| 
           
      
  
           
  |               
             
               VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
            
            
            
              
          
           
              AM 
              MÂY NGỦ
          
          
            
             
              
              Tác giả: Nhất Hạnh
              
             
            
              
              PL. 2537-1993 
            
              
              --o0o--
              
             
            
              
                
                
                - 
                
                Đối 
                với một người như Phụ vương nàng, Huyền Trân không thể kể lể dài 
                dòng. Trúc Lâm đại sĩ đã từng thăm viếng Chiêm Thành và đã lưu 
                lại kinh đô Trà Bàn của nước này hơn bảy tháng trời. Trong thời 
                gian đó, ngài đã làm người thượng khách của vua Chàm. Ngài đã 
                tìm hiểu về nếp sống văn hóa và phong tục của vương quốc này và 
                đã đem lòng yêu mến ông vua Chàm còn trẻ tuổi và can trường ấy. 
                Harijit là một ông vua thông minh. Hồi phụ vương nằng gặp chàng. 
                Harijit mới có ba mươi bảy tuổi. Vương hiệu của chàng là Jaya 
                Simhavarman đệ tam muội, người Đại Việt thường gọi chàng là Chế 
                Mân. Chính nhờ vào đảm lược của chàng mà Chiêm Thành phá vỡ được 
                âm mưu xâm lăng của quân đội Hốt Tất Liệt.
 
                - 
                
                Phụ vương nàng mở đầu chuyến du Chiêm vào tháng ba năm Tân Sửu, 
                tức là bảy năm về trước. Ngày từ biệt kinh đô Phật Thệ ngài đã 
                hứa với Harijit là sẽ gả Huyền Trân, đứa con gái yêu quý của 
                ngài cho chàng. Hồi đó công chúa mới mười bốn tuổi. Ngài đã nói 
                với Harijit rằng công chúa còn bé lắm, và chàng hãy đợi tới lúc 
                công chúa lên mười tám mới nên cho phái bộ về Thăng Long để làm 
                lễ vấn danh. Huyền Trân còn nhớ cái ngày Thượng hoàng đi Chiêm 
                thành về. Đó là vào tháng mười một năm Sửu, khí trời đã rét lắm. 
                Trước khi về núi Yên Tử, Thượng hoàng đã ghé lại kinh sư đàm đạo 
                thật lâu với vua Anh Tông, anh cả của nàng. Có lẽ hai người đã 
                nói nhiều về chính sách ngoại giao Chiêm Việt. Hôm huynh vương 
                mở tiệc chay cúng dường Thượng hoàng, công chúa và anh nàng là 
                Huệ Võ Vương Quốc Chẩn cùng được vời đến tham dự. Anh Chẩn của 
                nàng hồi đó đã hai mươi tuổi rồi nên đì đứng khá chững chạc. Sau 
                bữa cơm, Thượng hoàng gọi riêng nàng lại và cho nàng biết ngài 
                đã hứa gả nàng cho vương quốc họ Chế. Hồi đó tuy đã mười bốn 
                tuổi rồi mà công chúa vẫn còn trẻ con lắm. Nàng đã đón nhận cái 
                tin đó như một cái tin không có liên hệ trực tiếp tới mình. Nàng 
                chỉ cúi đầu vâng dạ, và cho rằng chuyện chồng con là một chuyện 
                xa vời, không cần nghĩ tới lúc đó. Ai ngờ thời gian đi vùn vụt 
                như một mũi tên, và vào lúc bất ngờ nhất, phái bộ của nước Chiêm 
                Thành đã đến. Phái bộ này đông hơn một trăm người, do sứ thần 
                Chế Bồ Đài cầm đầu, đem theo không biết bao nhiêu là bảo vật 
                trân quý để làm lễ cầu hôn. Đó là vào đầu tháng hai năm Ất Tỵ, 
                khi chiếc bánh chưng cuối cùng trong cung vừa ăn hết và nàng vừa 
                mới lên mười tám tuổi. Bất thần đứng trước một tình thế cấp 
                bách, công chúa sinh hoảng. Nàng không biết tỏ cùng ai. Mẹ nàng, 
                hoàng hậu Khâm Từ, đã mất năm nàng lên sáu tuổi. Bà dì của nàng 
                là hoàng hậu Tuyên Từ, em ruột của mẹ nàng, thì tính tình nghiêm 
                nghị quá, không bao giờ công chúa nghĩ là có thể bộc lộ tâm tình 
                với bà. Nước Chiêm Thành đối với công chúa là một cái gì hoàn 
                toàn xa lạ. Từ nhỏ đến giờ, ngoài chuyến đi về thăm quê nội ở 
                Hải Dương, nàng chưa từng được đi đâu cả. Chính nước Đại Việt là 
                nước của mình mà công chúa còn chưa biết rõ thì làm sao nàng 
                biết được thế nào là nước Chiêm Thành. Từ lúc còn bé thơ, công 
                chúa đã thuộc lòng câu: "Nước Đại Việt, Bắc giáp Tống, Tây giáp 
                Lão Qua, nam giáp Chiêm Thành, Đông giáp biển Nam Hải" do thầy 
                học của nàng là Văn Túc Vương Đạo Tái dạy. Vị giáo sư này cũng 
                đã từng dạy anh nàng là Quốc Chẩn. Ông nói là từ xưa đến nay 
                Chiêm Thành và Đại Việt đã từng có can qua với nhau nhiều lần 
                rồi, và phần đất miền Nam của Đại Việt bây giờ ngày xưa vốn 
                thuộc về lĩnh thổ nước Chiêm.
 
                - 
                
                Ngay chiều hôm sứ thần Chiêm Thành cùng phái bộ dâng lễ vật cầu 
                hôn của Chàm, vua Anh Tông đã về cung Thánh Từ báo liền cho Thái 
                hậu Tuyên Từ biết. 
 
                - 
                
                Lúc đó công chúa đang đứng hầu ngay bên Thái hậu mà cũng không 
                được anh mình ban cho lấy một lời. Công chúa biết đây là việc 
                đại sự quốc gia, mình không có quyền lạm bàn, dù việc có liên 
                quan tới thân mạng mình đi nữa. Vua chỉ nhìn nàng hồi lâu mà 
                không nói gì. Một lát sau, thu hết can đảm, công chúa hỏi: "Vậy 
                huynh vương đã nhận lời chưa?". Hỏi xong câu hỏi, công chúa 
                ngước nhìn Thái hậu thì gặp hai con mắt rất đổi nghiêm nghị của 
                bà. Nàng sợ sệt cúi đầu, nhưng vua Anh Tông đã dịu dàng nói: 
                "Chưa, việc này trọng đại lắm, ta phải hỏi ý quần thần mới 
                được".
 
                - 
                
                Sáng hôm sau, vua Anh Tông thiết triều để nghị luận về việc cầu 
                hôn của vua Chàm. Buổi trưa hôm ấy Huệ Võ Vương Quốc Chẩn về 
                cung và báo tin cho dì và em gái biết là triều đình đã quyết 
                định nhận sính lễ của vua Chàm. Anh Chẩn thuật lại những chi 
                tiết của buổi chầu. Ban đầu, nhiều người chống đối việc chấp 
                nhận sính lễ. Quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ Hài là một trong 
                những người chống đối mạnh mẽ nhất. Ông này đã từng đi sứ Chiêm 
                Thành và cũng đã từng đề nghị việc sứ thần Việt không nên lạy 
                vua Chàm mỗi khi vào bệ kiến, nhưng Văn Túc Vương Đạo Tái đã 
                đứng dậy nói rằng ông hoàn toàn tán đồng việc gả công chúa cho 
                vua Chàm. Ông nói: "Thượng hoàng là người trông xa nghĩ rộng, và 
                một khi ngài đã có chủ định về vấn đề nào tức là ngài đã cân 
                nhắc và suy xét kỹ càng. Tại miền Bắc, giặc Nguyên vẫn lăm le 
                muốn trở lại Đại Việt; nếu ở miền Nam hai nước Chiêm và Việc 
                không chung sống hòa bình với nhau thì cả hai đều có thể trở 
                thành mồi ngon của họ. Công chúa về Chiêm là để thắt chặt tình 
                hữu nghị giữa hai nước và để xây dựng một nền hòa bình Chiêm 
                Việt lâu dài, đâu phải là một chuyện gả bán thông thường. Vả 
                lại, một lời hứa của Thượng hoàng, ta không thể xem như là có 
                thể xoá bỏ một cách dễ dàng được. Đó là danh dự của cả một nước. 
                Xin Hoàng thượng và triều thần suy xét". Sau khi Văn Túc Vương 
                nói thế, quan nhập nội hành khiển là Trần Khắc Chung cũng đứng 
                dậy tán thành. Trước hết quan hành khiển nhấn mạnh về sự quan 
                trọng của lời hứa Thượng hoàng. Sau đó ông nói đến việc vua 
                Chiêm đề nghị nhượng đất hai Châu Ô và Ri làm lễ dẫn cưới. Ông 
                nói rằng việc gả bán này rất có lợi vì nó giúp ta mở rộng bờ cõi 
                về phía Nam mà không tốn một giọt máu viễn chinh. Luận cứ của 
                ông đã thuyết phục được quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ hài và 
                những người đứng về phía chống đối. Có nhiều biện tài cho nên 
                ông đã thuyết phục được vua và triều thần, nhất là khi Hoàng Đế 
                Anh Tông là một người con chí hiếu. Cuối cùng, cả triều thần đều 
                đồng ý việc chấp nhận sính lễ và định ngày mai sẽ báo tin cho 
                phái bộ Chiêm thành là lễ cưới được tổ chức vào tháng sáu sang 
                năm.
 
                - 
                
                Nghe anh Quốc Chẩn thuật tới đó. Huyền Trân liền rút lui về 
                phòng nàng. Số phận công chúa như thế là đã định. Hết rồi những 
                ngày thơ ấu. Hết rồi những ngày vô tư cười đùa dưới mái cung 
                quen thuộc. Hết rồi những mơ ước thường tình. Một nàng công chúa 
                sinh ra là để đền trả công ơn đất nước. Cũng không khác gì một 
                vị hoàng tử phải can đảm ra gánh vác trách vụ của một ông vua. 
                Trước kia, khi hầu chuyện với Thượng hoàng, nàng thấy việc về 
                Chiêm của nàng là một cử chỉ đẹp đẽ, phù hợp với nguyện vọng của 
                hai dân tộc Việt Chàm. Bây giờ đây nghe thuật lại những lời của 
                quan hành khiển, nàng lại có cảm tưởng nàng là món hàng đem đi 
                đổi chác. Công chúa gục đầu trong hai tay và khóc nức nở một hồi 
                lâu.
 
                - 
                
                Tối hôm đó, công chúa được vua Anh Tông gọi đến vỗ về và khích 
                lệ. Công chúa nghiêng đầu chăm chú nghe những lời dạy bảo của 
                anh. Chưa bao giờ vua Anh Tông dàng cho nàng nhiều thì giờ như 
                thế. Vua nói sang năm, đến ngày công chúa vu quy, vua sẽ cho 
                phép ngàng đem theo bất cứ người hầu cận nào mà nàng ưng ý và 
                vua cũng sẽ chọn nàng một thị nữ gốc Chàm để lo việc thông dịch 
                cho nàng trong những tháng đầu. Vua khuyên nàng từ ngày mai nên 
                bắt đầu học tiếng Chiêm Thành và hứa sẽ tìm cho nàng một vị giáo 
                thọ trong số những người học sĩ Chàm có mặt ở kinh đô. Vua lại 
                nói rằng thế nào những liên lạc ngoại giao Chiêm Việt cũng sẽ 
                trở thành khắn khít trong tương lai và có thể Thượng hoàng sẽ có 
                dịp đi vân du sang Chiêm trong vài năm tới. Công chúa hỏi anh và 
                chuyện nhượng địa. Vua nói rằng việc vua Chàm có ý định dâng hai 
                châu Ô và Ri là do từ ý vua ấy đề nghị để bày tỏ thiện chí muốn 
                xây dựng tình hữu nghị giữa hai nước chứ không phải chuyện mua 
                bán. Việc này không ảnh hưởng gì đến quyết định của Thượng hoàng 
                ngày trước, cũng không ảnh hưởng gì đến quyết định hôm nay của 
                vua. Trong triều có người vì tham đất nên tán thành chuyện thông 
                gia giữa hai nước, nhưng riêng vua, vua không nghĩ như họ. Vua 
                rất quan tâm đến hạnh phúc của công chúa và nghĩ rằng cuộc nhân 
                duyên này có thể mở ra một chân trời ngoại giao mới, có rất 
                nhiều hứa hẹn. Nghe vua nói thế, Huyền Trân nhìn vua với cặp mắt 
                biết ơn. Mấy năm gần đân, anh Thuyên của nàng thường bận rộn vì 
                việc nước, ít khi có dịp nói chuyện tâm tình với các em. Một 
                lần, cách đây hơn sáu tháng, vua có gọi Huyền Trân vào và cho 
                nàng xem tập Thủy Vân Tùy Bút của vua, trong đó toàn là 
                những bài thơ và những bức họa thủy mặc do chính vua ngự chế sau 
                những buổi chầu và vào những ngày tương đối nhàn nhã. Tập này 
                vua chưa từng cho ai xem hết, ngoài nàng, và vua dặn đừng cho ai 
                hay biết là vua có vẽ và có làm thơ. Anh Thuyên của nàng vừa 
                thông minh vừa thận trọng nên rất được Thượng hoàng tin cậy. Hồi 
                trẻ, anh chỉ có một cái tật là ưa rượu xương bồ, dấu Thượng 
                hoàng mà uống, và một lần Thượng hoàng đã bắt gặp. Việc này xảy 
                ra vào năm Ất Mùi, lúc Huyền Trân mới được tám tuổi. Năm đó, 
                Thượng hoàng đang tập sự xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Một hôm 
                bất thần ngài về kinh sư mà các quan trong triều không ai hay 
                biết cả. Trong lúc ấy, vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá. 
                Thượng hoàng thong thả đi quán sát trong cung điện từ giờ Thìn 
                đến giờ Tỵ mà cũng không thấy vua đâu. Nghe ngài hỏi, cung nhân 
                liền đánh thức vua, nhưng lúc ấy vua say quá dậy không nổi. 
                Thượng hoàng lập tức đi về cung Thiên Trường, xuống chiếu cho 
                các quan ngày mai về họp tại phủ Thiên Trường. Mãi đến quá trưa 
                vua mới tỉnh. Nghe cung nhận thuật lại cớ sự, vua sợ quá vội đi 
                ra thì không thấy bóng ai cả. Qua tới chùa Tư Phúc, vua gặp một 
                người học trò đại tập tên là Đoàn Nhữ Hài, liền nhờ anh này thảo 
                cho một tờ biểu tạ tội, rồi hai vua tôi lấy thuyền đi về phủ 
                Thiên Trường. Sáng hôm sau Đoàn Nhữ Hài thay vua đội mưa quỳ 
                trước sân từ sáng đến chiều để dâng biểu. Đọc biểu thấy lời lẽ 
                khẩn thiết, Thượng hoàng cảm động gọi vua và bảo:
 
                - 
                
                - Ta còn sống đây mà người còn dám làm như thế, thì khi ta chết 
                đi cớ sự sẽ như thế nào?
 
                - 
                
                Vua dập đầu tạ tội. Từ đó trở đi vua không động đến rượu xương 
                bồ.
 
                - 
                
                Những năm mới làm vua, anh Thuyên của nàng cũng còn ham chơi 
                lắm. Ban ngày bận việc triều chính, cho nên anh chỉ đi chơi ban 
                đêm. Cũng như Quốc Chẩn và nàng, vua không ưa bị tù túng. Ban 
                đêm vua thường đi chơi bằng kiệu, thăm viếng hết mọi nơi trong 
                kinh kỳ. Thường thường vua có đem theo mấy người thị vệ. Có một 
                lần đi chơi đến quân phường, vua gặp một bọn vô lại đang ném đá 
                vào nhau. Một đứa ném đá vào đầu vua chảy máu, người hầu la lên:
 
                - 
                
                - Đây là kiệu của vua, bọn bay đừng xâm phạm.
 
                - 
                
                Bọn vô lại chạy tứ tán. Hôm sau Thượng hoàng thấy vết thương ở 
                trán, hỏi, vua cứ thực thà tâu lại cớ sự. Hôm ấy vua cũng bị 
                Thượng hoàng quở cho một hồi.
 
                - 
                
                Anh Thuyên của nàng sinh vào năm Tí, làm vua từ lúc mười tám 
                tuổi. Lên ngôi hồi tháng ba thì tháng chín mẹ mất. Phủ phục bên 
                linh sàng của Hoàng thái hậu Khâm Từ, anh khóc đến đỏ cả hai 
                mắt. Huyền Trân lúc ấy cũng khóc, nhưng công chúa cứ tin là mẹ 
                mình có thể sống lại bất cứ lúc nào. Anh Quốc Chẩn khóc to lớn 
                hơn ai hết. Anh gào thét đến nỗi Thượng hoàng phải tới nắm vai 
                anh thật chặt và nhẹ nhàng bảo anh khóc nhỏ lại. Thái hậu Khâm 
                Từ là một bà mẹ rất ngọt ngào, thông minh và nhân từ. Đối với kẻ 
                dưới, bà rất rộng lượng cho nên ai cũng yêu mến bà. Bà lại nổi 
                tiếng là người can đảm không ai bằng. Có một hôm bà ngồi trên 
                vọng lâu cùng với Thượng hoàng xem võ sĩ đánh thi với cọp thì có 
                một con cọp nhảy được lên lầu khiến tất cả đều hoảng sợ bỏ chạy. 
                Lúc ấy bà thản nhiên lấy một chiếu chiếu lên che cho vua và 
                mình. Con cọp gầm lên nhưng không động đến hai người, và cuối 
                cùng nhảy xuống. Một lần khác ngự ở điện Thiên An với Thượng 
                hoàng để xem tập voi ở Long Trì, cũng có một con voi xông vào, 
                định lên trên điện. Quân hầu chạy tứ tán, chỉ có một mình bà 
                ngồi lại với Thượng hoàng. Con voi cuối cùng rồi không xông lên 
                điện. Bà thật xứng đáng là con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc 
                Tuấn, người có công đầu trong việc đánh bại cuộc xâm lăng của 
                quân Nguyên.
 
                - 
                
                Sau khi mẹ của công chúa mất thì bà dì của nàng được phong làm 
                Thái hậu Tuyên Từ. Liền sau đó, anh Quốc Chẩn cũng được phong 
                làm Huệ Võ Đại Vương. Anh mới mười ba tuổi, công chúa nhớ rất rõ 
                ngày lễ phong vương của anh Chẩn. Súng sính trong bộ áo mão lịch 
                kịch và nặng nề, anh Quốc Chẩn của nàng tập đi từng bước chậm 
                rãi và đường bệ, trông tức cười làm sao. Mặt anh ấy bí xị gần 
                như muốn khóc. Anh Chẩn chỉ ưa chạy nhảy, leo trèo và đánh nhau 
                với các vương tôn cùng lứa. Thái hậu Tuyên Từ rất nghiêm khắc. 
                Tuy bà có thương yêu ba anh em nàng thật nhưng không ai dám dễ 
                ngươi với bà. Anh Thuyên đã làm vua mà cũng sợ bà thin thít; bà 
                nói gì anh cũng vâng lời răm rắp. Có lần Thượng hoàng nói với 
                anh:
 
                - 
                
                - Ngày trước quần thần thường xưng tụng ta là một ông hiếu 
                hoàng, thực ra quan gia mới xứng đáng danh hiệu đó.
 
                - 
                
                Thượng hoàng gọi vua là "quan gia". Có một bữa Huyền Trân hỏi 
                "quan gia" là gì, ngài nói:
 
                - 
                
                - Quan gia là người biết xem đất nước là của công chứ không phải 
                là của riêng mình và xem cả thiên hạ là nhà của mình.
 
                - 
                
                Mặc dù Thái hậu Tuyên Từ dạy dỗ rất nghiêm, Huyền Trân vẫn không 
                bỏ được tính nết tinh nghịch của mình. Vắng mặt bà, nàng vẫn cứ 
                đùa giỡn thỏa thích. Tuy tinh nghịch nhưng không bao giờ nàng 
                rắn mắt cho nên các cung nhân thường cưng quý nàng và không bao 
                giờ mách lại với Thái hậu. Anh Quốc Chẩn của nàng cũng thường 
                hay kéo nàng tới tham dự những cuộc chơi mà anh tổ chức với các 
                vương tôn công tử cùng lứa tuổi. Anh thường rủ nàng sang sân 
                chùa Từ Phúc chơi, và ngoài thì giờ học hành hai anh em thường 
                tìm tới dưới bóng mát của những cây tùng, cây bách phía sau chùa 
                để nô đùa cùng các bạn.
 
                - 
                
                Năm Huyền Trân được mười ba tuổi thì hoàng tử Mạnh sanh. Hoàng 
                tử Mạnh là con vua Anh Tông. Mẹ của hoàng tử là hoàng hậu Thuận 
                Thánh, con gái đầu của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Bà đã sinh 
                đến hai hoàng nam rồi nhưng đều không nuôi được cho nên kỳ này 
                bà bàn với vua giao phó hoàng tử Mạnh cho thúc phụ của Thượng 
                hoàng là Chiêu Văn Vương Nhật Duật nuôi. Nhờ vậy mà Huyền Trân 
                thường có dịp cùng anh Quốc Chẩn đến chơi nhà ông chú để thăm 
                cháu mình. Mỗi lần đến nhà ông chú, Huyền Trân lại được phép ẳm 
                hoàng tử Mạnh. Đứa cháu mà nàng ôm trong tay, nàng nghĩ, sẽ trở 
                thành một ông vua sau này, và nàng tinh nghịch lấy một ngón tay 
                đưa vào nách cháu để nhìn ông vua tí hon cười lên sằng sặc trong 
                tay mình.
 
                - 
                
                Năm sau Thượng hoàng đi du hóa ở Chiêm Thành. Khi trở về ngài 
                cho Huyền Trân biết là ngài đã hứa gả nàng cho vua Chiêm. Ngài 
                nói là ba bốn năm nữa vua Chiêm mới cho người sang dâng sính lễ. 
                Ở xú nàng con gái lớn lên cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đấy. Công 
                chúa cúi đầu vâng dạ, nhưng trong thâm tâm vẫn nghĩ rằng ba bốn 
                năm sau còn là chuyện xa vời.
 
                - 
                
                Cho đến buổi trưa ngày anh Quốc Chẩn nhận sính lễ, Huyền Trân 
                mới thấy rõ đời mình đã thực sự chuyển sang một hướng mới. Nàng 
                đã khóc, nhưng chiều hôm đó, vua Anh Tông đã ôn tồn dạy bảo cho 
                nàng, với tất cả tình thương của một người anh cả cho đứa em út. 
                Đêm đó, Huyền Trân thao thức không ngủ. Nàng đợi cho đến sáng để 
                vào hầu Thái hậu Tuyên Từ, xin phép bà để về núi Yên Tử thỉnh 
                huấn Thượng hoàng hiện đang tu hành trên ấy. Thái hậu truyền lấy 
                kiệu cho nàng đi và cho Thị Ngọc đi theo nàng để hầu cận. Thị 
                Ngọc cũng suýt soát tuổi nàng và dáng người cũng dong dỏng cao 
                như nàng.
 
                - 
                
                Ngồi trên kiệu, Huyền Trân nghĩ đến thầy học của nàng là Văn Túc 
                Vương Đạo Tái. Theo anh Quốc Chẩn thuật lại thì Văn Túc Vương là 
                người đầu tiên đã đứng lên tán thành chuyện hôn nhân của nàng và 
                vua Chiêm. Ông là người nổi tiếng bậc nhất về văn học ở kinh sư. 
                Ông thương yêu Huyền Trân rất mực, và thường nói với Thượng 
                hoàng rằng công chúa một cô gái thông minh. Văn Túc Vương không 
                phải như quan hành khiển Trần Khắc Chung. Nếu ông có tán đồng về 
                việc nhân duyên này thì không phải là vì ông đã tính tóan chuyện 
                được mất theo lẽ thường tình. Chắc chắn là ông đã nghĩ tới ý 
                nguyện của Thượng hoàng và hạnh phúc của công chúa. Huyền Trân 
                rất mến thương ông. Phụ vương của nàng cũng tỏ ra có biệt nhãn 
                đối với ông. Thượng hoàng yêu mến ông hơn hết trong số các em 
                chú bác khác của ngài. Văn Túc Vương là con của Thượng tướng 
                Trần Quang Khải, người đã sáng tác thi tập Lạc Đạo, và 
                cũng là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc 
                Nguyên từ năm Nhâm Ngọ cho đến năm Mậu Tý. Công trạng của ông có 
                thể nói là ngang hàng với công trạng của Hưng Đạo Vương Quốc 
                Tuấn, ông ngoại của công chúa, bởi vì ông văn vũ toàn tài. Văn 
                Túc Vương cũng thừa hưởng khí chất văn tài đó của ông và không 
                biết do một nhân duyên mầu nhiệm nào đó, đã được Thượng hoàng 
                yêu mến đặc biệt. Có một lần công chúa thấy Thượng hoàng vời ông 
                vào cung, truyền sai làm những món hải vị hiếm có để thết đãi 
                ông, rồi ngồi nhìn ông ăn. Thượng hoàng lúc đó đang tập sự xuất 
                gia cho nên đã ăn chay trường rồi.
 
             
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |