|     | 
  
           
  | 
              VĂN HỌC NGHỆ THUẬT 
             
              --o0o--
                 
                THUYỀN NGƯỢC BẾN KHÔNG
                 
                
                Tuệ Sỹ
                 
                
                --o0o--
              
                          
              Dưới 
              hiên mưa vắng hồn khua nước
              Thả 
              chiếc thuyền con ngược bến không
              Thơ 
              Viên Linh, Thủy mộ quan
               
              Tôi 
              sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi 
              biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau 
              đâu đó, lúc nào đó, bao giờ cũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà 
              hình như đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe 
              nhiều hơn là chuyện cổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảng thấy 
              vắng đi một người lớn. Rồi lại nghe những câu chuyện thì thầm. Mấy 
              chú, mấy anh lớn, đã từng ẳm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân 
              vật trong truyện cổ tích. Cách mà người lớn kể chuyện, lại làm cho 
              không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.
              Cho 
              đến khi lai rai đọc được tiếng nước ngoài, chuyện kể về chiến 
              tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoài niệm thôi, vì 
              đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm 
              ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện 
              tại. Quá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiều mất mát. Vì 
              những người đã đi, chưa thấy ai trở lại. Rồi cả những người cùng 
              trang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thì may mắn được ở lại. Nhìn 
              quanh, bảng đen, lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng băng lôi 
              người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.
              
              Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâu thẳm của khát khao, tình 
              yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ý thức sinh 
              tồn. Có một cõi thi ca riêng biệt như vậy. Dành cho những tâm hồn 
              nhạy cảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranh mà ngơ ngẩn, bàng 
              hoàng. Nhưng ngôn ngữ của nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọng, 
              đam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy 
              sâu ai biết ẩn chứa những gì.
              Nước 
              xa cuồn cuộn ra khơi
              Sâu 
              trong tâm thể có đôi giọt gần
              (Dư 
              tập, Thủy mộ quan)
              
              Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi cho một đời bận rộn. Không bận 
              rộn sao được, khi quanh mình những bạn bèn trang lứa lần lượt ra 
              đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận 
              thù, máu lửa, trong trái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. 
              Để lại cho thành phố khúc hát “Người đã đi, đi trên non cao…” Một 
              số khác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai 
              đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu, 
              thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.
              Mấy 
              chục năm sau, một thế hệ đang lớn, như nắng trưa xích đạo che lu 
              ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảng tôi đi tìm lại một 
              vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để cho hoài niệm 
              quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩ, ưu phiền, 
              và cả đến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng 
              mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thì chuyện biển 
              rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp 
              khúc hoài niệm bâng quơ. 
              Tôi 
              không đoán được bạn trẻ yêu thơ ngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn 
              câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượng gì. Nhưng người đã sinh ra và 
              lớn lên trong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung 
              đột, khắc khoải trong lòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay 
              đúng hơn là một ấn tượng, có thể thoáng qua chốc lát:
              
              Chiều về trên một nhánh sông
              Bên 
              tôi con nước đỏ lòng quanh co
              Nước 
              loang dưới đáy trời dò
              Buồn 
              tôi thánh thót trên lò nhân sinh
              (Một 
              Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy Mộ Quan)
              Đó 
              là một chút hơi thở tàn sinh, như bóng nắng là đà trên mặt nước, 
              không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đại dương. Một nhúm 
              cỏ xanh nhởn nhơ trên cánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phê bình 
              nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt 
              bạo tàn của chiến tranh là như thế.
              Rồi 
              đất nước hòa bình, dân tộc đang trở mình từ trong khói lửa, để cho 
              hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ 
              cầm bút bị khước từ. Vì đã không thể nhận thức tình yêu theo định 
              nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành 
              bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”
              Ngồi 
              trên đỉnh đồi Trại thủy, giữa thành phố Nha trang, nhìn xuống bên 
              dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếu nhi Tiểu học, hô vang 
              khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phản động, 
              đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chối bỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ 
              chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phần tử nguy hiểm, và được 
              liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để được ân huệ 
              khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người 
              cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn 
              lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay 
              trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có 
              lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những 
              người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người 
              anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển:
              Vua 
              gặp Âu Cơ lúc thủy du
              Cùng 
              nàng rung động nước thiên thu
              
              Duyên tan nàng bắt con về núi
              
              Những đứa theo cha khổ đến giờ 
              (Thủy 
              Mộ Quan)
               Ba 
              chục năm, một nửa theo Cha, một nữa theo Mẹ. Nhưng huyền thoại của 
              nhà thơ này vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì 
              ở đâu không thấy, mà tự thân thì bị ruồng rẫy bởi chính anh em 
              mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu 
              tích Trường sơn, “Quê người trên đỉnh Trường sơn. Cho ta gởi 
              một nỗi hờn thiên thu.” (Thơ Tuệ Sỹ). 
              Tôi 
              không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho 
              lời nói của mình như trong cơn mê sảng. Bạn cũ ở quanh đây thôi, 
              vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại 
              ngùng, ngại nghe những điều được giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự, 
              tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn được chỉ định phải đứng bên lề 
              xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố 
              nhân, bấy giờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biết họ đang làm 
              gì, đang nghĩ gì. Mỗi người một phong cách, trong một thế giới mở 
              rộng, đa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.
              Dù ở 
              phương này hay phương kia, dù có hay không có hai trận tuyến văn 
              chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫn còn hàng vạn nắm 
              xương dưới lòng biển:
              Lưu 
              vực điêu tàn ở Biển Đông
              
              Xương bầy như thú cháy rừng hoang
              
              Nhưng rừng không cháy nào đâu thú
              
              Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.
              
               Viên Linh, Thủy mộ quan
              Hận 
              thù có thể xóa được dễ dàng thôi, nhưng u uẩn của những hồn oan 
              đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sỗng vẫn mang mãi ân tình của 
              người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêng tư 
              hay vì tình chung dân tộc. Xưa Nguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại 
              chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chương cho người đã chết, mà 
              đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi 
              hồn” trong Thủy mộ quan cũng với tâm trạng tương tợ:
              Trên 
              Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc
              
              Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
              Thân 
              chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
              Sóng 
              bạc đầu hối hả phủ trùng dương.
              (…)
              
              Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà
              Lướt 
              hải phận về dưới trời cố quốc.
              (…)
              Bài 
              thơ không mang tiết nhịp gây cảm xúc bàng hoàng tức khắc, nhưng 
              những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy mộ quan làm cho 
              bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:
              
              Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng
              Thân 
              băng ngàn hải lý về sông
              Xung 
              quanh không một người than khóc
              Chỉ 
              cá trùng dương theo hộ tang.
              
                           Dù sao thì đất nước cũng đang hồi sinh. Những người 
              ra đi, lần lượt kéo nhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫn còn 
              là vết thương nhức nhối. Văn chương bây giờ vẫn là một lựa chọn, 
              hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa 
              tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một 
              tình tự nghìn đời, dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôi mong 
              được như lời Viên Linh nói:
              Sinh 
              ở đâu mà giạt bốn phương
              Trăm 
              con cười nói tiếng trăm giòng
              Ngày 
              mai nếu trở về quê cũ
              Hy 
              vọng ta còn tiếng khóc chung.
              
                         
              Tuệ 
              Sỹ,
              
              Saigon, đông 2004   |  |