| 
           
      
  
           
  |               
             
               VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
            
            
            
              
            
              
                
                   
                  - 
                  THI SĨ 
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  QUÁCH TẤN VỚI ĐẠO PHẬT
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Thích Phước Sơn
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                   
 
                  
                
                - 
                1- 
                 “THÂN NHƯ BÓNG CHỚP CÓ RỒI KHÔNG”
 
                - 
                
                Thi sĩ Quách Tấn tự Đăng Đạo hiệu Trường Xuyên, sinh ngày 4 
                tháng 1 năm 1910, tại huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, qua đời 
                ngày 21 tháng 12 năm 1992, tại Nha Trang. Ông là người đại diện 
                cuối cùng của trường phái thơ cổ điển Việt Nam, kế tiếp thi sĩ 
                Tản Đà và là một trong “Bàn thành tứ hữu” hay “Tứ linh” (long, 
                lân, quy, phụng). Theo như nhiều người kể lại, dân Bình Định gọi 
                Hàn Mặc Tử là rồng xanh, Chế Lan Viên là phượng hòang, Quách Tấn 
                là con rùa và Yến Lan là kỳ lân. Mặc dù Bình Định là nơi chôn 
                nhau cắt rốn, nhưng chính Nha Trang, miền thùy dương cát trắng, 
                mới là nơi cưu mang thi sĩ hơn nửa cuộc đời, cho đến ngày nhắm 
                mắt xuôi tay. Ông thường nói đùa rằng đời tôi có tứ thú và tam 
                vô. Tứ thú là:
 
                - 
                
                 “Có tiền in sách đẹp
 
                - 
                
                Gặp bạn sẵn thơ hay
 
                - 
                
                Giấc tỉnh hồi chuông sớm
 
                - 
                
                Võng trưa giấc ngủ ngày.”
 
                - 
                
                             Còn tam vô là: Không biết hút thuốc, không chơi cờ 
                bạc, và không đi xe đạp.
 
                - 
                
                             2- CHUÔNG CHÙA VANG VỌNG VỚI THI NHÂN.
 
                - 
                
                             Tiếng chuông chùa đối với thi sĩ Quách tấn như một 
                kỹ vật thiêng liêng từng chôn sâu trong tiềm thức của ông, nên 
                mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền thì nó bỗng dưng trỗi 
                dậy.
 
                - 
                
                “Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng,
 
                - 
                
                Đầm Ô sen nở gió thơm tho.”
 
                - 
                
                Không những lắm lúc ngắm cảnh thiên nhiên tiếng chuông chùa làm 
                ông chú ý, mà mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng 
                hiện đến:
 
                - 
                
                “Mây nước nhuốm phong trần
 
                - 
                
                Nơi đâu tình cố nhân
 
                - 
                
                Những đêm buồn tỉnh giấc
 
                - 
                
                Chùa cũ tiếng chuông ngâm.”
 
                - 
                
                Chính vì nghe tiếng chuông ngân mà khách hành hương trút hết mọi 
                nỗi ưu phiền, như thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã tả:
 
                - 
                
                 “Lạ cho vừa bén mùi thiền
 
                - 
                Mà 
                trăm não với ngàn phiền sạch không.”
 
                - 
                
                             Không khác gì cảm nhận của họ 
                
                Chu, 
                Quách tấn cũng mô tả trạng thái tâm hồn mình khi đến viếng một 
                cảnh chùa quen thuộc:
 
                - 
                
                “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân không 
                cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa 
                lánh hẳn cõi trần tục.” (nước non Bình Định)
 
                - 
                
                Thế rồi, thoảng đâu đây như có tiếng gió ru hồn lữ khách:
 
                - 
                
                “Gió ru hồn mộng thiu thiu 
 
                - 
                
                Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.”
 
                - 
                
                             Và thi sĩ tiếp: “Nếu không có tiếng chuông hay mộng 
                thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương 
                hương bay lờ lững trong hồ sen yên tịnh.”
 
                - 
                Cứ 
                thế, thời gian trôi đi và bóng tịch dương dần dà đổ xuống với 
                tiếng chuông chùa cổ thân yêu:
 
                - 
                
                 “Mây tạnh non cao đọng nắng chiều
 
                - 
                
                Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu
 
                - 
                
                Thêm nhiều lá rụng cây quằn quại
 
                - 
                Đã 
                vắng người sang bến nhẩy triều.”
 
                - 
                
                             Thế rồi, ngày lại ngày trong sự tất bật của cuộc 
                sống đời thường, nhưng mỗi khi nhìn thấy cảnh chùa thì âm vang 
                tiếng chuông lại ngân nga tựa hồ bất tận:
 
                - 
                
                 “Chùa ẩn non mây trắng
 
                - 
                
                Bóng in hồ liễu xanh
 
                - 
                
                Mai chiều chuông đã tạnh
 
                - 
                
                Vòng sóng còn long lanh.” (Tiếng ngân)
 
                - 
                
                             “Đây là hình ảnh thiên nhiên đầy tình tự, là khỏang 
                trời xanh tinh khiết còn lại trong đôi mắt long lanh của một nhà 
                thơ trong cảnh xế chiều của đời mình.” (lời bình của nhà thơ 
                T.S)
 
                - 
                2- 
                ĐẠO TÂM DÀO DẠT HỒN THI SĨ.
 
                - 
                
                             Có những lúc chúng tôi đến thăm, trong bầu không 
                khí đạo tình thân mật, thi sĩ tâm sự: “Gia đình tôi theo đạo 
                Phật, và tôi chịu ảnh hưởng tư tưởng thiền trong Phật giáo.” Và 
                trong khi đàm đạo, ông thường nhắc đến ngọn đồi Trại thủy, nơi 
                tọa lạc của Phật học viện Nha trang, một trung tâm đào tạo Tăng 
                tài trong giai đoạn cận đại. Hòa thượng Giám viện Phật học viện 
                Thích Trí Thủ lại là chỗ tương giao tâm đắc với thi sĩ, vì thế, 
                một hôm lên thăm chùa, nhân ngẫu hứng thi sĩ đã cảm tác một bài 
                ngũ ngôn, để tặng Hòa Thượng:
 
                - 
                
                “Trăng lên đồi Trại thủy
 
                - 
                
                Chuông khua ngời âm ba
 
                - 
                
                Bồi hồi mây khóa viện
 
                - 
                
                Sân Bồ đề sương sa.”
 
                - 
                
                             Ngoài ra, ngôi chùa Kim Liên tại Quận Diên Khánh 
                cũng là nơi lưu lại dấu chân của thi sĩ. Một hôm đến viếng cảnh 
                chùa, thấy Thượng tọa viện chủ tiếp đón khách tham quan niềm nỡ, 
                ông liền làm bài thơ để lại lưu niệm:
 
                - 
                
                 “Dặm hồng dìu dịu nắng
 
                - 
                
                Theo hứng viếng làng tu
 
                - 
                
                Ngụm nước đằm chơn vị
 
                - 
                Im 
                lìm sen nở thu.”
 
                - 
                
                             Người xưa từng nói: “Nhân giả nhạo sơn, trí giả 
                nhạo thủy.” (Người có lòng nhân ưa cảnh núi rừng, người có trí 
                thức ưa nơi sông nước). Phải chăng vì vậy mà các cảnh chùa tiêu 
                biểu cho đạo từ bi nhân ái – thường được xây cất trên các đồi 
                núi? Thậm chí có những ngôi danh lam quanh năm mây phủ xa xôi 
                chập chờn trông có vẻ tiêu dao thoát tục:
 
                - 
                
                             “Cây chen đá chất chập chùng
 
                - 
                
                Biển giăng dưới núi, chùa lồng trong mây.
 
                - 
                
                Bụi đời không bợn mảy may
 
                - 
                
                Chút thân rộng tháng dài ngày thảnh thơi.”
 
                - 
                
                             Ở đây ta thấy, thi sĩ không những sở trường về thơ 
                Đường luật mà thơ Lục bát của ông cũng rất đạt. Điều đặt biệt 
                hơn nữa là ông vận dụng thi pháp một cách tài tình để làm những 
                bài thơ theo thể ca dao mang đậm tình tự quê hương, và nói đùa 
                với bạn hữu là ca dao của nhân gian, như bài thơ dưới đây:
 
                - 
                
                             “Nón ngựa Gò găng
 
                - 
                
                Bún Song thần An thái
 
                - 
                
                Lụa đậu từ Nhơn ngãi
 
                - 
                
                Xoài tượng chín Hưng long …
 
                - 
                
                Mặc ai tham táo thích hồng,
 
                - 
                
                Lòng quê vẫn giữ một lòng trước sau.”
 
                - 
                
                             Phải chăng kiếp sống nhân sinh chập chờn như ảo 
                mộng? Con người luôn luôn chơi vơi giữa dòng trường lưu bất tận, 
                khiến đôi lúc chợt hứng cất tiếng gọi đò vang cả hư không:
 
                - 
                
                             “Đời nửa khói mây chìm bóng mộng,
 
                - 
                
                Gọi đò một tiếng lạnh hư không.”
 
                - 
                
                             Ta nghe được dư âm của thiền sư Không Lộ còn phản 
                phất đâu đây:
 
                - 
                
                             “Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
 
                - 
                
                Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.”
 
                - 
                
                             Không những chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của các 
                Thiền sư điều mà thi sĩ đã khẳng nhận – ông còn thâm nhập cốt 
                lõi của kinh Duy Ma:
 
                - 
                
                             “Ngày qua chầm chậm vách kim thinh
 
                - 
                
                Cảnh giới Duy Ma mình với mình
 
                - 
                
                Hoa rải tờ thơ hương lành lạnh
 
                - 
                
                Trăng cài nhánh mộng bóng xanh xanh.”
 
                - 
                
                             Và có lần thi sĩ thổ lộ:
 
                - 
                
                             “Cây thiết mộc lan nở hoa lần này là lần thứ hai 
                (tháng 12. 1992). Lần trước nở tôi 79 tuổi (1989). Hai nhánh lan 
                đã lên cao như hai cây sào, hoa nở trắng trên đọt, hương bay 
                chập chờn theo gió, nghe lũ cháu reo mừng. Tôi tưởng chừng như 
                hoa của thiên nữ từ trong vách Phương trượng của Duy Ma Cật bung 
                ra rải xuống hạ giới vậy.”
 
                - 
                
                             Điều này chứng tỏ thi sĩ càng về già càng đến gần 
                cõi đạo, như nhà văn Trần Phong Giao nhận xét: “Tới lúc về già, 
                ta thấy khí vị thiền lung linh bàng bạc trong thơ Quách Tấn, 
                nhất là trong nhiều bài in trong hai tập Mộng Ngân sơn và Giọt 
                trăng.”
 
                - 
                
                             Một hôm vào lúc xế chiều, thi sĩ lên chùa Hải đức 
                thăm một người bạn vong niên (tương truyền là thầy Nguyên Tánh). 
                Mặc dù tuổi tác chênh lệch nhau, nhưng hai tâm hồn như cùng 
                chung một giai điệu:
 
                - 
                
                “Áo giũ ngày sương gió
 
                - 
                
                Lên chùa thăm cố nhân
 
                - 
                
                Non nghiêng thềm bóng xế
 
                - 
                
                Lịu địu bóng nhàn vân.”
 
                - 
                
                             “Phong cách ấy quả thực có khác với chúng ta trong 
                những thù tạc vãng lai. Chúng ta đến và đi trong âm thanh và tốc 
                độ của thời đại cơ khí, ồn ào và vội vã … Nhưng thời đại của nhà 
                thơ là thời đại ẩn tình trầm lặng của một đám mây lơ tững, lồng 
                trong bóng núi nghiêng nghiêng.” (lời bình của nhà thơ T.S)
 
                - 
                
                             Có lẽ chúng ta ai rồi cũng có lúc “Giũ áo phong 
                sương trên gát trọ.” Để ngồi lại chiêm nghiệm chính mình, như 
                thi sĩ đã làm:
 
                - 
                
                             “Khép cửa phiền ba lại
 
                - 
                
                Vườn quê nắng sưởi tình
 
                - 
                
                Thanh bình lòng giếng ngọt
 
                - 
                
                Chim hót ngọc âm thanh.”
 
                - 
                
                             3- MAI SAU CÒN MỘT CHÚT NÀY LÀM TIN
 
                - 
                
                             Nhận xét về bút pháp của thi sĩ, học giả Nguyễn 
                Hiến Lê viết:
 
                - 
                
                “Văn ký sự, tả cảnh của ông hay, như trong hai cuốn địa phương 
                chí về Bình Định và Nha Trang. Xét chung, văn của ông cũng dùng 
                nhiều điển, nhiều chữ Hán, và khi nào ông viết tự nhiên thì văn 
                linh động và có duyên.” (Hồi ký Nguyễn Hiến lê)
 
                - 
                 
 
                - 
                
                Nhưng để nhắc lại tài dịch thơ của Quách tấn. Hòang Thúc Lâm kể 
                rằng: “Dịch thơ, Quách Tấn chú trọng ý hơn nghĩa, đó là phương 
                pháp của ông đã thực hành, và thường xuyên khuyên bạn hữu dịch 
                sát được nghĩa càng tốt. Nhưng đừng vì nghĩa từng chữ mà làm hại 
                ý cả câu, và cũng đừng vì ý của câu mà lại hại ý thơ.”(Tạp chí 
                Văn, số đặc biệt về Quách Tấn, 10/70)
 
                - 
                
                             Thiết tưởng những người là công tác dịch thuật nên 
                tham khảo ý kiến của thi sĩ Quách tấn để rút kinh nghiệm. Vì ông 
                không những thông Pháp văn, giỏi Hán văn, mà còn lão luyện Việt 
                văn, và khi phiên dịch, ông làm với tinh thần thận trọng và 
                nghiêm túc.
 
                - 
                
                             “Tôi đã gặp ông những lần ông đến thăm con. Tôi vẫn 
                nhớ lối ngồi xếp hai bàn chân theo kiểu nhập thiền, hai tay đặt 
                cân xứng trên hai đùi, và một cái lưng thẳng. Lúc ấy tôi đã nhận 
                xét: Cách ngồi đó ngay ngắn mực thước, cân xứng như những câu 
                thơ Đường …”
 
                - 
                
                             Tôi bỗng nhiên lại cảm thương nghĩ về những đại 
                biểu cuối cùng của một thế hệ nhà thơ: “Những người rồi được nhớ 
                đến trong văn học sử, nhưng dễ lãng quên trong cuộc đời thường, 
                ồn ào, xáo động.” Đó là nhận xét của ông Nguyễn Xuân 
                
                Nam đăng trên báo Văn Nghệ HNVVN. Số 27, 1992.
 
                - 
                Để 
                thấy rõ hơn chân dung của Quách Tấn, chúng ta có thể nghe ý kiến 
                của Giáo sư Phạm Công Thiện, người bạn tâm giao của thi sĩ:
 
                - 
                
                             “Quách Tấn là một Phật tử trọn vẹn, đã thu tóm tất 
                cả những bài thơ mộng của Phật giáo vào trong cuộc đời trầm lặng 
                của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời 
                thượng … Ông xứng đáng là kẻ nối dòng của Không Lộ thiền sư, Vạn 
                Hạnh thiền sư, Ngộ Ấn thiền sư, và tất cả những thiền sư thi sĩ 
                đã nuôi dưỡng linh hồn của cả một dân tộc, linh hồn của Lý 
                Thường Kiết đánh Tống và Trần Hưng Đạo đánh Nguyên.” (Trách 
                nhiệm của tuổi trẻ Việt 
                
                Nam với Quách Tấn.)
 
                - 
                
                             Phải chăng vì được nuôi dưỡng trong không khí tâm 
                linh của các Thiền sư – thi sĩ quá khứ mà “ Quách Tấn luôn luôn 
                giữ phong độ của kẻ mang hào khí ngút ngàn? Mỗi hàng, mỗi câu 
                đều thể hiện sáng sủa, uy nghiêm mà tràn ngập thi ca, khiến cho 
                người đọc ‘lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ.’ Tất 
                cả con người Quách Tấn là thi ca, là tiếng báo hiệu của một sự 
                tựu thành.” (nhà văn Nguyễn Thái - Quách Tấn quê hương và thơ).
 
                - 
                
                             Tìm hiểu về Quách Tấn, chúng ta thấy có mấy điểm 
                đáng chú ý:
 
                - 
                
                Đối với gia đình và bằng hữu, ông là người sống có tình có 
                nghĩa, chu đáo thủy chung. Đối với đạo pháp, ông tỏ ra thuần 
                thành, nhiệt tâm xây  dựng, đối với quê hương, ông biểu lộ tình 
                cảm nồng nàn, yêu qúi công lao của các bậc tiền bối và trân 
                trọng những di tích lịch sử. Về sự nghiệp văn học, ông làm thơ 
                theo đủ thể loại, mà loại nào cũng có những sở đắc, uẩn nhưỡng, 
                trắc luyện, còn về phương diện văn xuôi, ông cũng thể hiện được 
                văn tài tao nhã, súc tích, ông luôn luôn tiếp thu những cái mới 
                để khỏi lạc hậu, nhưng vẫn trung thành với cái cũ, giữ vững 
                truyến thống, nhất định không chạy theo thời thượng để khỏi trở 
                thành kẻ vong bản. Thiết tưởng đó là một đức tính cực kỳ cần 
                thiết cho quê hương Việt 
                
                Nam trong giai đoạn thay da đổi thịt này.
 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |