BỒ TÁT HẠNH

Ý Nghĩa
Vía Phật - Bồ Tát Trong Năm
---o0o---
Bài Đọc Thêm
SƠ LƯỢC SẮC THÁI THIỀN TRUNG HOA
Thích Phước Tiến
--o0o--
 
Đạo Phật  ra đời hơn 25 thế kỷ. Sự ảnh hưởng của Đạo Phật càng ngày càng lan rộng khắp nơi, càng ngày càng được thêm nhiều giới trí thức đón nhận nồng nhiệt; điều đó chứng tỏ giá trị bất hủ của đạo Phật, không chỉ thời xa xưa, cho dù thời khoa học hiện đại, nó càng soi sáng thêm cho chân giá trị của đạo Phật. Trong kinh Tăng Chi đức Phật dạy:“Phật pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, được người trí tự mình giác hiểu”. Như vậy đạo Phật là đạo giác ngộ, đạo của người trí, có hiểu biết đúng đắn.
          Nh49 ngày đêm tư duy thiền quán dưới cội Bồ Đề, đức Thế Tôn đã giác ngộ thật tướng của vạn pháp thành Phật. Trên nền tảng đó, suốt bề dày lịch sử tuyền bá đạo Phật, thiền trở thành nguyên lý căn bản, là cốt tuỷ của đạo Phật.
Đạo Phật có hai nguồn tư tưởng lớn và được xem như là tư tưởng chủ đạo của mọi thời đại: Đó là tư tưởng Đại thừa và tư tưởng Nguyên thuỷ; Thiền của Nguyên thuỷ như thiền tứ niệm xứ, thiền ngũ đình tâm...Thiền Đại thừa như thiền chỉ quán, thiền lục diệu pháp môn, thiền Pháp Hoa tam muội...Tựu chung hai khuynh hướng thiền Đại thừa và Nguyên thuỷ điều thực hành theo phương pháp mà Đức Phật dạy nên còn gọi là NHƯ LAI thiền-Thiền theo Phật hay theo kinh điển. Những nguồn tư tưởng này được du nhập vào Trung Hoa rất sớm.
Đặc biệt, khi thiền tông được truyền vào Trung Hoa, nhất là thời của tổ Đạt Ma trở về sau, thì sắc thái của thiền tông hoàn toàn thay đổi; Sự thay đổi này làm cho thiền trở về với chính nó, càng làm cho thiền phát triển tuyệt đốỉ ở khả năng chứng ngộ tự tâm của hành giả. Đây là sự sáng tạo độc đáo của chư Tổ nên còn gọi là Tổ sư thiền. Như vậy Tổ sư thiền, là thiền tông đặc biệt của Trung Hoa,mặc dù kế thừa từ Ấn Độ, và có thể nói là sản phẩm độc đáo nhất của người Trung Hoa,trong lịch sử phát triển thiền Phật giáo.
Như chúng ta đã biếât Phật giáo được truyền vào Trung Hoa từ nhữmg kỹ nguyên đầu tây lịch. Các tư tưởng thiền nguyên thủy đã được các bậc danh tăng truyền vào như An Thế Cao (đời Hán), Ca Diếp, Ma Đằng...nhưng không làm nổi bậc được phong thái của thiền học. Đến đầu thế kỷ thứ VI, tức năm 520, Bồ Đề Đạt Ma chính thức truyền thiền tông vào Trung Quốc, và đây là mấu chốt cho việc khởi sắc chân giá trị của thiền tông, hay tổ sư thiền. Ngài Đạt Ma chủ xướng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền,trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”. Mặc dù tông chỉ như vậy, nhưng ngài Đạt Ma vẫn chưa xử dụng đúng mức đường lối chủ trương của mình, bởi vì Ngài còn mang nặng sắc thái thiền Ấn Độ. Giữa hai tư tưởng Ấn - Hoa có nhiều cái đối lập nhau: Người Ấn Độ luôn hướng về triết học thần bí siêu hình; Người Trung Hoa bình dị giản đơn và thực tiễn, cho nên khó có thể nào nhất thời hoà nhập với nhau được. Vì vậy việc sơ giao buổi đầu giữa tổ Bồ Đề Đạt Ma với vua Lương Võ Đế đã không được thành công là điều tất nhiên .
- Vua Lương Võ Đế hỏi: Trẫm xây dựng hơn 70 kiểng chùa độ chúng Tăng nhiều vô số, việc ấy có công đức gì không ?
- Đạt Ma trả lời :Không có công đức .
Câu nói ấy đã làm cho Vua thất vọng, bởi vì người Trung Hoa không thể nào chấp nhận những câu nói cầu kỳ rắt rối như thế !
Một câu nói phủ đầu của Ngài Đạt Ma đối với người Trung Hoa, nhất là vua, là hoàn toàn có tác dụng ngược lại với người muốn đưa ra chiêu bài này nhằm cảm hoá Vua làm việc đừng chấp tướng, vì nó còn giới hạn trong phước báo hữu lậu nhơn thiên. Nhưng vì những quan điểm trái nhau, nên Ngài Đạt Ma đã thất bại ở buổi đầu, bèn trốn vào đất Ngụy, ngồi ngó vách chín năm để đợi thời cơ. Nếu buổi đầu Tổ Đạt Ma khéo vận dụng “thuật đắc nhơn tâm” thì đây là cơ hội ngàn vàng cho bước đuớc đầu truyền thiền của Ngài, nghĩa là tuỳ duyên mà bất biến thì có phương hại gì. Đằng này, Đạt Ma vẫn khư khư quan điểm của mình, tức quan điểm Ấn Độ, thì vua Lương Võ Đế cũng đâu dễ gì chấp nhận thái độ xem như là đối kháng của Tăng nhơn ngoại quốc! Như vậy giữa hai người không có điểm gặp nhau. Cho đến chín năm sau, người Trung Hoa đầu tiên có thể bỏ hết mọi thành kiến chủ quan để chấp nhận sự thách thức phủ đầu của Đạt Ma chính là Tuệ Khả_Thần Quang. Trong khi Thần Quang đứng cả đêm ngoài trời tuyết ngập đến phủ đầu gối, vậy mà Ngài Đạt Ma lại nói một câu hết sức vô tình “Diệụ đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, chỉ có chút lao khổ nhọc nhằn mà cầu pháp chân thừa được sao?”.Vượt được thử thách này thì Thần Quang được là người Trung Hoa đầu tiên chấp nhận được thiền của Bồ Đề Đạt Ma. Như vậy  Ngài Đạt Ma được xem như gạch nối giữa thiền Trung Hoa và Ấn Độ-Tổ cuối cùng Ấn Độ và sơ tổ của thiền tông Trung Hoa.
Kể từ đó, thiền học luôn  luôn được biến chuyển, linh hoạt hơn, thực tế hơn nhằm cập nhật với người dân Trung Hoa.Và người được xem là cách mạng toàn diện dấu vết cũ của thiền Ấn Độ chính là Huệ Năng, người thầy nổi bậc của dòng thiền đốn siêu tuyệt.
Một ngày kia trong pháp hội của tổ Huỳnh Mai,có một chàng thanh niên quê mùa xứ Lãnh Nam, làm lễ ra mắt Tổ.
- Tổ hỏi: Ông từ đâu đến ?
- Năng đáp: Con từ Lãnh Nam đến.
- Ông muốn cầu gì ?
- Chỉ cầu làm Phật.
- Tổ bảo: Người Lãnh Nam không có Phật tánh làm sao thành Phật được.
- Năng đáp: Người đành có Nam Bắc tánh Phật há có vậy sao ?
Chính câu trả lời tuyệt diệu ấy, là tiền đề cho đặc chất của thiền Trung Hoa phát triển sau này.
Như chúng ta đã biết tổ Đạt Ma chủ trương: bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật, nhưng ngài chưa hoàn tất triệt để về tông chỉ của mình, bởi vì ngài Đạt Ma vẫn còn xử dụng bốn bộ kinh Lăng Già làm nơi y cứ cho thiền tông truyền lại cho Huệ Khả; và ý nghĩa kiến tánh thành Phật, Ngài cũng chưa lột xác được hết ý nghĩa thâm thuý này. Cho nên tông chỉ của tổ Đạt Ma hoàn toàn nhờ vào tay của ngài Huệ Năng mới giải quyết hết ý nghĩa của nó.Và dĩ nhiên Huệ Năng trở thành một thiền sư sáng giá nhất của Trung Hoa. Để thấy được điều này chúng ta cùng luận bàn về bốn câu kệ đã nêu.
Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, tức là sự liểu ngộ của mỗi con người không phải do văn tự mà được. Chữ nghĩa văn tự, đối với thiền tông, đôi khi lại là pháp chướng đạo, bởi vì có những người chuyên lo học vấn nên kiến thức trở thành sở tri ngăn ngại phương diện thể nhập chơn tánh của thiền giả. Chính vì vậy, để giúp cho Hương Nghiêm Trí Nhàn thoát khỏi rừng văn tự kiến chấp dày đặc, Qui Sơn khích Trí Nhàn một câu : Thử tìm trong kinh sách để trả lời xem khi cha mẹ chưa sanh ông là cái gì ? Vì không trả lời được câu ấy nên Trí Nhàn đốt hết kinh sách vào rừng dựng am tu hành . Nhờ câu ấy mà sau này khi ngộ đạo, Trí Nhàn hướng về Qui Sơn đảnh lễ nói rằng ơn thầy lớn hơn ơn cha mẹ!
Ngày xưa, bằng thủ thuật trên, chỉ cần hình ảnh con ong bay qua cửa kính , Ngài Thần Tán điểm đạo cho thầy bằng bài kệ :
            “Không môn bất khẳng xuất
Đầu song dả thái si
Bách niên toản cổ chỉ
          Hà nhật xuất đầu thiø “
(cửa không chẳng chịu ra, quá ngu chui cửa sổ, trăm năm giấy mực dùi, ngày nào thoát ra được )
Như vậy tính chất của thiền là lột xác hết các kiến chấp suy lý tìm cầu trên văn tự. Đó là chỗ trực kiến tâm linh, thể nhập chơn tánh. Kinh điển chỉ là phương tiện như ngón tay chỉ mặt trăng, cần phải thấy trăng chớ không phải nhìn ngón tay là trăng! Nhằm phá bỏ các kiến chấp văn tự, ngài Huệ Năng đối đáp dứt khoát với ni Vô Tận Tạng. Ni Tận Tạng cầm kinh hỏi chữ. Tổ bảo chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi. Ni bảo chữ còn không biết sao có thể hiểu nghĩa. Tổ bảo diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ  gì đến văn tự. Một câu điểm đạo tuyệt vời làm ni Vô Tận Tạng tỉnh ngộ. Tuy vậy, chúng ta đừng ngĩ rằng Tổ Huệ Năng là người dốt đặc đến chữ nhất một cũng không biết , mà sự không biết chữ ûcủa Ngài chỉ để nhằm làm nổi bật lên ý nghĩa “bất lập văn tự” của thiền tông. Bởi vì thiền tông phá bỏ kiến chấp của những người lấy văn tự làm chân lý. Nếu  nương vào văn tự để đạt đến chổ siêu tuyệt  thì chẳng có ngại gì. Tổ  Huệ Năng cũng nhờ nghe kinh Kim Cang mà ngộ đạo. Trong Pháp Bảo Đàn  Kinh diển tả lời Tổ dạy Pháp Đạt :  khi Tổ chỉ cho Pháp Đạt cách trì kinh Pháp Hoa, Pháp Đạt thưa: Nếu vậy thì chỉ cần hiểu nghĩa lý, không cần tụng kinh hay sao ? Tổ bảo ý kinh có lỗi gì mà ngăn cấm người tụng; mê ngộ ở nơi người , hại hay lợi đều do mình mà ra. Miệng tụng tâm hành ấy là chuyển được kinh, miệng tụng tâm không hành, ấy là bị kinh chuyển. Do đó chúng ta chẳng lạ gì , tại sao thiền không lập văn tự, mà kinh điển, sách lục lại nhiều vô số? Đó là chỗ chúng ta cần phải lưu ý . 
“Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật .” Đây là ý nghĩa kế thừa tư tưởng Đại Thừa. Tư tưởng ấy  chính là “tất cả chúng sanh đều có tánh Phật và sẽ thành Phật”. Chuyện thành Phật là chuyện của con  người, chớ chẳng phải là ai khác, không phải chư Thiên, La Hán, Bồ Tát mới thành Phật? Thật ra chư vị ấy cũng phát xuất từ một con người và thành Phật cũng là chuyện con người . Tổ Huệ Năng đã sớm giác ngộ được  điều này và đã tự khẳng định chân giá trị của con người mình: “Người có Phân chia Nam Bắc, thân quê mùa cùng Hoà Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác”(Pháp bảo đàn kinh). Nhận rỏ được nghĩa này nên Tổ Huệ Năng mới nói rằng bản lai vô nhất vật. Như vậy một mặt nào đó chúng ta thấy Thiền dường như chống trái với kinh điển, nhưng đi sâu vào nội dung ta mới thấy rằng , những ngôn ngữ của thiền chỉ là không rập khuông lại theo ngôn ngữ kinh điển, nhưng ý nghiã của nó hoàn toàn khế hợp với lời dạy của chư Phật. Đây là điểm nổi bậc của thiền Trung Hoa, lột xác tận cùng tông chỉ của Tổ Đạt Ma và dần dần lộ rỏ lên được bản chất của mình, nếu không muốn nói là độc tôn.  Như vậy Tổ Huệ Năng là người Trung Quốc  đầu tiên làm sámg tỏ triệt để pháp kiến tánh thành Phật của Tổ Đạt Ma. Giáo  sư SUZUKI nói rằng: Huệ Năng là vị tổ có công lớn đưa thiền tông lên tột đỉnh của pháp môn này với phương pháp trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật của lối đốùn ngộ và uy danh của ngài đã làm lu mờ hẳn tên tuổi của Đạt Ma tổ sư. Do đó Huệ năng đã trở thành linh hồn của  thiền học Trung Hoa”. Kể từ Huệ Năng trở về sau thiền tông phân hoá thành năm dòng khác nhau, nhưng đó chỉ là biểu hiện cho sự phát triển lan rộng cùng khắp và đa dạng mà thôi. Năm dòng ấy gồm: Lâm Tế, Tào Động, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Đương thời, đều phát triển rực rở theo khuynh hướng riêng của mình và nhờ các hàng hậu bối thừa tiếp truyền bá rộng thêm. Nhưng rồi theo thời gian, một vài tông phái cũng bị lu mờ. Riêng có hai dòng thiền Tào Động của Thanh Nguyên _ Hành Tư (740) và dòng Lâm Tế của Nam Nhạc _Hoài Nhượng (677-744) được tồn tại mãi ở Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam ...Mặc dù trãi qua nhiều biến đổi quyết liệt, ở nhiều phương diện, nhưng nguyên lý và chân phong thiền vẫn sinh động không suy giảm gì mấy so với thời Lục Tổ và đó là chân tinh thần vô giá của Đông Phương nay ảnh hưởng còn thấm nhuần sâu đậm trong văn hoá nhất là giữa trí thức Nhật Bản – SUZUKI .
Tóm Lại, qua phần trình bày sơ lược, chúng ta được biết thiền xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, nhưng các phương thức tu tập còn bị hạn chế trong khuông khổ, phần lớn chỉ vận dụng kế thừa theo vài phương pháp cổ xưa, còn câu nệ hình thức nên chưa được phổ thông và rộng rãi. Đến khi thiền tông được Bồ Đề Đạt Ma truyền sang Trung Quốc, thiền được nâng lên một cấp độ rõ rệt và làm nền tảng căn bản cho sự phát triển của thiền Trung Quốc sau này. Kể từ thời Huệ Năng trở đi tâm yếu thiền tông Trung Hoa không những xoá vết thiền Nguyên thuỷ mà còn vượt lên trên Đại thừa phát huy thành tối thượng thừa thoát ly hẳn triết lý thiền Ấn Độ khi mơiù du nhập. Cho nên cành hoa vi tiếu của Ngài Ca diếp là thần tượng của thiền tông xem đó như sự chánh truyền từ thời đức Phật cho đến Đạt Ma tổ sư là vị Tổ cuối cùng của Ấn Độ ; Nhưng chắc có lẻ, đây chỉ là hệ thống hoá cho được logic, chớ thật ra thì Ấn Độ chưa có tông phái thiền hẳn hoi. Nhờ du nhập vào đất Trung Hoa thiền tông mới biểu hiện được sức sống của mình. Và như vậy Trung Hoa, đặc biệt là Lục Tổ đã làm sáng giá giáo nghĩa của thiền học, như lời nhận định của SUZUKI : “Phật giáo thiền tông Trung Hoa không còn là một sản phẩm ngoại lai, và đã được biến chế lại từ nội tâm của dân tộc này thành một sáng hoá kỳ đặc? Ấy chính vì thiền  chuyển được thành một sản phẩm của đất nước mới tồn tại được vượt qua các trường phái khác” .
--o0o--