính 
                hỏi thăm về nơi tái sanh của những người trong làng đã quá vãng. 
                Đức Phật kể lại số phận từng người rồi ngài thuyết kinh Gương 
                Chánh pháp (Dhammàdàsa), nói về gương lành của đệ tử đặt trọn 
                niềm tin nơi đức Phật, đặc tính của pháp và đức hạnh hoàn hảo 
                của Chư tăng. Suy niệm sáng tõ về Tam bảo, trau dồi phẩm hạnh 
                cao thượng với những giới đức đưa đến giải thoát, được bậc thiện 
                trí khen ngợi người thoát ly mọi dục vọng, tâm an ổn trong thiền 
                định, chứng đạt pháp nghĩa, do vậy vị thánh đệ tử nhận biết viễn 
                ảnh của mình.
                Từ làng 
                Nàdika, đức Phật đi đến thành Vesàlì phồn thịnh, trú tại vườn 
                xoài của cô kỹ nữ Ambapàli. Người có một nhan sắc kiều diễm hấp 
                dẫn đến độ đức Phật thận trọng khuyên nhắc chư tăng nên chú tâm 
                chánh niệm tỉnh giác. Đức Phật nhận lời thỉnh cầu cúng dường 
                trai tăng của Ambapàli, khước từ lời thỉnh cầu đến sau của các 
                thanh niên quyền quý Licchavì. Họ thương lượng với cô, nếu cô 
                nhường bữa cúng dường trai tăng cầu phúc nầy, cô sẽ được đền bù 
                một số tiền lớn, cô và gia nhân có thể ngồi không hưởng thụ suốt 
                đời. Chẳng những cô không khứng chịu còn phát tâm tịnh tín cúng 
                dường Phật và chư tăng khu vườn xoài rộng lớn thanh lịch để làm 
                Tinh xá. Sau đó cô xin Phật cho xuất gia làm nữ tu, tinh tấn tu 
                hành chứng đệ tứ thánh quả an lạc.
                Từ thành 
                Vesali, đức Phật đi đến làng Beluvà, một ngôi làng nhỏ bé cận 
                thành, đức Phật quyết định an cư mùa mưa tại đây.
                Trong khi an 
                cư, đức Phật lâm trọng bệnh, ngài khắc chế bệnh trạng bằng thiền 
                định hưởng thọ hạnh phúc Niết bàn. Tôn giả Aønanda biểu lộ sự 
                quan tâm ghi nhận lời “Di giáo” của đức Thế tôn khuyên nhủ tế 
                nhị rất quan trọng, bộc lộ rõ tính chất của Tam bảo, đáng lưu ý:
                - Chúng Tỳ 
                khưu, còn mong mỏi gì nữa nơi Như Lai? Như Lai đã thuyết giảng 
                Chánh pháp không có sự công truyền và bí truyền. Như Lai không 
                bao giờ là vị đạo sư còn bàn tay nắm lại. Nếu nghĩ rằng: “Như 
                Lai sẽ là vị lãnh đạo của chúng Tỳ khưu hay chúng Tỳ khưu chịu 
                sự giáo huấn của Như Lai. Như Lai sẽ có lời Di giáo cho chúng Tỳ 
                khưu.
                - Này Ànanda, 
                tuổi 80 đủ rồi. Như cổ xe đã cũ kỹ mà còn chạy được bởi các dây 
                chằng chịt cột các bộ phận lại. Thân Như Lai cũng như thế đó, sự 
                sống được duy trì nhờ những sợi dây ràng rịt đó!
                - Này Ànanda, 
                chỉ khi nào Như Lai không suy niệm đến tất cả tướng, với sự diệt 
                trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi 
                ấy thần trí Như Lai được thoải mái.
                - Này Ànanda, 
                thế nào là vị Tỳ khưu biết tự mình là ngọn đèn cho chính mình, 
                tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác; dùng chánh 
                pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không 
                nương tựa một gì khác.
                - Này Ànanda, 
                một vị Tỳ khưu sống chuyên cần tinh tấn, giác tỉnh, chánh niệm, 
                từ khước mọi tham ái trong thế gian, luôn phát triển tâm định 
                với thân-thọ-tâm-pháp.
                - Này Ànanda, 
                sau khi Như Lai viên tịch thì vị ấy là tối thượng trong hàng Tỳ 
                khưu, nếu vị ấy vẫn thiết tha học hỏi.
                Người chỉ 
                nương tựa chính mình không nương tựa giáo pháp Phật là bậc Độc 
                giác, điều này rất hiếm, phần đông rơi vào giả ngã ảo kiến. 
                Người nương tựa giáo pháp không nương tựa chính mình thì chỉ có 
                hình thức, nội dung rỗng vì tâm lý không gạn lọc. Ý của Phật là 
                các đệ tử phải nương tựa giáo pháp của ngài soi rọi tự tâm, hành 
                giả giác ngộ chân tánh diệu dụng.
                Một ngày kia, 
                đức Phật vào thành Tỳ Xá ly trì bình, độ ngọ tại đền Kàpàla, 
                ngài nhiều lần nói cho tôn giả Ànanda nghe, người tu chứng Tứ 
                thần túc có thể kéo dài tuổi thọ thêm một kiếp hay hơn nữa.(Tân 
                Đầu lư phả Tỳ Khưu tu chứng pháp này kéo dài tuổi thọ đến 600 
                năm). Nhưng tôn giả Ànanda không hiểu Phật ý, ngay lúc ấy không 
                thỉnh Phật Chuyển pháp luân. Đức Phật thông báo: “Ba tháng nữa 
                Như Lai sẽ nhập diệt. Ngài nói kệ:
                “Mạng sống 
                hữu hạn hay vô hạn
                Tu sĩ từ bỏ 
                không kéo dài
                Nội tâm 
                chuyên nhất tu thiền định
                Như thoát áo 
                giáp đang mặc!” 
                Tức thì đại 
                địa chấn động, sấm trời vang dội, tôn giả Ànanda nghẹn ngào cảm 
                xúc nói: “Đức Thế tôn, có Tứ thần túc, xin vì sự tốt đẹp, hạnh 
                phúc của tất cả, con thỉnh cầu ngài sống thêm một kiếp nữa!”. 
                Đức Phật trả lời: “Đã đủ rồi ! Nầy Ànanda không nên khẩn cầu Như 
                Lai nữa!”... Đức Phật giảng về tính cách vô thường của đời sống!
                Tin tức được 
                truyền đi nhanh như một cơn bão cao tốc; hàng ngàn đệ tử xuất 
                gia, hàng vạn đệ tử tại gia khắp mọi miền đất nước có in dấu 
                chân giáo hoá của đức Phật, người ta sửng sốt nhìn nhau hỏi: “- 
                Đức Thế tôn, một bậc đạo sư gương mẫu, thương chúng đệ tử như 
                cha hiền thương con dại sẽ ra đi thật sao!” - Chỉ có những vị 
                thánh đệ tử chứng đạo hiểu rõ lý vô thường trầm tư im lặng! Gió 
                như ngừng thổi, cây rừng rủ lá, chim không hót!
                - Đức Phật đi 
                đến giảng đường Kùtagàsa, tại khu đại lâm, ngài bảo tôn giả 
                Ànanda, triệu tập chư Tỳ Khưu đang cư trú quanh thành Tỳ Xá ly, 
                đến nghe ngài nói những lời vô cùng quan trọng với Chư Tăng:
                - Này chư Tỳ 
                Khưu! Với 37 phẩm trợ đạo, nhân sanh quả giác ngộ, chính Như 
                Lai  đã giác ngộ và thuyết giảng, hội chúng khéo học hỏi, thực 
                hành, trau dồi phát triển đầy đủ, truyền bá nếp sống phạm hạnh 
                cao quí đem lại lợi lạc cho chúng sanh cõi người và cõi trời. 
                Này chư Tỳ Khưu, đây là lời ta nhắn nhủ: “Các hành là vô thường, 
                hãy tin tấn lên để tự giải thoát.”
                Đức Phật nhìn thành Tỳ Xá ly lần 
                cuối cùng rồi đi với đại đức Ànanda đến làng Bhandagàma. Tại nơi 
                đây đức Phật lại cho biết, do không thấu triệt Tứ đế, tất cả 
                chúng sanh phải khổ đau. Người thông hiểu và giác ngộ Tứ đế, sẽ 
                đoạn trừ được khổ căn sanh tử. Ngài nói kệ:
                
                “Giới-định-tuệ là giải thoát tối thượng
                Như lai đã 
                thành tựu những điều ấy
                Đã truyền dạy 
                giáo lý cho chúng Tỳ Khưu
                Bậc đạo sư đã 
                chấm dứt phiền não khát vọng!”
                Đi từ Làng 
                này đến Làng khác; một hôm đức Phật dừng chân tại Bhoganagara, 
                trú vào đền Ànanda, thuyết pháp thoại Mahàpadasa, Bốn điều tham 
                chiếu lớn. Thật ra chỉ có một điều tham chiếu áp dụng cho 4 nơi 
                phát sinh những pháp ngữ của đức Phật. 1). Tỳ Khưu được nghe từ 
                miệng đức thế tôn nói...2). Tỳ Khưu nói tự thân được nghe và thọ 
                lãnh từ nơi Tăng chúng lời Phật...3). Tỳ Khưu được nghe và thọ 
                lãnh từ nơi nhiều vị Trưởng lão tôn túc đa văn biết giữ gìn 
                truyền thống và thọ trì pháp luật đã nói...4). Một vị Tỳ Khưu 
                nói chính tự thân được nghe và thọ lãnh từ một vị Trưởng lão đa 
                văn biết giữ gìn truyền thống và thọ trì pháp luật đã nói... Đây 
                là giáo lý, đây là giới luật, đây là giáo huấn của đức bổn sư.- 
                Những lời ấy, không nên chấp nhận, không nên gạt bỏ ngoài tai, 
                mà phải nghiên cứu tận tường từng chữ, từng tiếng rồi hãy đối 
                chiếu với kinh và luật. Nếu khi so sánh kỹ càng con nhận thấy nó 
                không phù hợp với kinh và luật, con có thể kết luận:- Chắc chắn 
                đây không phải Phật ngôn; Vị ấy hiểu sai con hãy loại bỏ những 
                lời ấy!- Nếu khi so sánh và đối chiếu, những lời ấy phù hợp nhất 
                trí với kinh và luật, con có thể kết luận: “Chắc chắn là Phật 
                ngôn, vị ấy đã hiểu đúng!”
                Ngày nay đệ 
                tử Phật áp dụng 4 điều tham chiếu lớn này trắc lượng từ bốn 
                phương tám hướng, tức muôn vạn trường hợp khẳng định xuất xứ 
                Phật ngôn; nếu không, sẽ bị sai lầm đáng tiếc. Vàng thau lẫn 
                lộn, những trò ma giáo lừa bịp đã xảy ra để thủ lợi khá nhiều 
                rồi.
                Từ 
                Bhoganagara, đi đến Pàvà, đức Phật trú tại vườn xoài của thợ rèn 
                Cunda,(Thuần Đà) Cunda đã cung thỉnh đức Phật cùng hội chúng 
                Tăng về nhà thọ thực. Với tâm rất trong sạch, Cunda dâng lên đức 
                Phật một vật thực đặc biệt gọi là Sùkaramadda. Có chỗ nói, đó là 
                thịt con heo rừng không già lắm cũng không non tơ, không phải 
                gia chủ cố ý giết nó để dâng lên đức Phật. Có chỗ nói đó là tên 
                của một loại nấm rất ngon. Theo lời chỉ dạy của đức Phật, gia 
                chủ chỉ cúng dường vật thực ấy, sau khi chế biến xong đến ngài, 
                phần còn lại đem chôn sâu xuống lòng đất, vì không ai có thể 
                tiêu hoá được vật thực này. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau và đặt 
                dấu hỏi tại sao đức Thế tôn bảo thế? Tuy nhiên lời chỉ giáo của 
                đấng đạo sư được gia chủ nghiêm túc thực hành.
                Thọ thực 
                xong, ngài bị ngộ độc lâm bệnh lỵ huyết rất nặng, ngài kham nhẫn 
                chịu đựng, dùng thiền định khắc chế cảm giác đau đớn nên thần 
                sắc an nhiên.
                Mặc dù yếu 
                lắm, đức Phật nhất quyết đi bộ đến Kusinàra, nơi ngài sẽ nhập 
                diệt, độ đường khoảng 3 do tuần (9 Km). Chư tăng định võng ngài 
                đi, tác phong của Như Lai không phải thế, Ngài không đồng ý. 
                Đoạn đường cuối cùng có kinh sách ghi chép, ngài phải ngừng nghỉ 
                đến 25 lần. Có một lần ngài dừng lại dưới tàng cây cổ thụ bảo 
                đại đức Ànanda đi tìm nước uống đỡ khát. Đại đức Ànanda, khó 
                khăn lắm mới tìm được một dòng suối nhỏ, nơi ấy có 500 cỗ xe bò 
                vừa đi qua. Nhưng lạ thay, khi đại đức Ànanda đến, nước đục ngầu 
                trở thành trong trẻo.
                Nghiên cứu 
                đến đây chúng tôi đau lòng rơi nước mắt. Đấng đạo sư vì cứu khổ 
                sinh tử cho chúng sinh mà khổ thế. Người đời nay nói là nối chí 
                ngài mà hưởng thụ vật chất phù hoa thái quá, lệch hướng không!
                Lúc bấy giờ 
                có người tên Pukkusa, thuộc dòng họ Malla. Đệ tử của 
                Àlàvakàlama, đang đi trên đường thấy đức Phật hào quang toả sáng 
                ngưỡng mộ vội đến xin đảnh lễ, tõ ý thán phục thái độ trầm lặng 
                từ bi của ngài.- Sau khi nghe đức Phật thuyết về thiền định 
                thanh tịnh không xao động của người chánh niệm tỉnh giác, 
                Pukkusa tâm đắc, dâng lên ngài hai bộ y kim tuyến sắc vàng óng 
                ánh. Vâng lời đức Phật, Pukkusa cúng dường ngài một bộ và một bộ 
                trân trọng dâng đến đại đức Ànanda.
                Sau khi đại 
                đức Ànanda, mặc y kim tuyến cho đức Thế tôn, sửng sờ thấy màu da 
                của ngài sáng ánh rỡ ràng. Khoa học cho biết người thanh lọc tâm 
                trong sạch, máu cũng trong sạch làm cho da ánh lên màu tinh 
                khiết. Đức Phật nói: “Có hai trường hợp màu da của ngài rực sáng 
                khác thường là đêm thành đạo và đêm viên tịch!”- Tôn giả Ànanda 
                vô cùng đau xót!”
                Đức Phật cũng 
                cho biết rằng, đêm ấy vào lúc canh ba, ngài sẽ tịch diệt trong 
                khu rừng Sala (Long Thọ), thuộc tiểu Vương quốc Mallà, giữa hai 
                cây Sàla, gần thành Kusinàra!
                Đức Phật tắm 
                lần cuối nơi dòng sông Kakuttha thật thoải mái. Sau đó, ngài nói 
                với đại đức Ànanda, trong đời ngài có hai bửa cơm vô cùng phúc 
                báu là vật thực cúng dường Bồ tát trước khi chứng quả chánh giác 
                và vật thực cúng dường lần cuối trước khi Như lai viên tịch.
                Này Ànanda, 
                rất có thể có người làm cho Thuần Đà hối hận. Cần phải làm tiêu 
                tan sự hối hận ấy. Phải nói như thế nầy:-“Hiền giả, thật lợi ích 
                và công đức cho ông, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ 
                ông cúng dường và nhập diệt. Chính tôi tự thân lãnh thọ lời nói 
                này của đức Thế tôn (...) Ông thật có nhiều phúc báo tốt đẹp 
                trong tương lai như tái sanh nhàn cảnh, tuổi thọ cao, gặt hái 
                nhiều may mắn danh vọng trong cảnh vua chúa cõi Trời, cõi 
                Người.”
                Lần hồi đức 
                Phật và tôn giả Ànanda vượt qua sông Hiramàvati, đến Kusinàra, 
                vào giữa khu rừng Sàla, của dòng họ Mallà.- Ngài  nằm nghỉ giữa 
                hai tàng cây Long Thọ, đầu hướng về phía bắc, với hình dáng nằm 
                của sư tử chúa sơn lâm và chánh niệm tỉnh giác, nhìn những hoa 
                Long thọ trổ sai mùa rơi rơi xuống. Từ trên cao hoa Mandàrana 
                (Mạn đà la, một loại sen quí của cõi trời), Chư Thiên rắc xuống 
                quanh ngài. Những tiếng nhạc du dương của Thiên giới trổi lên 
                cúng dường Phật. Ngài nói: “Như thế, chưa phải thiết thực tôn 
                trọng, kính cẩn, sùng bái làm vẻ vang Như Lai. Chỉ có đệ tử nào 
                hành trì thành tựu chánh giác vô thượng, tuỳ pháp, sống thực lợi 
                ích chúng sanh, người ấy biết tôn trọng, kính cẩn làm vẻ vang 
                Như Lai.”
                Ngày nay, có 
                những ông cha bà mẹ sống mòn mỏi ở một xóm nghèo, suốt đời không 
                biết đến nhạc cổ truyền dân tộc, nói chi đến những làn điệu cách 
                tân. Vừa nhắm mắt lìa đời con cháu rước nhạc Tây, nhạc Tàu đến 
                làm rùm beng. Hoặc có những ông sư sống hẩm hiu dưa muối nơi 
                chùa quê, viên tịch, các đệ tử làm đám lớn, cúng dường trai 
                tăng, chẩn bần, hát Phật...tiền muôn bạc vạn, thật lạ lẫm với 
                Phật ý. Tại sao là Phật tử, người ta cứ biểu dương các pháp hữu 
                vi vô thường, khi vô thường đến, không hành trì thành tựu chánh 
                giác vô thượng dẫn dắt hương linh cha mẹ, đền ơn thầy tổ đạt đến 
                đỉnh cao chân thường an lạc!
                Lúc bấy giờ 
                Đại Đức Upavàna, đến đứng trước Thế tôn tõ ý buồn. Với giọng từ 
                bi cố hữu, ngài bảo Đại Đức Upavàna nên đứng sang một bên, Đại 
                Đức Ànanda thấy vậy rất ngạc nhiên vì trước kia Đại Đức Upavàna, 
                từng là một thị giả cung kính phục vụ đức Phật. Ngài giải thích, 
                “Các con phải biết, hiện giờ có nhiều vị Trời đến tề tựu chung 
                quanh nơi đây và than phiền về sự che áng của Đại Đức Upavàna.”
                Kế tiếp, đức Thế tôn đề cặp đến 
                4 thánh tích ghi dấu đậm nét đến đời sống của một đức Như Lai 
                như sau:
                -        
                Nơi Bồ Tát đản sanh -Vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), giáp với 
                Tây Tạng.
                -        
                Nơi đức Phật Thành đạo - Buddha Gaya, cách nhà ga xe lửa 
                Gaya khoảng 10 Km.
                -        
                Nơi đức Phật Chuyển pháp luân – Isipatana, nay là 
                Sarnath.
                -        
                Nơi đức Phật diệt độ - Kusinàrà, nay là Kasi, cách nhà ga 
                Gorakhpur 40 Km. 
                Ngài cho 
                biết, những ai đang đi chiêm bái một trong những thánh tích ấy 
                với tâm tịnh tính, nếu từ trần sẽ tái sanh vào nhàn cảnh.
                Đức Thế tôn khen ngợi 4 đức tánh 
                của tôn giả Ànanda, tương xứng một bực Chuyển luân thánh vương 
                như sau:
                - Chúng Tỳ 
                Khưu Tăng luôn hoan hỉ khi được yết kiến Đại Đức Ànanda; sẽ hoan 
                hỉ khi được nghe Đại Đức Ànanda thuyết pháp và sẽ thất vọng buồn 
                nản khi Đại Đức im lặng.
                - Chúng Tỳ 
                Khưu Ni và Cư sĩ tại gia luôn hoan hỉ khi được yết kiến Đại Đức 
                Ànanda, sẽ luôn hoan hỉ khi được nghe Đại Đức Ànanda, thuyết 
                pháp và sẽ  thất vọng buồn rầu khi Đại Đức làm thinh.
                Trong bầu 
                không khí khẩn trương căng thẳng, lời nói Đức Thế tôn như một 
                luồn gió thoảng nhẹ nhàng êm mát. Ngay khi ấy bên ngoài có tiếng 
                ồn náo, vì một Du sĩ tên Subhadda, ( Tu Bạt Đà La). Tuổi thọ rất 
                lớn nói:
                - Lâu lắm mới 
                có một đấng Thế tôn toàn giác xuất hiện trên thế gian. Vào canh 
                chót đêm nay ngài sẽ nhập diệt. Tôi có đôi điều hoài nghi muốn 
                hỏi, ngài sẽ giảng dạy giáo pháp để đánh tan mối hoài nghi của 
                tôi, có thể quí thầy cho tôi vào gặp ngài trong giây lát?
                Tôn giả 
                Ànanda nói, đạo hữu chớ nên làm rộn, Thế tôn đã mệt mỏi lắm! Tu 
                Bạt Đà La tiếp tục cầu xin, tôn giả Ànanda tiếp tục từ chối và 
                đến lần thứ ba, đức Thế tôn nghe được, bảo tôn giả Ànanda, vị 
                đạo sĩ ấy do vì muốn hiểu biết chớ không phải làm phiền, nên cho 
                ông vào hỏi ngài giải đáp ông sẽ lãnh hội mau chóng.
                - Bạch đức 
                Thế tôn, tất cả những giáo sĩ đương thời có thông suốt chơn lý 
                như các ngài nói hay không, hay chỉ có vài vị thông suốt, còn 
                các vị khác thì không?
                - Hãy để yên 
                đó Tu Bạt Đà La, không nên bận trí với những việc như thế! Trong 
                bất luận giáo đoàn nào nếu không có Bát thánh đạo thì cũng không 
                có bốn quả Sa môn. Nếu có người hành đúng giáo lý ấy, với đời 
                sống chơn chánh, thế gian sẽ không vắng bóng các bậc thánh 
                ALaHán
                Năm hai mươi 
                chín tuổi, Như lai đã ra đi tìm những gì tốt đẹp nhất. 51 năm đã 
                trôi qua kể từ ngày đắp y mang bát, ta là một tu sĩ tịnh tâm tu 
                đức.
                Ánh sáng trí tuệ bừng lên với 
                nhận thức chính xác, Tu Bạt Đà La quì xuống bái bạch:
                - Lành thay, 
                đức thế tôn! Tựa hồ như có người sửa lại ngay ngắn một vật đã 
                lật đổ, hay khám phá một vật đã được dấu kín (...) giáo lý đức 
                thế tôn truyền dạy làm cho tâm con tỏ sáng. Xin phép ngài cho 
                con thọ lễ quy y Phật, Pháp, Tăng. - Đức Phật dạy:
                - Này Tu Bạt 
                Đà la, người xuất gia làm Tỳ Khưu phải trải qua một thời gian 
                thử thách. Tuy nhiên, do sự hiểu biết của con hôm nay, Như lai 
                sẽ mở ra một biệt lệ.
                Sau đó, đức 
                Phật bảo tôn giả Ànanda làm lễ xuất gia cho Tu Bạt Đà la, vị lão 
                Tỳ Kheo này đã kiên trì tinh tấn tu tập chứng ngộ chân lý trong 
                những ngày cuối cùng của cuộc đời sống an lạc.
                Việc đức Phật 
                giảng giải, quyết trạch cho Du sĩ Tu Bạt Đà La có ý nghĩa trong 
                hay ngoài đạo Phật, nơi nào không có Bát thánh đạo thì không có 
                Tứ quả Sa môn, đủ thấy hiệu quả của Bát thánh đạo là như thế 
                nào. Bát thánh đạo là Diệu đế thứ tư trong Tứ Diệu Đế. Kể từ khi 
                Sơ chuyển pháp luân đến nhập diệt, giáo lý ngài tuyên thuyết rất 
                nhiều, nhưng không ngoài Bát thánh đạo. Bát thánh đạo có ý nghĩa 
                như luân lý, triết lý, đạo đức, giới định tuệ, từ đây làm cho 
                tâm lý hành giả phát sinh con đường Trung đạo đến Bồ Đề Niết 
                Bàn. Thế mà ngày nay có một số vị đàm huyền luận diệu uyên bác, 
                nhưng không thực hành Bát thánh đạo trong đời sống hằng ngày, đủ 
                biết họ đã đi sai đường Phật đã đi.
                Xin đừng nhầm 
                Tu sĩ Bạt Đà La quy y cuối cùng này với đức Phật và một Tu sĩ  
                Tu Bạt Đà La đã quy y trước cũng lớn tuổi xuất gia, sau khi đức 
                Phật nhập diệt đã thốt: “ Đức Phật nhập diệt không có gì đáng 
                phiền muộn, từ đây chư Tỳ Khưu muốn làm chi thì làm, không sợ ai 
                khiển trách.” Câu nói ấy làm nhân duyên cho đức Kassapa (Ca 
                Diếp), triệu tập chư thánh tăng kết tập Tam tạng Kinh điển, ba 
                tháng sau khi Phật nhập diệt.
                Suy cho cùng 
                ông Tu Bạt Đà La tu hành chơn chánh và ông Tu Bạt Đà La nói lời 
                quấy quá đều là ân nhân cho chúng đệ tử đời sau có gương tốt để 
                soi, có kinh luật luận để tu học!
                Đại đức Ànanda, bạch với đức Thế 
                tôn:- Sau khi đức thế tôn diệt độ, nhục thể phải được tôn trọng 
                thế nào?- Đức Phật dạy những lời tối hậu:
                Này Ànanda, 
                con không nên bận tâm với việc làm vẻ vang nhục thể Như Lai. Hãy 
                để những người chiến sĩ sáng suốt, những vị Bà la môn và những 
                người cư sĩ trí tuệ tin tưởng vững chắc nơi Như Lai làm việc 
                này.- Hãy chú tâm, tận lực, tinh tấn, cố gắng, cần mẫn trong 
                việc mưu tìm hạnh phúc châu toàn của chính con là quả vị  
                AlaHán!
                Đại đức 
                Ànanda, nghe xong lời dạy quí báu của đức thế tôn rồi bước sang 
                một bên đứng khóc và than vản:-“ Than ôi! Ta chỉ là một tu sĩ có 
                pháp học nhưng chưa hoàn toàn giải thoát, cần phải hành nữa. 
                Nhưng sau cùng đức đạo sư đã sắp tịch diệt. Đức thế tôn mà ta vô 
                cùng quí mến!”
                Đức Phật cho 
                gọi ngài đến dạy:- Hỡi Ànanda, chớ có phiền muộn. Chớ có khóc 
                than. Như Lai đã từng dạy rằng tất cả  chúng ta đều phải phân 
                ly, cách biệt và xa lìa những gì chúng ta ưa thích và quí mến! 
                Nầy Ànanda, con đã tạo nhiều phước báu. Con sẽ sớm thanh lọc mọi 
                ô nhiễm!- Và đức Phật tán dương công đức tôn giả Ànanda, rồi bảo 
                tôn giả vào thành Câu Thi Na, báo tin cho hoàng tộc Malla về sự 
                sắp viên tịch của ngài. Tất cả những người mến mộ Phật hay tin 
                đều khóc than đến đãnh lễ Phật.
                Quang cảnh  
                cuối cùng rất cảm động, những lời dạy của đức Phật ngọt ngào, 
                vang vọng đến hôm nay:- “Này Ànanda, sau khi Như Lai viên tịch, 
                nếu trong chúng đệ tử có người nghĩ rằng: Lời nói của bậc đạo sư 
                không còn nữa. Chúng ta không có bậc đạo sư.- Chớ có những tư 
                tưởng như vậy.- Pháp và luật ta đã giảng dạy, sau khi ta diệt 
                độ, chính pháp và luật ấy là đạo sư của các con!”
                - “Này 
                Ànanda, chư vị Tỳ Kheo lão niên hãy gọi vị Tỳ Kheo niên thiếu 
                bằng tên họ, hay hiền giả. Vị Tỳ Kheo niên thiếu hãy gọi vị Tỳ 
                Kheo Lão niên là Thượng toạ hay Đại đức.”
                - “Nếu chúng 
                Tăng muốn, sau khi Như Lai diệt độ, có thể huỷ bỏ những học giới 
                nhỏ nhặt, chi tiết.”
                - “Hành tội 
                phạm đàn mặc tẩn đối với Tỳ Kheo Channa.- Hành tội phạm đàn mặc 
                tẩn là Tỳ Kheo Channa muốn nói gì thì nói, chúng Tỳ Kheo sẽ im 
                lặng không giáo giới”.
                Vì đức Phật 
                không nêu rõ giới nhỏ nhặt có thể bỏ, nên đại đức Ca Diếp chủ 
                toạ cuộc kết tập Tam Tạng đầu tiên với sự đồng ý của chúng tăng, 
                không huỷ bỏ một học giới nhỏ nào. Chúng ta vẫn biết nền tảng, 
                căn bản giới luật không bao giờ lỗi thời trong việc rèn luyện 
                chúng sanh trở thành các vị thánh cao quý. Nhưng thời đại hôm 
                nay, có những giới nhỏ nhặt vị Tỳ kheo không giữ cũng không 
                phạm, tức học giới ấy không cần thiết, phải bỏ!
                Đức Phật hỏi 
                tiếp:- Này chư Tỳ Khưu, còn điều nào nghi ngờ phân vân về Phật 
                bảo, pháp bảo, hay phương pháp thì nên nói ra, chớ để hối tiếc 
                về sau. Đức Phật hỏi đến ba lần câu hỏi trên, nhưng tất cả Tỳ 
                kheo hiện diện im lặng, tỏ ý không nghi ngờ điều chi, vì 500 vị 
                Tỳ Kheo này đều là thánh tăng từ bậc Dự lưu đến Tứ thánh quả. 
                Đại đức Ànanda, cung kính nói:- Bạch đức Thế tôn, thật kỳ diệu 
                thay (...) con tin tưởng trong chúng Tỳ Kheo này, không còn phân 
                vân gì nữa.- Đức Phật hài lòng nói lời tối hậu: “- Này các Tỳ 
                Khưu, nay Như Lai khuyên bảo các ông: Các pháp hữu vi là vô 
                thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật.” -Đó là lời nói cuối 
                cùng của đức Thế tôn.
                Từ đó trở về 
                sau, ngài không còn nói câu gì nữa, lấy Niết bàn làm đề mục, 
                nhập định từ Sơ thiền đến Diệt thọ tưởng định. Không gian im 
                lắng, đại đức Ànanda, không chịu nổi hỏi đại đức Anuruddha (A 
                Nậu Đàla) : “Thưa tôn giả, Thế tôn đã diệt độ?- Này hiền giả Thế 
                tôn chưa diệt độ, ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định!”- Từ Diệt 
                thọ tưởng định trở lại Sơ thiền, từ Sơ thiền trở lên Tứ thiền, 
                xuất khỏi Tứ thiền - Xuất khỏi Tứ thiền, tức thì ngài viên tịch. 
                Đại địa chấn động, người người sửng sốt, sấm trời vang động!
                Toàn dân 
                thành câu Thi Na, long trọng thiết lễ cúng dường đức Phật suốt 6 
                ngày. Đến ngày thứ bảy, 8 vị tộc trưởng Malla, theo lời tôn giả 
                Ànanda, pháp táng kim thân đức thế tôn như pháp táng một vị 
                Chuyển luân Thánh Vương. Tám vị này gội đầu tắm rửa sạch sẽ, mặc 
                y phục mới tinh tươm, định khiên kim thân đức Thế tôn ra ngoài 
                thành phía nam, nhưng phải theo ý Chư Thiên là đi về phía Bắc, 
                đi qua trung tâm thành câu Thi Na, rồi sẽ về hướng Đông đến đền 
                Makutabandhana và sẽ làm lễ trà tỳ hoả táng tại đây.
                Sau khi  hoàn 
                tất nghi lễ, bốn vị tộc trưởng Mallà định châm lửa thiêu giàn 
                hoả, nhưng lửa không phát cháy. Vì Chư thiên muốn chờ Đại đức 
                Mahakassapa ( Ma Ha Ca Diếp) cùng với 500 vị Tỳ Khưu đến đảnh lễ 
                Thế tôn xong, lửa trà tỳ tự phát cháy, tất thảy đều cháy sạch, 
                chỉ còn lại duy nhất là xá lợi.
                Kim thân đức 
                Thế tôn vừa thiêu xong, thì có một dòng nước từ trên cao chảy 
                xuống và một dòng nước từ dưới đất phun lên tưới tắt giàn hoả. 
                Người dân Mallà dùng nước hoa thơm tưới vào giàn hoả xong rồi 
                thu lượm xá lợi đức thế tôn đặt nơi tôn nghiêm nhất của giảng 
                đường. Dùng cây thương làm hàng rào, dùng  cây cung làm bức 
                thành xung quanh, trong 7 ngày tôn trọng, cung kính đảnh lễ, 
                cúng dường với các điệu múa, Càpàla, nhạc, vòng hoa, hương.
                Bảy vương 
                quốc ở các vùng lân cận, hay tin đức Phật viên tịch cử sứ giả và 
                quân đội đến tỏ ý mong muốn có được ngọc xá lợi của Phật để tôn 
                thờ. Trong đó bao gồm vương quốc hùng mạnh nhất là xứ Magdana 
                (Ma Kiệt Đà) của vua A Xà Thế, và Tiểu vương quốc Câu Thi Na, họ 
                đều nói một câu duy nhất: “Đức Thế tôn là một người Sát đế lỵ 
                (Dòng hiệp sĩ thống trị) chúng tôi cũng là người Sát đế lỵ xứng 
                đáng được một phần xá lợi của đức Thế tôn, để dựng tháp và tổ 
                chức nghi lễ thờ kính, chiêm ngưỡng”
                Khi được nghe 
                nói như vậy, người Malla, ở Câu Thi Na, tuyên bố giữa đại chúng: 
                “ Đức Thế tôn đã diệt độ tại vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ 
                không cho ai một phần Xá lợi nào của đức Thế tôn.
                Giữa lúc các 
                nhà quí tộc hiệp sĩ, tay nắm cán thương, tay cầm đốc kiếm tranh 
                đấu gay go thì Bà la môn Dona xuất hiện nói với mọi người:
                “Các tôn giả, 
                hãy nghe lời nói của tôi,
                Đức Phật 
                chúng ta dạy chúng ta kham nhẫn.
                Thật không 
                tốt đẹp nếu có sự tranh giành,
                Khi phân chia 
                xá lợi của bậc Thượng nhân.
                Chúng ta hãy 
                cùng nhau đoàn kết nhất tâm.
                Hoan hỉ chia 
                xá lợi làm tám phần.
                Chúng ta hãy 
                dựng tháp khắp mọi phương,
                Để đại chúng 
                mười phương tin tưởng đấng pháp nhãn.”
                Không khí trở 
                nên lắng dịu, mọi người tỏ ra hiểu biết, đồng thanh nói:
                - Này tôn giả 
                Bà la môn, ngài hãy phân chia Xá lợi làm tám phần đồng đều.- Bà 
                la môn Dona hoan hỉ đáp:- “Thưa vâng các tôn giả”. Sau khi Sứ 
                giả các nước cung kính nhận Xá lợi Phật xong. Bà la môn Dona 
                thưa với chúng hội:
                - Các tôn 
                giả, hãy cho tôi cái bình (đựng xá lợi nầy). Tôi sẽ dựng tháp và 
                tổ chức các nghi lễ trang trí cái bình kỷ niệm.- Hội chúng hân 
                hoan dâng cho Bà la môn Dona cái bình từng đựng Xá lợi Phật ấy!
                Người  Moriyà 
                ở Pipphalivana, nghe tin đức thế tôn diệt độ ở Kusinàrà, liền 
                gởi một Sứ giả đến người Malla xin Xá lợi. Nhưng đã trễ và nghe 
                nói:
                - Nay không 
                còn phần xá lợi nào của đức thế tôn, vì xá lợi của đức thế tôn 
                đã được phân chia, các tôn giả hãy lấy tro còn lại - Rồi  các vị 
                này lấy than tro còn lại.
                Như vậy có 
                mười nơi xây tháp thờ xá lợi, bình đựng tro hoả táng nhục thân 
                Phật như sau:
                1. Vua nước 
                Magadha (Ma Kiệt Đà) là Ajàtasathu, con bà Videhi, xây dựng tháp 
                thờ xá lợi đức thế tôn tại Vương xá thành và tổ chức lễ cúng 
                dường.
                2. Những 
                người Licchavi  ở Vesàli, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn 
                tại Vesàli, tổ chức lễ cúng dường.
                3. Những 
                người Sakya ở Kapilavatthu, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn 
                tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường.
                4. Những 
                người Buli ở Kallkappa, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại 
                Kallkappa, tổ chức lễ cúng dường.
                5. Những 
                người Koli ở Ràmagàma, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn 
                tại Ràmagàma, tổ chức lễ cúng dường.
                6. Bà La Môn 
                Vethadìpaka, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại 
                Vethadìpaka, tổ chức lễ cúng dường.
                7. Những 
                người Mallà ở Pàvà, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn 
                tại Pàvà, tổ chức lễ cúng dường.
                8. Những 
                người Mallà ở Kusinàrà, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế 
                tôn tại Kusinàrà, tổ chức lễ cúng dường.
                9. Bà La Môn 
                Dona, cũng xây dựng tháp thờ bình đựng Xá lợi, tổ chức lễ cúng 
                dường.
                10. Những 
                người Moriya ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp thờ những than 
                tro xá lợi của Phật, tổ chức lễ cúng dường.
                Như vậy có 
                tám tháp xá lợi, tháp thứ chín thờ bình đựng xá lợi và tháp thứ 
                mười thờ tro xá lợi Phật.
                Hành trình 
                cuối cùng của đức Phật từ núi Linh Thứu, Vương xá thành đến rừng 
                Ta la song thọ, địa phận thành Câu Thi Na, chậm và dài với nhiều 
                ý nghĩa giáo hoá độ sanh đã dừng lại... Với bao thương tiếc của 
                đệ tử đương thời còn gây xúc động bồi hồi mãi đến hôm nay. PL 
                2547 năm trôi qua, mỗi năm đệ tử Phật ôn lại một lần, hành trình 
                cuối cùng của một đạo sư gương mẫu khả kính.
                Thời gian lâu 
                xa như vậy, có thể nói nước chảy đá mòn, nhưng sự nghiệp độ thế 
                của đức thế tôn, tức tinh thần tu tập, chứng đạo, truyền bá Phật 
                pháp chưa phai nhạt  trong tâm môn đồ pháp quyến nhiều thế hệ. 
                Bởi vì đạo Phật là đạo trí tuệ hoá giải khổ đau sinh tử, nơi nào 
                có sinh tử thì nơi đó cần có Phật giáo tiếp hiện độ sinh.
                Nếu thế, tại 
                sao đức Phật có sinh tử?- Thân thị hiện của đức Phật là thân 
                người, dù quí báu mạnh khoẻ, thì thân ấy phải có sinh tử. Còn 
                tâm người đã tu chứng Niết bàn, dù đang ở trong sinh tử từng 
                phút giây đều có hoạt lực hoá giải khổ đau. Những điều ấy thể 
                hiện rõ nét từng chi tiết tự tại của ngài khi đại sự sinh tử 
                đến!
                Để đạt đến 
                hiệu quả an ổn sáng suốt như đức Phật, chúng ta phải làm sao? - 
                Xin nhắc lại lời cuối cùng của đức Phật: - “ Này chư Tỳ Khưu, 
                nay Như Lai khuyên bảo các ông: Các pháp hữu vi là vô thường, 
                hãy tinh tấn chớ có phóng dật!”
                - Trong  
                Tương ưng Bộ Kinh có nói: “Nơi mà bốn nguyên tố cấu thành vật  
                chất có đặc tánh dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di  động, không 
                còn chỗ đứng, thì ở nơi ấy có Niết bàn.”- Tức Niết bàn ở trong 
                tâm vị nào thường phát khởi siêu trí vô nhiễm, vô sanh, bát nhã 
                ba la mật! Như vậy, ngoài tâm thanh tịnh không có Niết bàn. Nếu 
                ngoài tâm có Niết bàn là Niết bàn của người khác, không phải của 
                chính ta. Theo Hoà Thượng Thích Minh Châu- Từ Điển Phật học Việt 
                Nam. Trang 486, có 2 loại Niết Bàn:
                1. “Niết bàn 
                có dư y là Niết bàn trong ấy tham sân si được đoạn tận, nhưng 
                còn thân do quả báo đời trước, nên thân ấy còn phải già, bệnh, 
                chết. Như Đức Phật, khi ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề là ngài 
                chứng được Niết bàn có dư y.
                2. Niết bàn 
                không dư y, là Niết bàn không còn báo thân nữa, nên thân không 
                bị già, bệnh, chết chi phối. Như Lai đức Phật nhập diệt ở 
                Kusinara, khi ấy đức Phật chứng Niết bàn không có dư y. Thường 
                thường danh từ này được dùng là đức Phật nhập Niết bàn hay nhập 
                Bát Niết bàn để chỉ đức Phật khi mệnh chung.”
                Điều này sẽ 
                làm người sơ cơ hiểu lầm:- Niết bàn là cõi chết thê lương! Có 
                thể nói Niết bàn có dư y là Niết bàn còn sanh y, Niết bàn không 
                có dư y là Niết bàn không có sanh y thiền giả tự tại giữ thân 
                hay bỏ tuỳ thích. Người đắc Niết bàn (Hữu dư hay Vô dư) sinh tử 
                chỉ là bóng mây hiện tượng trong bầu trời tâm chân như bao la.
                Để kết thúc 
                bài viết nầy, chúng tôi xin dẫn lời Tỳ Khưu Mang Đồng Tử hỏi 
                Phật, trong bộ Trung A Hàm, Kinh Tiển dụ, số 221, như sau:
                - Bạch Thế 
                tôn! Thế giới này thường hay vô thường. Hữu biên hay vô biên. Tự 
                ngã với thân khác hay là một. Như Lai sau khi diệt độ còn hay 
                mất. Hay cũng còn cũng mất. Hoặc chẳng phải còn chẳng phải mất?
                Đức Phật đáp 
                khẳng định quan điểm truyền giáo:
                - Dù thế giới 
                này là thường hay vô thường. Hữu biên hay vô biên. Tự ngã với 
                thân khác hay là một. Như Lai còn mất sau khi nhập diệt còn hay 
                mất thì thực tế chúng sanh vẫn đang bị luân hồi sinh tử khổ. Và 
                vấn đề cấp thiết nhất hiện tại là giải quyết sự luân hồi sanh tử 
                khổ trước (...) Đó là tu tập Tứ Diệu đế, là căn bản phạm hạnh, 
                có thể đưa đến trí tuệ, giải thoát và chứng nhập Niết bàn.
                Lược trích 
                Kinh Đại Viên Tịch Niết Bàn. 
                Tham khảo đối 
                chiếu Kinh sách:
                - Cuộc đời 
                Ánh đạo của đức Phật. Cư sĩ Khánh Vân.   -NXB.TPHCM. 1994
                - Đức Phật và 
                Phật Pháp. Naràda Thera-NXB.TPHCM. 1998
                - Đại cương 
                Kinh Trung A Hàm.TT.Thích Thiện Nhơn  -Lưu hành nội bộ1993
                - Giáo Trình 
                Trường Bộ Kinh.TT.Thích Thiện Tâm-Cơ bản Phật Học TPHCM  1994.
                - Những Ngày 
                và những lời dạy cuối cùng của đức Phật HT. Thích Minh Châu 
                -NXB. Tôn giáo 2003
                - Nghi Lễ và 
                Tự Viện Tỳ Khưu Thiện Minh -NXB. TPHCM  2002
                - Phật và 
                Thánh Chúng Thích Minh Tuệ -THPG. TP HCM. PL.2538-1991
                - Từ Điển 
                Phật Học Việt Nam Thích Minh Châu-Minh Chi        -NXB.Khoa học 
                Xã Hội Hà Nội - 1991
                Chú Thích:
                * Bảy Pháp 
                bất thối của một quốc gia:
                1.     
                Dân Vajjì thường tụ họp đông đảo với nhau.
                2.     
                Dân Vajjì thường tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán 
                trong niệm đoàn kết.
                3.     
                Dân Vajjì không dám ban hành những luật lệ chưa được ban 
                hành, không huỷ bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với 
                truyền thống và cổ lệ đã được ban hành.
                4.     
                Dân Vajjì biết tôn kính, đãnh lễ, cúng dường và nghe lời 
                dạy của các bậc trưỡng lão trong bổn quốc.
                5.     
                Dân Vajjì không bắt bớ và cưỡng ép những người nữ phải 
                sống với mình.
                6.     
                Dân Vajjì biết tôn kính, đãnh lễ, cúng dường các tự miếu 
                nội ngoại thành và không xao lãng những nghi lễ cổ truyền.
                7.     
                Dân Vajjì bảo hộ, che chở và ủng hộ nhiệt thành các vị 
                thánh A La Hán ở tại bổn xứ, khiến cho các vị A La Hán chưa đến 
                sẽ đến được sống an lạc.
                * Bảy Pháp 
                bất thối của hội Chúng tăng:
                1.     
                Chư Tỳ Khưu thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với 
                nhau.
                .     
                Chư Tỳ Khưu thường tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán 
                trong niệm đoàn kết và làm việc tăng sự trong niệm đoàn kết.
                3.     
                Chư Tỳ Khưu không dám ban hành những luật lệ chưa được 
                ban hành, không huỷ bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng 
                những điều học đã được ban hành.
                4.     
                Chư Tỳ Khưu biết tôn kính, đãnh lễ, cúng dường và nghe 
                theo những lời dạy của các bậc tôn túc, trưởng lão, niên cao lạp 
                trưởng.
                5.     
                Chư Tỳ Khưu không bị chi phối bởi tham ái và bị tác thành 
                một đời sống khác ( bị lôi cuốn trong sanh tử luân hồi)
                6.     
                Chư Tỳ Khưu ưa thích chỗ độc cư nhàn tịnh.
                7.     
                Chư Tỳ Khưu tự thân an trụ Chánh niệm, khiến các bậc đồng 
                phạm hạnh chưa đến muốn đến ở và các bậc đồng phạm hạnh đã đến 
                được sống an lạc.
                * Năm điều 
                nguy hại của sự phá giới:
                1.     
                 Tài sản bị tiêu hao do sống phóng dật.
                2.     
                Tiếng dữ đồn xa.
                3.     
                Tâm tư dao động, sợ hãi khi vào hội chúng đông người.
                4.     
                Khi mạng chung, tâm thức bị rối loạn.
                5.     
                Tái sanh vào khổ cảnh, ác thú, địa ngục.
                * Năm điều 
                lợi ích của sự giữ giới:
                1.     
                Có đủ tài sản do sống không phóng dật
                2.     
                Tiếng lành đồn xa.
                3.     
                 Tâm tư ổn định, không bị giao động khi vào chỗ đông 
                người.
                4.     
                Khi mạng chung, tâm thức không tán loạn.
                5.     
                Tái sanh vào lạc cảnh, thiện thú, thiên giới.
                * Cảm thọ của 
                đức Thế tôn khi kinh qua các tầng thiền định và nhập diệt. (Xem 
                lược giải kinh Nhiều Cảm Thọ).
           
                --o0o-- |  |