| 
           
      
  
           
  |               
             
               VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
            
            
            
              
          
           
              AM 
              MÂY NGỦ
          
          
            
             
              
              Tác giả: Nhất Hạnh
              
             
            
              
              PL. 2537-1993 
            
              
              --o0o--
              
             
            
              
                
                
                   
                  - 
                  
                   
 
                  
                
                - 
                
                Hai 
                bên đường từ kinh sư đến chân núi Yên Tử, những hàng thông do 
                Thượng hoàng ra lệnh trồng xuống từ mười năm trước đây đã lên 
                cao và xanh tốt. Đó là lần đầu Huyền Trân được về núi Yên Tử. 
                Nàng có đức tin rất vững chải nơi Thượng hoàng, cho nên nàng 
                nghĩ rằng những lời dạy của cha sẽ rất cần thiết cho cuộc đời 
                của nàng sau này. May cho công chúa là lúc ấy Trúc Lâm đại sĩ vì 
                có Phật sự nên từ am Đỉnh Trúc trên ngọn Ngọa Vân, đã về tới am 
                Long Đông ở lưng chừng núi, nên nàng không phải leo trèo nhiều. 
                Thượng hoàng đã nói chuyện với con thật lâu bên bờ suối. Hai cha 
                con ngồi trên hai phiến đá đối diện nhau.
 
                - 
                
                Phụ hoàng bảo Chiêm Thành không phải là một nước di dịch như 
                nhiều người trong nước ta lầm tưởng. Chiêm Thành có một nền văn 
                minh khá cổ, chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Trúc nhiều hơn văn hóa 
                Đông đô.
 
                - 
                
                Ngài nói rằng vua Chế Mân là một thanh niên anh tuấn, có vũ dũng 
                mà cũng có văn học. Tuy Harijit không biết chữ Nho nhưng chàng 
                rất thông thạo Phạn ngữ. Ở Chiêm Thành, Phạn ngữ cũng quan trọng 
                như chữ Nho ở Đại Việt. Trong thời gian gần tám tháng lưu lại 
                kinh đô Phật thệ, ngài thấy cái nhìn của ngài về nước Chàm thay 
                đổi hẳn. Ngài rất yêu mến Harijit, và muốn coi chàng như vua Anh 
                Tông con ngài. Harijit lên ngôi từ năm Ất Dậu, và đã từng có 
                Hoàng hậu. Đó là một nàng công chúa xứ Qua Oa tên là Tapasi; bà 
                đã sinh hạ được hai vị hoàng tử, nhưng Hoàng hậu đã qua đời. Năm 
                nay Chế Mân mới vào khoảng bốn mươi, lớn hơn vua Anh Tông chừng 
                mười tuổi. Dân Chàm rất thương yêu Harijit. Thượng hoàng bảo 
                công chúa:
 
                - 
                
                - Ta tin rằng sau khi về Chàm con cũng được dân chúng thương mến 
                như họ đã từng thương mến Harijit. Ta có thể nói chắc với con 
                điều đó. Nếu con để hết tâm lực của con vào thì con có thể xây 
                dựng thật nhiều cho vương quốc này và tạo được mối cảm tình bền 
                chặt giữa hai nòi Chiêm và Việt.
 
                - 
                
                Huyền Trân nhìn giòng nước đang len lỏi qua những tảng đá dưới 
                lòng suối và nghĩ những lời nói vừa rồi của Thượng hoàng. Lát 
                sau, nàng nghe Thượng hoàng gọi nàng và bảo:
 
                - 
                
                - Con hãy đưa bàn tay của con lên quan sát thử xem.
 
                - 
                
                Huyền Trân đưa bàn tay trái của mình lên nhìn. Cổ tay nàng nhỏ; 
                bàn tay nàng mịn màng và có những ngón tay thuôn dài dịu dàng 
                như những búp măng non. Thượng hoàng nói tiếp:
 
                - 
                
                - Con hãy nhìn thật lâu và nói cho ta biết là con có nhìn thấy 
                ta trong bàn tay của con không?
 
                - 
                
                Công chúa đột nhiên phát giác ra rằng bàn tay của nàng là do 
                Thượng hoàng và Thái hậu mà có và sự có mặt của bàn tay này 
                không khác sự có mặt của Thượng hoàng và Thái hậu. Cái thấy đến 
                với nàng mau như một tia chớp giật. Chưa bao giờ công chúa nhìn 
                bàn tay mình với một cái nhìn thấu triệt đến thế. Nàng thưa với 
                Thượng hoàng:
 
                - 
                
                - Thưa Phụ hoàng, con có nhìn thấy.
 
                - 
                
                - Không những ta và mẹ con có mặt nơi bàn tay con mà cả giống 
                nòi và đất nước này cũng có mặt nơi bàn tay con. Con ở đâu thì 
                ta ở đó, con làm gì thì ta làm cái đó và dân tộc con làm cái đó. 
                Con hãy ghi nhớ điều này cho cẩn thận. Con về Chàm cũng như ta 
                về Chàm, và ta trông cậy hoàn toàn nơi con để tránh cho hai dân 
                tộc những cuộc đao binh sau này.
 
                - 
                
                Những lời nói của Thượng hoàng làm nẩy sinh một niềm thương cảm 
                và một sự quyết tâm nơi lòng công chúa.
 
                - 
                
                Những lời ấy cũng lại như nước mát dội vào tâm não căng thảng và 
                nóng bừng của nàng. Huyền Trân cảm thấy những lo âu thắc mắc của 
                mình đã tiêu tán; nàng tự nguyện sẽ làm hết sức mình để khỏi phụ 
                òng trông đợi của cha, của anh và của cả nước. Nàng theo Thượng 
                hoàng vào am để lạy Phật. Nhân dịp viếng thăm này, nàng được 
                Thượng hoàng giới thiệu vói một vị tăng sĩ trẻ tuổi là Pháp Loa. 
                Ngài cho biết đó là một vị đệ tử mới của ngài, và ngài bảo nàng 
                gọi ông là sư huynh. Nói chuyện với vị sư huynh này, Huyền Trân 
                biết ông còn là sa di. Ông sẽ được thọ đại giới vào ngày rằm 
                tháng bảy sắp tới. Thượng hoàng có vẻ yêu mến người đệ tử trẻ 
                tuổi này lắm.
 
                - 
                
                Thấm thoát mà năm Ất Tỵ sắp qua và mọi người đã chuẩn bị ăn Tết 
                Bính Ngọ. Cái Tết này là cái Tết quê hương cuối cùng của mình 
                đây, Huyền Trân nghĩ. Ngày Nguyên Đán, khi được nghe vua Anh 
                Tông mừng tuổi, công chúa biết là mình đã lên mười chín. Vua Anh 
                Tông cho nàng biết là lễ cưới sẽ được cử hành vào tháng sáu chứ 
                không phải vào tháng hai như đã định năm ngoái. Càng hay, nàng 
                lại có thêm thì giờ để học tiếng Chàm và để sống với tất cả tâm 
                hồn từng ngày từng giờ còn lại của cái nếp sống Đại Việt quý 
                báu. Bẩm tính thông minh, nàng học tiếng Chàm rất chóng. Vị giao 
                sư người Chàm của nàng cũng là một nhạc sư. Ông rất giỏi Phạn 
                ngữ. Ông đã kể cho Huyền Trân nghe cổ tích Mahabharata, trước 
                tiên bằng tiếng Đại Việt, rồi ông lặp lại bằng tiếng Chiêm. Ông 
                cũng đã dạy cho công chúa hát vài bản nhạc Chiêm Thành. Ông sử 
                dụng một cây đàn Chiêm năm dây trong khi ông hát. Ông cũng sử 
                dụng ống sáo, trống và tù và. Ông có dạy cho nàng học một số bài 
                thơ Chàm. Ông lại cho nàng xem những tập sách Phạn ngữ đóng bằng 
                lá buông, trông giống như những tập kinh Phật mà nàng đã thấy 
                một lần ở chùa Tư Phúc.
 
                - 
                
                Mồng mười tháng sáu năm ấy, phái đoàn Chiêm Thành qua để làm lễ 
                rước dâu. Phái đoàn này rất đông, có mang theo cờ quạt, kiệu 
                rước, một đoàn âm nhạc và nhiều thị nữ. Thượng hoàng có xuống 
                núi để tiễn đưa công chúa. Sau khi lạy Thượng hoàng, Thái hậu 
                Tuyên Từ và vua, công chúa lên đường. Nàng đem theo hai người 
                hầu, Thị Khanh và Thị Ngọc. Công chúa không đem theo người thông 
                ngôn bởi vì tiếng Chàm của nàng đã tạm đủ để diễn đạt ý mình. 
                Nàng chỉ đem theo một hòm xiêm y và một hòm sách vở, trong đó có 
                những tập sách Phật của Thượng hoàng biên soạn và những tạp thi, 
                văn và sử mà thầy học nàng là Văn Huệ Vương ban tặng.
 
                - 
                
                Cuộc hành trình kéo dài hơn một tháng trời, ngày đi đêm nghỉ. Có 
                rất nhiều sứ quán dọc đường, trạm nào cũng có đủ những tiện nghi 
                như bếp núc và lửa củi, Huyền Trân nhớ có lần kiệu vượt một cái 
                đèo cao, từ trên nhìn xuống cảnh mây nước bao la thật hùng vĩ. 
                Đám rước càng về tới gần kinh đô Phật Thệ thì càng đi chậm lại 
                bởi vì dân chúng tụ họp hai bên đường đón tiếp rất đông. Cờ biểu 
                được trương ra và đoàn nhạc vừa đi vừa biểu diễn đàn, sáo, tù và 
                và trống. May cho nàng trong những ngày ấy trời không mưa. Bây 
                giờ mới là tháng bảy theo lịch Đại Việt nhưng ở đây đã là tháng 
                tám, vào giữa mùa gặt lúa. Trai gái làm việc giữa đồng, đông 
                đảo. Thấy đám rước đi qua ai cũng ngừng tay, đứng dậy để nhìn; 
                hoặc nếu ruộng ở gần thì họ chạy lại đứng bên đường để đón kiệu 
                đi qua. Khi quân hầu báo là sắp tới thành Vijaya, tức là kinh đô 
                Phật Thệ, Thị Khánh và Thị Ngọc bắt đầu lo việc trang điểm lại 
                cho công chúa. Huyền Trân vừa hồi hộp mà cũng vừa tò mò. Nàng 
                luôn luôn nhìn ra ngoài kiệu để quan sát. Thỉnh thoảng nàng thấy 
                những tòa tháp lớn xây dựng trên một đỉnh đồi, kiến trúc rất lạ. 
                Dân chúng ăn mặc không giống như ở Đại Việt. Có rất nhiều người 
                mặc xiêm y bằng lụa hai ba màu trông rất đẹp. Nàng thấy nhiều 
                ruộng muối trắng xóa, tương tợ những ruộng muối miền Hải Dương 
                nhưng bao la hơn. Ruộng đồng cũng tương tợ như ruộng đồng ở Đại 
                Việt. Nàng thấy những con đập dẫn nước vào ruộng, và có cảm 
                tưởng rằng dân Chàm rất am tường về nghề nông.
 
                - 
                
                Từ trong thành Vijaya, một đám rước lớn đang tiến ra để đón phái 
                đoàn. Một đàn voi có phủ lụa nhiều màu, trên đầu voi những người 
                nài đầu chít khăn đỏ chói nhưng thân hình lại ở trần. Hai bên là 
                quân lính đi kèm, y phục sặc sỡ. Đoàn voi dừng lại. Công chúa 
                được rước từ kiệu khiêng sang kiệu voi có lọng ba tầng che phủ. 
                Nhạc nhã vang lừng. Dân chúng đổ xô ra hai bên đường để xem, 
                đông không biết bao nhiêu mà kể.
 
                - 
                
                Đám rước về đến nội thành thì trời đã xế trưa. Vua Chế Mân thân 
                hành ra đón công chúa ở trước sân điện. Con voi mang kiệu công 
                chúa qùy xuống, các thị nữ người Chàm đỡ công chúa ra khỏi kiệu. 
                Ngước mắt nhìn lên, Huyền Trân thấy cung điện nguy nga, kiến 
                trúc lạ kỳ, xây dựng toàn bằng đá ong và gạch nung. Trước sân 
                điện, có hai hàng voi đá và nghê đá. Quân sĩ đứng dàn ra hai bên 
                để vua Chàm tiến đến. Công chúa Huyền Trân chắp tay cúi đầu chào 
                vua theo kiểu Đại Việt. Vua đáp lễ. Đây là Jaya Simhavarman đệ 
                tam, công chúa nghĩ. Chàng cao hơn vua Anh Tông, thân hình vạm 
                vỡ nhưng nước da hơi sậm. Vua mặc áo lụa thêu chỉ vàng, trên đầu 
                đội một cái mũ cao có trang trí nhiều bông hoa làm bằng kim 
                tuyến, trên mũ có một cái chóp bằng lụa trắng. Một người lính 
                hầu đứng sau che lọng cho vua. Vua quay lại truyền thị nữ đưa 
                công chúa vào nội điện để giải khát.
 
                - 
                
                Những ngày kế tiếp là những ngày thật từng bừng của cả kinh đô 
                Vijaya. Không những trong cung điện mà ở khắp kinh thành thiên 
                hạ đều có giăng đèn kết hoa rực rỡ. Lễ đăng quang của Hoàng hậu 
                được toàn dân hăng hái tham gia khiến cho Huyền Trân thấy được 
                niềm kính ái lớn lao của dân chúng Chàm dàng cho ông vua của họ. 
                Ngày lễ đăng quang, nàng được phong hiệu là Hoàng hậu 
                Paramesvari. Vua truyền dựng ngay một bia đá ở Posah để ghi 
                lại sự kiện lịch sử này.
 
                - 
                
                Suốt ba ngày ba đêm, cả nước mở hội ăn mừng. Nhã nhạc vang lừng 
                cung điện. Đêm thứ nhất, một đoàn kịch nhạc trình diễn ngay trên 
                sân điện, kịch bản Mahabharata dưới ánh đuốc sáng rực 
                trời. Quần chúng tụ họp đông đảo. Vua và Hoàng hậu ngồi trên đài 
                cao có mái che. Đêm thứ hai, đoàn hát trình diễn tuồng 
                Ramayana. Huyền Trân chưa được biết cốt truyện này cho nên 
                Harijit phải giải thích sơ lược cho nàng trong suốt buổi trình 
                diễn. Đêm thứ ba vũ nữ Chiêm Thành trình bày những vũ khúc dân 
                tộc. Vũ nữ Chiêm Thành không ăn mặc tha thướt như ở Đại Việt. 
                Những cánh tay trần và những bắp chân trần của họ được trang 
                phục bằng những chuỗi hạt cườm, cổ và bụng cũng vậy. Thân hình 
                họ uyển chuyển, điệu múa của họ rất mềm, nhất là những cánh tay 
                của họ. Ban đầu Huyền Trân cảm thấy hơi bỡ ngỡ, nhưng ngay sau 
                đó nàng thấy được tất cả cái đẹp của vũ nghệ Chiêm Thành. Nàng 
                say mê nhìn. Những ngày hội hè qua và lễ đăng quang chấm dứt.
 
                - 
                
                Ngay trong ngày đầu gặp vua, nhìn vào hai mắt vua, Huyền Trân 
                biết là mình đẹp. Nàng làm cho vua Chàm ngạc nhiên hết sức khi 
                nói những lời đầu tiên với vua bằng tiếng Chàm. Nàng đã luyện 
                giọng thật kỹ với vị giáo sư của nàng về những câu nói mà nàng 
                định nói trước tiên với người. Nét mặt vua lộ vẻ hân hoan không 
                ai không trông thấy. Vua dặn nàng trong những lúc không có kẻ 
                thứ ba thì cứ gọi vua là Harijit. Tên đó, dân chúng cũng thường 
                dùng để nói tới chàng.
 
                - 
                
                Trong lòng người công chúa Đại Việt, tình yêu đối với ông vua 
                Chàm nảy nở rất mau chóng. Harijit không bao giờ bỏ lãng việc 
                triều chính, nhưng trong những thì giờ còn lại vua cứ quấn quít 
                bên nàng. Thị Khanh và Thị Ngọc vì tiếng Chàm còn yếu nên không 
                giúp đỡ được gì nhiều cho Huyền Trân; trái lại thỉnh thoảng còn 
                nhờ nàng làm việc thông dịch cho họ. Huyền Trân xin với vua cho 
                hai người thị nữ này được học thêm tiếng Chàm để đủ sức giao 
                tiếp với các cung nhân và với những người trong nội thành. Cùng 
                một vài cung nhân thân cận, nằng bắt đầu đi thám sát khắp nơi 
                trong nội cung, hỏi han về công dụng của từng ngôi nhà, từng 
                phòng ốc, và bắt đầu sắp đặt cuộc sống trong cung điện.
 
                - 
                
                Vua Chế Mân thường đi du hành trong nhân gian để thị sát và để 
                nghe góng dân tình. Huyền Trân được theo vua trong nhiều chuyến 
                đi như thế. Tại kinh đô Vijaya, được vua cho đi xem bốn ngôi 
                tháp nổi tiếng: Tháp bạc, tháp vàng, tháp đồng, và tháp ngà. Vua 
                lại đưa Huyền Trân tới xem một ngôi tháp lớn mà vua mới xây dựng 
                xong ở kinh đô: đó là tháp Po Klaung Garai mà vua rất đắc ý. 
                Tháp rất cao, phía trên có tới hàng mấy mươi mái bầu, trang trí 
                cực kỳ mỹ lệ. Vua cho nàng biết là vua cũng đang xây tháp Yang 
                Prong ở miền cao nguyên Darlac.
 
                - 
                
                Huyền Trân đã đi thăm nhiều tháp. Những tháp này đều có thờ 
                kinga tức là một trụ đá trần, đặt trên một phiến đá khác là 
                yoni; một tượng trưng cho dương, một tượng trưng cho âm. Vua nói 
                cho Huyền Trân biết là đá linga bao giờ cũng nằm ở vị trí 
                trung tâm của tháp, và những tháp này thuộc về Ấn Độ giáo tức là 
                Bà La Môn. Ba vị thần linh của tôn giáo này là Brahma, Visnu và 
                Siva tức là Tam Bảo của Ấn Độ giáo. Huyền Trân nhận ra rằng 
                Brahma là Phạm Thiên. Harijit nói rằng ngày xưa dân chúng theo 
                Phật Giáo rất đông đảo nhưng bây giờ thì hai phần ba dân tộc 
                Chiêm đã ngả theo Ấn Độ giáo. Biết Hoàng hậu là người đạo Phật, 
                vua đã đưa nàng đến ngôi chùa lớn nhất ở kinh đô Vijaya, để nàng 
                lạy Phật. Ở đây người ta gọi chùa là vihara; các tăng sĩ 
                mặc y màu cam chứ không phải mặc tràng nâu như ở Đại Việt. Huyền 
                Trân nhận thấy trong chánh điện ngoài tôn tượng đức Phật Thích 
                Ca còn có tượng đức Quan Thế Âm mà ở đây các thầy gọi là 
                Lahshmindra - Lokesvara. Vị sư trưởng ở Vihara cho Hoàng hậu 
                biết là ở cố đô Indraprura miền Bắc nước Chàm, phía Nam đèo mây, 
                có một tu viện Phật Giáo rất lớn, thành lập cách đây hơn bốn 
                trăm năm, và hiện có gần hai trăm tăng sĩ tu học. Tu viện này 
                hiện đã bắt đầu hư nát, cần được tu bổ. Huyền Trân ở lại chùa, 
                nghe các thầy tụng kinh. Họ tụng kinh toàn bằng tiếng Phạn, tuy 
                vậy khi họ tụng đến thần chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại 
                Bi Tâm thì nàng cũng nhận ra được, bởi vì nàng đã thuộc lòng 
                thần chú này, tuy cách phát âm tiếng Phạn của người Việt rất là 
                sai khác.
 
                - 
                
                Những chuyến đi mà Huyền Trân ưa thích nhất là những chuyến đi 
                thị sát về đời sống dân dã ở thôn quê. Trong những chuyến đi 
                này, nàng được tiếp xúc thẳng với người dân Chàm. Nàng được đi 
                thăm các ruộng lúa, các ruộng muối, các nhà dệt lụa, các làng 
                đánh cá. Huyền Trân nhận ra rằng bờ biển Chiêm rất nhiều cá và 
                dân Chàm là những ngư dân thiện nghệ. Họ chế tạo những chiếc ghe 
                nhẹ có thể đi rất mau trên biển. Người dân Duyên Hải nào cũng 
                bơi lội giỏi, cũng là những thủy thủ khéo léo. Harijit cho nàng 
                biết cũng vì lẽ đó mà Chiêm Thành có một lực lượng hải quân rất 
                hùng hậu. Quân lính Chiêm Thành, vua nói, chỉ được cấp gạo ăn và 
                áo mặc mà không được trả lương. Trong thời bình, họ xây đắp 
                tường lũy bằng gạch và tháp canh bằng đá để bảo vệ các miền đông 
                dân cư. Huyền Trân dã được nói chuyện với các bô lão, với ngư 
                dân, với các nàng thợ dệt, và các em bé. Chỉ có những người khá 
                giả mới đi giày dạ, còn phần đông đều đi chân đất. Y phục của 
                người dân thường được làm bằng một thứ vải lục gọi là ki pê i. 
                Đàn bà và con gái cũng có xâu lỗ tai và đeo khoen bạc hoặc đồng. 
                Đàn bà lớn tuổi thì búi tóc trên đỉnh đầu. Nhà cửa của dân quê 
                có vẻ chắc chắn hơn ở miền quê Đại Việt, bởi vì rất nhiều nhà 
                được xây bằng gạch nung trét vôi. Nhà cửa của kẻ khá giả có cả 
                sân thượng, gọi là 
                
                kan lan. 
                Những người nghèo lắm thì ăn mặc rất đơn giản: Họ chỉ quấn một 
                tấm ki pê i. 
 
                - 
                
                Nhận thấy nhiều trẻ em bị đau mắt nhặm, nàng xin với vua chế tạo 
                một thứ thuốc trị đau mắt mà nàng đã học được ở Đại Việt. Trong 
                những chuyến đi kế tiếp, nàng thường đem thuốc ấy đi theo, và 
                mỗi khi gặp trẻ em đau mắt, nàng thường bảo nấu nước muối rửa 
                mắt cho chúng rồi tự tay lấy thuốc đau mắt bôi cho các em. Mỗi 
                lần như thế, vua Chế Mân kiên nhẫn chờ nàng làm xong công việc 
                rồi mới tiếp tục cuộc du hành. Huyền Trân sung sướng lắm. Ở Đại 
                Việt ít khi nàng được ra khỏi cung cấm. Lần về thăm quê ở Hải 
                Dương, nàng có được tiếp xúc trực tiếp với dân quê và chơi đùa 
                với trẻ em bách tính đâu.
 
                - 
                
                Harijit cho nàng biết là ở Chiêm Thành có hai thị tộc lớn là thị 
                tộc cây dừa và thị tộc cây cau. Hai thị tộc này ngày xưa đã từng 
                xung đột nhau trong hàng trăm năm để giữ ưu thế, và nhiều  cuộc 
                đổ máu đã từng xảy ra vì thế. Nhưng bây giờ hai bên đã thỏa 
                hiệp. Thị tộc cây dừa ngày xưa chiếm lãnh miền Bắc, lập kinh đô 
                ở phía bắc đèo Mây, gọi là kinh đô Indraprura, còn thị 
                tộc cây cau thì chiếm lãnh miền Nam, làm bá chủ vùng 
                Panduranga. 
 
                - 
                
                Tết Chiêm Thành nhằm đúng vào ngày mồng một tháng mười một của 
                lịch Đại Việt. tại kinh đô Vijaya, ngày Tết được tổ chức thật 
                linh đình. Trước hoàng cung, lính ngự lâm dựng rạp để làm lễ. 
                Rạp chứa được cả vạn người. Khắp nơi đều có treo đền kết hoa. 
                Tối ngày mồng một, vua và Hoàng hậu ngự trên đài cao để xem đốt 
                pháo thăng thiên. Pháo bay rất cao, cả kinh đô đều trông thấy. 
                Tiếng pháo nổ lớn như súng bắn đá làm rung chuyển cả kinh kỳ. 
                Khắp nơi dân chúng tổ chức các cuộc vui như đua thuyền, leo cột 
                mở, đấu vật, chọi gà, đấu voi, múa hát và trình diễn kịch tuồng. 
                Vua đưa Hoàng hậu tới dự những cuộc vui dân dã. Huyền Trân nhận 
                thấy một số điệu hò vò vẻ quen thuộc, phảng phất âm hưởng Đại 
                Việt. Nàng chợt nhớ ra rằng trong quá khứ có nhiều điều hát và 
                điệu vũ tại Đại Việt đã được các vua Lý đem từ Chiêm Thành về. 
                Thầy học của Hoàng hậu ngày xưa đã có dạy nàng điều đó. Vua Chế 
                Mân nói cho hoàng hậu nghe về những "tọ" tức là những điệu hát 
                Chàm, như tọ mư yút, tọ tầm mư, tọ ra dao v.v... Nàng 
                thấy dân quê sử dụng các thứ đàn rasap và đàn kanh 
                tương tự như đàn nhị của người Việt. Đàn campi thì giống 
                như đàn tranh, và đàn kaping thì lại giống đàn bầu. Người 
                Chàm cũng dùng trống kinang tương tự như trống cơm của 
                Đại Việt. Đêm nào tại rạp dựng trước hoàng cung cũng có một đoàn 
                ca vũ hoặc kịch nghệ trình diễn và đêm nào dân chúng cũng quy tụ 
                rất đông đảo, vòng trong, vòng ngoài chật ních. Tết Chàm cứ thế 
                kéo dài cho đến mười ngày mới hết.
 
                - 
                
                Trong cung, vào những ngày rỗi rãi quốc sự, vua Chế Mân thường 
                kể cho Huyền Trân nghe về lịch sử Chiêm Thành. Vốn là một người 
                con gái ưa học hỏi, vị Hoàng hậu trẻ lắng nghe rất chăm chú 
                khiến cho vua lại càng ưa tâm tình với nàng. Vua kể cho Huyền 
                Trân nghe cuộc kháng chiếng chống quân Nguyên của vua và của 
                Thượng hoàng Indravarinan đệ ngũ. Hồi đó, Huyền Trân chưa sinh. 
                Năm nàng sinh là năm Mậu Tí, tức là năm Đại Việt vừa đánh bại 
                được đạo quân xâm lăng của Hốt Tất Liệt. Tên Harijit của chàng 
                có nghĩa là con sư tử chiến thắng. Theo Harijit thuật lại 
                thì vào năm Nhâm Ngọ, vua nhà Nguyên sai tướng là Toa Đô sang 
                đánh Chiêm Thành. Toa Đô muốn mượn đường Đại Việt để đi, nhưng 
                vua Nhân Tông không cho, cho nên đã dùng đường biển. Hơn một 
                ngàn chiến thuyền ra đi từ Quảng Châu đến đổ bộ trên bờ biển 
                Chiêm Thành. Hồi đó Harijit chưa lên ngôi nhưng chàng đã mười 
                tám tuổi rồi, và thái độ cương quyết chống Nguyên của chàng đã 
                làm cho chàng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến. Chàng ra 
                lệnh đốt hết kho lúa, tập hợp quân binh trên rừng núi và tổ chức 
                kháng chiến. Quân lính của Toa Đô bị thua nhiều trận đến thất 
                điên bát đảo, trong khi đó viện binh của Ô Mã Nhi do vua Nguyên 
                gởi tới lại bị chặn đứng ở biên giới Nguyên Việt. Năm Giáp Thân, 
                Thoát Hoan đem quân sang đánh Đại Việt; năm sau Toa Đô được lệnh 
                rút quân ra khỏi Chiêm Thành, đi lên miền Bắc để yểm trợ cho 
                Thoát Hoan. Do đó mà Chiêm Thành thoát ách đô hộ của quân Mông 
                Cổ.
 
                - 
                
                Huyền Trân kể cho vua Chế Mân nghe về cuộc kháng chiến chống 
                quân Mông Cổ của dân Đại Việt, với thật nhiều chi tiết. Thầy học 
                của nàng là Văn Huệ Vương đã dạy nàng rất kỹ về giai đoạn lịch 
                sử này; ông đã sống qua giai đoạn đó và đã từng quen với hầu hết 
                những anh hùng của cuộc kháng chiến. Vua Chế Mân say mê nghe 
                nàng nói, và thỉnh thoảng chen vào để hỏi thêm một vài chi tiết. 
                Huyền Trân nói tướng Trần Hưng Đạo là ông ngoại của nàng, và 
                tướng Trần Quang Khải là thân sinh của thầy học nàng.
 
                - 
                
                Nhờ nói chuyện với vua mà nàng biết được rằng Chiêm Thành đã 
                nhiều lần bị các nước chân Lạp và Đại Việt xâm chiếm. Năm Ất 
                Sửu, tức là khoảng một trăm sáu mươi năm về trưóc. Chân Lạp đã 
                qua xâm chiếm kinh thành Vijaya và đô hộ nước Chàm trong suốt 
                bốn năm ... Ba mươi hai năm sau, Chiêm Thành quyết chí phục thù 
                và đã đưa quân sang xâm chiếm kinh đô Angkor. Giết vua Chân Lạp 
                và cũng thiết lập một nền đô hộ trên đất này trong bốn năm. Rồi 
                cách đây đúng một trăm lẻ sáu năm, vua Jayavarman đệ thất của 
                Chân Lạp lại đưa quân sang xâm chiếm Chiêm Thành và trong suốt 
                mười bảy năm đã biến cải toàn nước Chàm thành những quận huyện 
                Chân Lap, khiến Chiêm Thành phải tranh đấu kịch liệt lắm mới 
                dành lại được quyền tự chủ. Nước Đại Việt cũng đã từng gây nhiều 
                khổ đau cho dân tộc Chàm. Vua Lê Đại Hành từng đem quân xâm 
                chiếm kinh dô Indrapura, đốt phá thành trì, lăng miếu, bắt trên 
                một trăm cung nữ, và chiếm lấy không biết bao nhiêu vàng bạc và 
                châu báu. Vua Chàm là Indravarman đệ tứ phải bỏ chạy vào Nam. 
                Cũng từ đó, kinh đô của nước Chiêm được xây dựng tại Vijaya. Vua 
                Lý Thái Tổ cũng đã từng qua xâm chiếm Chiêm Thành, giết vua Jaya 
                Simhavarman đệ nhị, bắt ba mươi thớt voi, năm ngàn tù nhân, tiến 
                quân vào Vijaya, bắt Hoàng hậu My Ê và trọn cả đoàn ca vũ Chiêm 
                Thành về nước. Lần đó quân Đại Việt đã chém giết hung bạo, xác 
                của thường dân Chàm chất đống đầy đồng. Cuộc xâm lăng thứ tư là 
                do Lý Thánh Tông cầm đầu với công phụ tá của tướng Lý Thường 
                Kiệt. Vua Thánh Tông cũng chiếm cứ Vijaya, bắt năm vạn quân 
                Chiêm làm tù binh và sai tướng Lý Thường Kiệt đuổi theo vua 
                Ruhravarman đệ tam tới tận biên giới Chân lạp và bắt được vua 
                này đem về Đại Việt. Sau khi hứa dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý 
                và Ma Linh ở miền Bắc Chiêm Thành cho Đại Việt, vua được thả về 
                Chiêm. Sự kiện tàn ác nhất trong cuộc xâm lăng này là quân Đại 
                Việt đã được lệnh đốt hết tất cả nhà cửa của dân gian trong nội 
                thành Phật Thệ.
 
                - 
                
                Harijit kể lại tất cả những điều đó với một giọng trầm buồn. 
                Hoàng hậu Paramesvari ôm mặt khóc. Nàng không ngờ giữa hai nước 
                Chiêm Việt đã có những giai đoạn lịch sử đau thương đến thế. Hồi 
                còn bé, Huyền Trân đã được nghe nói về những cuộc chiến tranh 
                Chiêm Việt, và nàng cứ nghĩ rằng tất cả tội lỗi là do người Chàm 
                gây nên. Nàng biết rằng Đại Việt có quyền đem quân ra biên giới 
                để dẹp những cuộc khiêu khích và phá rối của người Chàm, nhưng 
                không ngờ là các cuộc chinh phạt đã xảy ra lớn lao như thế. Có 
                thể là người Chàm hiếu chiến và ưa khiêu khích thật nhưng điều 
                này có thể phát sinh từ một mối căm hận lâu đời. Họ khó mà quên 
                được rằng một phần đất của đất nước họ nay trở thành lãnh thổ 
                Đại Việt. Qua những biến cố lịch sử mà nàng mới được nghe, Huyền 
                Trân thấy được ước muốn thâm sâu của đồng bào nàng trong việc mở 
                mang bờ cõi về phương Nam. Nàng nghĩ đến hai châu Ô và Ri vừa 
                mới được chuyển nhượng sang cho Đại Việt. Nàng biết tuy Thượng 
                hoàng và vua Anh Tông không nghĩ đến cái lợi đó khi cho nàng về 
                với vua Chiêm, nhưng biết bao nhiêu quan chức trong triều đinh 
                đã nghĩ đến cái lợi đó. Quan Nhập Nội Thành Khiển Trần Khắc 
                Chung nghĩ đến đã đành, mà quan Tham Tri Chính Sự Đoàn Nhữ Hài 
                tuy lúc đầu chống đối chuyện hôn nhân của nàng cũng đã nghĩ đến. 
                Huyền Trân vừa về được bốn tháng  mà đã cảm thấy mình là người 
                Chiêm rồi. Giòng máu Đại Việt còn luân lưu trong huyết quản của 
                nàng, nhưng nàng đã bắt đầu thương mến dân Chàm như là thương 
                mến dân Việt. Nàng thấy sự sống của người dân Chàm không khác gì 
                sự sống của người dân Việt, cả hai dân tộc cùng đau những nổi 
                đau như nhau, cùng buốn những nỗi buồn như nhau, cùng ao ước 
                những nỗi ao ước như nhau. Trái tim nàng đã hé mở, đã bao dung 
                được cả hai dân tộc. Thượng hoàng năm xưa đã ở lại đất Chàm gần 
                tám tháng, chắc chắn trái tim của Thượng hoàng cũng đã mở ra và 
                từ đó ngài đã thương dân Chàm như chính dân mình. Đó là một trái 
                tim của người con Phật. Trái tim của Huyền Trân hiên đang đập 
                một nhịp với trái tim của vị thiền sư núi Yên Tử. Trái tim của 
                nàng đã trở thành trái tim của Thượng hoàng. Trong giờ phút đó, 
                bỗng nhiên Huyền Trân thấy được tất cả tầm quan trọng của sứ 
                mệnh nàng: Phải làm sao duy trì bồi đắp nền hòa bình Chiêm Việt, 
                tránh cho dân của cả hai nước những cuộc tàn hại như trong quá 
                khứ.
 
                - 
                
                Nàng lau khô nước mắt, và ngước nhìn lên vua Chiêm, nàng nói cho 
                Harijit biết ý tưởng đó của nàng. Vua Chiêm hiểu được tâm trạng 
                của nàng công chúa Đại Việt, và cầm lấy tay Hoàng hậu, trang 
                trọng như đang nắm giữ một vật gì quý báu nhất đời.
 
                - 
                
                Đầu tháng Chạp năm ấy Huyền Trân thấy trong người khó ở. Vua Chế 
                Mân cho mời ngự y vào chẩn bệnh cho Hoàng hậu. Ngự y cho biết là 
                Hoàng hậu bắt đầu thai nghén. Vua mừng rỡ, lại càng cưng quý 
                Huyền Trân hơn, Hoàng hậu mong sẽ hạ sinh được một hoàng nam để 
                nối chí Thượng hoàng và cũng để nối chí của chồng. Huyền Trân 
                biết đứa con của nàng sau này sẽ không làm vua nước Chiêm Thành, 
                bởi vì vua Chàm đã có tới hai thái tử, và thái tử đầu đã được 
                phong làm Đông Cung. Tên chàng là Harijitputra, nghĩa là 
                người con của sư tử chiến thắng, Harijit năm ấy đã lớn. Đó 
                là một người con trai dễ thương, mang trong mình hai dòng máu 
                Chiêm Thành và Qua Oa. Huyền Trân đã nói chuyện nhiều lần với 
                thái tử và tuy đã hai mươi hai tuổi, thái tử rất cung kính đối 
                với nàng. Trong những buổi trao đổi chuyện trò với thái tử, 
                Hoàng hậu thương nhân cơ hội để gieo vào lòng người con trai này 
                những hạt giống thân hữu và hòa bình.
 
                - 
                
                Vua Jaya Simhavarman đệ tam có nói với Huyền Trân rằng dù Hoàng 
                hậu sinh con trai hay con gái thì vua vẫn mừng rỡ như nhau. Khi 
                biết được rằng Huyền Trân mong ước sinh con trai, vua ngẫm nghĩ 
                hồi lâu rồi nói:
 
                - 
                
                - Nếu Hoàng hậu sinh con trai ta sẽ đặt tên cho thế tử là 
                Dayada. Rồi vua cho Huyền Trân biết tên đó có nghĩa là con 
                trai, là hậu dệu, là người nối dõi. Hoàng hậu rất bằng lòng tên 
                ấy.
 
                - 
                
                Năm sắp hết và Tết sắp đến, Hoàng hậu bàn với Thị Ngọc và Thị 
                Khanh về việc thiết lập trong cung một bàn thờ tổ tiên đế cúng 
                lễ vào ngày Nguyên Đán Mậu Thân. Ở Chiêm Thành, dân chúng không 
                ăn Tết Nguyên Đán theo truyền thống Đại Việt. Huyền Trân chưa 
                bao giờ thấy nhớ nhà nhớ nước như thế. Nàng bảo Thị Khanh đi tìm 
                những vật liệu để nàng làm bánh chưng và bánh dày cúng tết. Đêm 
                Giao thừa, Huyền Trân thức với hai người thị nữ. Ba người nhắc 
                cho nhau ghe những câu chuyện Tết thời trẻ thơ. Họ nói chuyện 
                thân mật như ba chị em, và tuy hai thị nữ gọi tên Huyền Trân là 
                lệnh bà, họ cũng không thấy có gì ngăn cách tình thân giữa họ và 
                Hoàng hậu. Ba người nói chuyện với nhau cho đến Giao thừa mới 
                đứng dậy làm lễ tổ tiên. Huyền Trân vọng bái về phương Bắc, 
                tưởng nhớ đến Thượng hoàng, và tất cả những người thân. Hai cô 
                thị nữ cũng bắt chước nàng. Trong giờ phút đó, họ có cảm tưởng 
                rất gần gũi quê hương.
 
                - 
                
                Huyền Trân đã hứa cho Thị Khanh về nước vào tháng sáu năm Mậu 
                Thân để lập gia đình. Thị Ngọc thì tình nguyện ở mãi bên cạnh 
                Hoàng hậu. Ngọc đã từng lấy niềm vui của Huyền Trân làm niềm vui 
                của mình và đã quen săn sóc nàng như săn sóc cho một người chị. 
                Được Huyền Trân hỏi về chuyện gia đình. Ngọc đã lắc đầu mỉm 
                cười. Cuối cùng Ngọc đã thưa với Hoàng hậu là nếu cần, nàng sẽ 
                lấy chồng Chiêm Thành để có thể mãi mãi được gần Hoàng hậu.
 
                - 
                
                Huyền Trân đã học chữ Devanagari và đã đọc được những bản văn 
                dharmasastra bằng tiếng Phạn. Nàng cũng đã học đọc và viết 
                chữ khar - tapuk, một thứ chữ được thường dân sử dụng, 
                cũng viết từ trái sang phải như chữ Phạn chứ không phải viết từ 
                trên xuống dưới như ở Đại Việt. Nàng dạy cho Thị Ngọc học thứ 
                chữ này, thông dụng cũng như chữ Nôm ở Đại Việt. Chữ Phạn thì 
                chỉ có giới trí thức và quý tộc mới biết đọc và biết viết mà 
                thôi.
 
                - 
                
                Một hôm đi Panduranga, thị sát việc xây tháp Po Klaung Garai về, 
                vua Chế Mân lên cơn sốt. Huyền Trân cho gọi các ngự y vào chẩn 
                mạch cho vua. Ngự y nói là vua bị cảm cúm, bảo cung nhân đánh 
                gió cho vua. Hoàng hậu tự tay đi nấu cháo cảm và mang đến cho 
                Harijit. Vua húp được nửa bát, chảy mồ hôi, và thấy khỏe, nhưng 
                sáng hôm sau, vua lên cơn sốt trở lại. Cơn sốt kéo dài và vua 
                nói mình mẩy vua đau nhức như dần. Các ngự y lại được triệu vào. 
                Nhiệt độ của vua lên rất cao, và vua đã nói mê trong cơn sốt. 
                Huyền Trân hoảng hốt. Các ngự y chầu chực trong ba hôm liền mà 
                vua vẫn mê man không tỉnh. Người ta cạy miệng vua để đổ thuốc 
                vào, nhưng không đẩy lui được cơn bệnh. Hoàng hậu thức suốt ba 
                đêm bên giường ngự. Thị Khanh và Thị Ngọc khẩn khoản xin nàng đi 
                nghỉ để họ thay thế, nàng cũng không nghe. Những lương y nổi 
                tiếng, kể cả mấy vị lương y Tây Trúc cũng được mời vào cung tham 
                vấn. Ai cũng lắc đầu trước tình trạng vua. Triệu chứng của bệnh 
                vua tương tự như triệu chứng của bệnh thương hàn, nhưng thuốc 
                thương hàn ngự y đem dâng đã không có hiệu quả nào. Vào giữa 
                khuya ngày mồng bảy tháng năm, vua băng.
 
                 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |