| 
           
      
  
           
  |               
             
               VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
            
            
            
              
            
              
                
                   
                  - 
                  
                  SÔNG NÚI THÌ THẦM ….. 
 
                  
                  
                  Diệu Trân 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                
                Một bài thơ dài, tựa đề rất ngắn: “Tĩnh thất” của thầy Tuệ Sỹ 
                gồm 32 tiểu đoạn, 127 câu đủ loại, đọc mệt nghỉ (phải đọc chậm, 
                khi mệt, nghỉ, mới nên đọc tiếp). Riêng tôi, không nhớ đã nghỉ 
                mấy chặng khi thăm Tĩnh-thất của thầy. Chỉ biết, khi cửa Tĩnh- 
                thất khép lại sau bước chân qua, tôi nhận ra mình vẫn đang bị 
                cuốn hút vào một câu, ở tiểu đoạn 4: “Gió ở đâu, mà sông núi thì 
                thầm”. Tôi có những cảm xúc rất lẩn thẩn, chính tôi còn không 
                biết từ đâu. Tôi chỉ có thể nói rằng những cảm xúc đó mãnh liệt 
                lắm, sức bật của chúng đôi khi khiến tôi ngồi lặng hàng giờ, chỉ 
                sợ nhúc nhích, chúng sẽ tan ! Có lần, các bạn đạo lên án rằng, 
                như thế là tôi sống trong mộng. Ô hay, cái gì là mộng, gì là 
                thực khi chính cuộc đời tưởng thực này chỉ là cơn đại mộng !
 
                - 
                
                Câu thơ này, ẩn chứa gì mà như con nước xoáy ? Tôi không lối ra, 
                đành cùng với gió, qua đồng cỏ, qua rừng trăng, qua suối cạn, 
                qua đồi cao, tới chân núi …. Gió ngừng lại, tôi ngẩn ngơ. Theo 
                vách đá, như trong mơ, tôi men về Trường Sơn; và thấp thoáng, 
                tôi thấy một bóng gầy khắc khổ, mong manh trong bộ áo nhật bình 
                4 vạt úa mầu gỗ mục. Thầy đứng im lặng trên đỉnh tuyết. Tôi dừng 
                lại, thở một hơi thật dài. Gió Trường Sơn no đầy buồng phổi, tôi 
                tự tin, theo vách đá mà bước, như con ong say mật lần theo hướng 
                gió mong tìm tới bông hoa đang tỏa hương kỳ diệu. Đường lên Yên 
                Tử có nao nức như vậy không, chỉ Thiền-sư Hương Vân biết được mà 
                thôi, dẫu ngài có chia xẻ với nhân gian cũng chỉ là giới hạn vì 
                mỗi chúng sinh đều có một góc riệng, rất riêng, riêng đến mức 
                chính chúng sinh đó, nếu không tự nhìn mình sâu sắc cũng không 
                nhận được ! Như tôi đang không rõ tôi lần theo bước chân thầy để 
                tìm gì ? Câu thơ đang dẫn tôi đi có là một phần lời đáp không ? 
                Có thể lắm, tôi muốn đảnh lễ thầy để xin thầy nói cho nghe, lời 
                sông núi thì thầm. Chắc hẳn thầy đã nghe được lời gọi thiêng 
                liêng ấy.
 
                - 
                
                Men vách núi, giòng nhạc symphony quấn quýt chắp cánh cho tôi 
                tìm dấu chân thầy:
 
                 “Cho tôi một hạt muối tiêu 
                Bờ môi em nhạt nắng chiều lân la 
                Tôi đi chấn chỉnh sơn hà 
                Hồng rơi vách đá mù sa thị thành” 
                - 
                Âm 
                thanh dương cầm thánh thót lời tạ từ, quấn quýt giòng vĩ cầm mời 
                gọi hối hả. Đi. “Tôi đi chấn chỉnh sơn hà” vì cờ hồng đã mù sa 
                thị thành. Thầy khẳng định rõ ràng ngay như thế, không quanh co 
                dấu diếm. Hành trang ư ? Chỉ xin em một hạt muối tiêu. Hạt muối, 
                vật tưởng quá tầm thường mà chính là sức sống. Muối tan trong 
                nước sẽ không nhìn thấy muối nữa nhưng nước ấy, có giọt nào 
                không mặn vị muối pha ? Với tấm! ! lòng tải đạo cứu đời, thầy 
                xuống núi: 
 
                - 
                
                “Đến đi vó ngựa mơ hồ
 
                Dấu rêu còn đọng trên bờ mi xanh” 
                Nghìn năm trước lên núi 
                Nghìn năm sau xuống lầu 
                Hạt cải tròn con mắt 
                Dấu chân người ở đâu” 
                - 
                
                 Giòng nhạc quyện vào lời thơ, từ nhịp ¾, chuyển sang 2/4 rồi 
                bất ngờ trở lại ¾, không theo luật lệ gì cả, nhưng nhạc như đã 
                ôm lấy thơ; tiếng harp rơi trên từng sợi tây-ban-cầm, rưng rưng 
                niềm thương cảm “Dấu rêu còn đọng trên bờ mi xanh”. Tơ rung đó, 
                thật nhẹ thôi, giòng vĩ cầm đã mời gọi:
 
                - 
                
                “Nghìn năm trước lên núi
 
                Nghìn năm sau xuống lầu” 
                 Bồ Tát hóa thân nên buồn nỗi buồn thế nhân, bước vào cõi ta-bà 
                phiền não giăng tơ: 
                “Ta không buồn 
                Có ai buồn hơn nữa? 
                Người không đi, 
                Sông núi có buồn đi? 
                Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa 
                Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi” 
                - 
                Bồ 
                Tát nhiếp tâm. Tiếng sáo, hay ca-lăng-tần-già cùng tưới mưa cam 
                lộ mát lạnh giòng suối ngợi ca cánh cửa Không hé mở:
 
                - 
                
                “Ta lên bờ,
 
                Nắng vỗ bờ róc rách 
                Gió ở đâu mà sông núi thì thầm? 
                Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát 
                Ráng chiều xa, ai thấy mộ sương dầm?” 
                - 
                
                Đây rồi ! Sáo và O’boe, hai âm thanh cao và trầm quyện vào nhau 
                bật lên hình ảnh động mà tĩnh, nhu mà cương, lặng lẽ mà quyết 
                liệt. Sông núi tuy chỉ thì thầm nhưng là tiếng gọi ngàn năm khẩn 
                thiết. Khi sông núi lên tiếng gọi, thuyền sẽ ra khơi:
 
                - 
                
                “Thuyền ra khơi, có mấy tầng tâm sự?
 
                - 
                
                Nắng long lanh, bóng nước vọt đầu ghềnh”
 
                - 
                
                Rồi Bồ Tát hòa nhập vào khổ lụy chúng sinh:
 
                - 
                
                “Lời rao trong ngõ hẻm:
 
                Đồng hồ điện! Cầu giao! Công tắc! 
                Những lời rao chợt đến, chợt đi 
                Một trăm năm mưa nắng ra gì 
                Cánh phượng đỏ đầu hè, ai nhặt?” 
                - 
                
                Tôi dừng lại bên vách núi. Mây xuống thấp, rừng cây mờ trong 
                sương, nhòa nhạt bóng hình bao triệu sinh linh quay cuồng trong 
                khổ nạn. Áo nhật bình biến mất trong giòng cuồng lưu; không nhìn 
                thấy nữa, nhưng tôi biết thầy còn đó vì trong tôi, niệm Quán Âm 
                vừa khởi “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, phụ nữ, 
                thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, 
                phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp ….” Bồ Tát lại hóa thân:
 
                - 
                
                “Lão già trên góc phố
 
                Quằn quại chiều mưa giông 
                Áo lụa gầy hoa đỏ 
                Phù du rụng xuống giòng … 
                Tiếng muỗi vo ve 
                Người giật mình tỉnh giấc 
                Ngoài xa kia 
                Ai đang đi? 
                Nước lũ tràn 
                Em nhỏ chết đuối 
                Tôi ngồi trên bờ 
                Vuốt ngọn cỏ mơ !” 
                - 
                Đó 
                chỉ là nhục nhãn của thế nhân nhìn Bồ Tát. Chư Phật thị hiện thế 
                gian chỉ vì một mục đích duy nhất là Khai, Thị, Ngộ, Nhập, Phật 
                tri kiến; Bồ Tát thị hiện ta-bà chỉ để cứu vớt chúng sanh, nên 
                mây vừa tan, tôi thấy lại ngay vạt áo nhật bình. Thầy vẫn đó, 
                cùng chúng sanh, tay áo rộng phất phơ loang ánh thép lằn gươm 
                Bát-nhã:
 
                - 
                
                “Anh đi để trống cụm rừng
 
                Có con suối nhỏ canh chừng sao Mai 
                Bóng anh dẫm nát điện đài 
                Ôi nỗi buồn 
                Thần tiên vĩnh cửu 
                Nhớ luân hồi 
                Cát bụi đỏ mắt ai” 
                - 
                
                Cát bụi ta-bà mù mịt lúc Bồ Tát vào đời, như lửa địa ngục rực 
                sôi khi Địa Tạng vương phát đại nguyện. Bồ Tát đói khi chúng 
                sinh đói, Bồ Tát ngồi tù khi chúng sinh bị xích xiềng, Bồ Tát 
                nguyện chết khi chúng sinh không còn đường sống …. Khi tôi leo 
                tới đỉnh Trường Sơn, thầy không còn đó nữa ! Nhưng Trường Sơn 
                bỗng nhiệm mầu như ngày nào pháp hội Linh Thứu chưa tan. Tôi 
                nghẹn ngào mà hoan lạc, tôi tức tưởi mà vững tin. Bóng áo nhậ! ! 
                ;t bình trong chấn song tù vẫn tự tại như cánh hạc trong sương 
                mênh mông:
 
                - 
                
                “Lặng lẽ nằm im dưới đáy mồ
 
                Không trăng không sao mộng vẩn vơ 
                Tại sao người chết, tình không chết? 
                Quay mấy vòng đời, môi vẫn khô” 
                - 
                
                Khi người chết mà tình không chết thì:
 
                “Nghìn năm sau 
                Trong lòng đất sâu 
                Thắm hạt mưa rào 
                Giọt máu đổi mầu” 
                - 
                
                Tôi thẫn thờ xuống núi. Qua gió rừng, giòng nhạc réo rắt âm 
                hưởng symphony thiết tha cung bực ¾ quyện sáo chiều, sương rơi, 
                lời Bồ Tát nhắn nhủ người phương xa:
 
                - 
                
                “Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
 
                Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ 
                Đường lịch sử 
                Bốn nghìn năm dợn sóng 
                Để người đi không hẹn bến bờ” 
                - 
                
                Mười lăm năm Bồ Tát trong ngục tối là mười lăm năm ánh sáng tỏa 
                năm châu, không chỉ với dân tộc Việt Nam trên đỉnh Trường Sơn. 
                Ánh sáng đó đã gõ cửa tam thiên đại thiên thế giới, mở ra chân 
                trời của muôn bàn tay búp sen chắp lại, hướng về trời Nam, 
                ngưỡng phục và đảnh lễ vị thiền sư gầy gò khắc khổ trong bộ áo 
                nhật bình bạc phếch, CHƯA TỪNG NGƯNG THUYẾT PHÁP BẰNG CHÍNH BẢN 
                THÂN MÌNH. Chính ánh sáng nhiệm mầu đó đã mở tung cửa ngục. Thầy 
                bước ra, thanh thản như khi bước vào, nhưng giòng nhạc thì không 
                kìm giữ được niềm hân hoan khi đón thầy trở về am thất. Âm thanh 
                vút lên như muốn vượt rừng, băng suối, lên núi, qua sông, báo 
                tin:
 
                - 
                “Ơ 
                kìa, nắng đỏ hiên chùa
 
                Trăng non rỏ máu qua mùa mãn tang 
                Áo thầy bạc thếch bụi đường 
                Khói rêu ố nhạt vách tường dựng kinh” 
                - 
                Bồ 
                Tát tụng Bát Nhã “…. Không có không không, không thêm không bớt, 
                không sạch không dơ, không lớn không nhỏ, không trong không 
                ngoài …..”, thế nên, Bồ Tát vẫn an nhiên hành Bồ-tát-đạo, dù 
                tang thương biến đổi, tiếng chuông-tâm không dứt, tiếng mõ-hồn 
                không lơi:
 
                  
                - 
                
                “Ơi người cắt cỏ ở bên sông
 
                Nước cuộn ngoài khơi có bận lòng 
                Phấn liễu một thời run khóe mọng 
                Hương rừng mờ nhạt rải từng không” 
                - 
                
                Trên sườn đồi mờ sương, vạt áo nhật bình lại bay bay trong gió, 
                như chưa từng rời xa chúng sinh đau khổ. Thầy cúi xuống, đôi tay 
                gầy mở rộng, lại sẵn sàng hứng hết cuồng phong. Nhạc thiết tha 
                theo làn khói, chở mênh mang diệu âm của cả đất trời mà đảnh lễ 
                Người vào đời bằng từ tâm Bồ Tát
 
                - 
                
                “Khói ơi, bay thấp xuống đi
 
                Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân 
                Ta đi trong cõi Vĩnh hằng 
                Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa” 
                - 
                
                (Theo bước chân Thiền-sư Tuệ Sỹ qua bài thơ “Tĩnh-thất”, nhạc sỹ 
                Trần Quan Long viết thành ca khúc) 
 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |