|     | 
  
           
  | 
              TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO 
             
                --o0o--
                   
                  
                  BÁT BẤT TRUNG ĐẠO
                   
                  
                  Thích Như Điển
                   
                  
                  --- o0o ---
                
                 
                
                Chúng 
                ta sống trong thế giới ngày hôm nay đã cách xa Đức Phật hơn 2500 
                năm lịch sử và cách xa Ngài Long Thọ (Nagajuna) tác giả của 
                Trung Quán Luận là 1.800 năm. Nghĩa là Ngài sinh ra đời tại miền 
                Nam Ấn Độ cách Phật xuất thế khoảng 700 năm; nhưng từ ấy đến nay 
                giáo lý ấy vẫn còn có giá trị thực tiễn. Mặc dầu chúng ta đang 
                sống trong một thế giới văn minh tinh thần và vật chất tại Âu Mỹ 
                nầy.
                
                Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn 
                bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại 
                lập luận để thấy con đường trung đạo. Nghĩa là không phải cái 
                nầy mà cũng chẳng phải cái kia. Thông thường chúng ta chấp có, 
                chấp không, chấp còn chấp mất, chấp sinh chấp diệt, chấp đến 
                chấp đi v.v... Vì lẽ ta dùng con mắt bình thường của thế gian để 
                xem và phán xét như thế. Còn Bồ Tát nhìn sự vật của tâm thức 
                trước và sau rỗng không vô định, chẳng có giới hạn bởi thời gian 
                và không gian; cho nên mới đưa ra lập luận ấy. 
                
                Thế nào là bất sinh bất diệt? Nghĩa là ta vốn chẳng sinh ra và 
                cũng chẳng mất đi. Cái mà gọi là sinh đó, thật ra nó chỉ là một 
                hiện tượng. Vì ta thấy có một con người, một sự vật hiện hữu ở 
                đời nầy. Rồi sống một thời gian trên cõi thế để rồi một ngày nào 
                đó ta phải ra đi; gọi việc ấy là mất; nhưng mất cái gì và còn 
                cái gì? - Cái được gọi là mất đó thật sự ra nó cũng chỉ là một 
                sự trả lại cho đất trời vạn vật; cho đất, nước, gió, lửa mà 
                thôi. Vì khi ta sinh ra ta đã vay mượn của thiên nhiên vạn vật 
                thì khi ta chết đi ta chỉ trả lại mà thôi. Do vậy mà dưới mắt Bồ 
                Tát chẳng có sự sinh và chẳng có sự diệt. Ta mất chỗ nầy, ta sẽ 
                hiện hữu ở nơi khác và từ nơi khác sẽ đến chốn nầy để tồn tại 
                một thời gian; rồi một ngày nào đó sự hiện hữu ấy cũng phải thay 
                đổi vậy. 
                
                Bất đoạn bất thường; nghĩa là chẳng mất mà cũng chẳng còn. Cái 
                chẳng mất ấy chính là tâm thức của ta. Tâm ta giống như một dòng 
                điện. Dòng điện ấy luôn luôn tồn tại ở mọi nơi, mọi chỗ và mọi 
                hình thức khác nhau; nhưng khi một bóng đèn cháy rồi, ta không 
                còn thấy ánh sáng nữa, ta gọi là mất; nhưng thực sự ra ánh sáng 
                ấy vẫn còn, nó đang hiện hữu trong dòng điện ấy. Bằng chứng là 
                nếu ta thay một bóng đèn khác thì nó sẽ sáng lên. Ánh sáng ấy 
                nói là thường cũng không đúng, mà nói là mất cũng không đúng. Vì 
                lẽ ánh sáng ấy chỉ thay đổi, xê dịch tùy thời mà thôi. Tâm thức 
                ta cũng giống như vậy. Khi ta còn cảm giác thì bảo rằng ta biết. 
                Khi hơi thở hết rồi thì gọi là chết, mà ngay cả hơi thở ấy cũng 
                vay mượn của đất trời, chứ đâu có cái gì là của ta. Nó không có 
                chủ thể thật sự. Khi hít không khí vào để nuôi buồng phổi, rồi 
                thở không khí ra để tạo sự tuần hoàn. Khi không còn hít thở được 
                nữa thì ta bảo rằng đã dứt sự sống. Tâm thức ấy thực sự ra không 
                hoàn toàn là một tâm thức độc lập. Nếu ta là người thì tâm ta là 
                người. Nếu ta là vật thì dòng tâm thức ấy sẽ thay đổi thành sự 
                nhận biết của con vật, chứ không thể là sự nhận biết của con 
                người được. Do vậy nếu nói tâm ấy thường còn là điều không đúng.
                
                Như vậy tâm ấy sẽ đi về đâu? - Đó chỉ là một sự biến tướng của 
                sự nhận thức. Khi làm chúng sanh thì tâm ấy là chúng sanh. Khi 
                làm A La Hán thì tâm ấy sẽ chuyển đổi; khi làm Bồ Tát thì tâm ấy 
                lại càng mạnh mẽ hơn để lao vào đời mà cứu độ chúng sanh. Khi 
                thức đã chuyển thành trí trọn vẹn thì tâm ấy là Niết Bàn, Vô 
                Ngã, Chơn Như, Tịch Tịnh. Cũng là một dòng nước; nhưng khi chảy 
                đến chỗ đất lở thì ta thấy đục và khi chảy đến chỗ cát hoặc sỏi 
                đá ta thấy trong. Sở dĩ ta thấy trong hay đục là do nhận thức 
                chấp trước của mình mà có, chứ thật ra nước không trong mà cũng 
                chẳng đục. Do vậy mà tâm nầy cũng chỉ thế thôi. 
                
                Bất nhất bất dị nghĩa là không phải một mà cũng chẳng phải khác. 
                Điểm nầy hơi khó. Vì lẽ ít có loại triết học nào giống như triết 
                học của Trung Quán. Đa phần các học thuyết khác đều dựa vào một 
                đấng thần linh để làm chủ tể sinh ra vạn vật và có mọi quyền 
                năng bắt buộc loài người phải tuân theo; nhưng ở giáo lý của Đức 
                Phật không có điều đó. Có nghĩa là không ai sinh ra loài người 
                cả. Ngoại trừ nghiệp lực của con người đã tự tạo trong quá khứ 
                và chính nghiệp nầy đã và sẽ dẫn ta đi lên thiên đường hay xuống 
                địa ngục mà thôi. Trong truyện Kiều phần hết có 4 câu thơ thật 
                hay có thể diễn tả được tính cách  nầy. 
                
                "Đã mang lấy nghiệp vào thân
                
                Cũng đừng trách bởi trời gần trời xa
                
                Thiện căn vốn tại lòng ta
                
                Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" 
                
                 Có lẽ nhờ tụng kinh Kim Cang 300 lần; mỗi lần 
                ít nhất là một tiếng rưỡi đồng hồ; nên cụ Tiên Điền Nguyễn Du 
                mới kết được truyện Kiều thâm thúy như vậy.
                
                Rõ ràng là do nghiệp và vô minh tạo tác mà thành, rồi biến đổi: 
                chứ tuyệt đối chẳng có cái gì sanh và bị sanh, ngoại trừ nghiệp 
                lực chi phối. Điều quan trọng ở đây là gốc vốn thiện ở cõi lòng 
                thì kết quả của nghiệp là thiện chứ không thể trái ngược lại. 
                Nếu có, vả chăng đó chỉ là sự vay trả chưa xong của nhiều đời; 
                nên bây giờ phải trả tiếp đó mà thôi.
                
                Không khác mà cũng không nhiều hay không giống. Điều ấy có nghĩa 
                là ngoài cái nầy không có cái kia; hoặc ngược lại. Như ngoài A 
                không có B và ngoài B không có A.
                
                Nhứt nguyên luận hay nhị nguyên luận và tam đoạn luận của Âu 
                Châu cũng xuất hiện đồng thời với Trung Quán Luận nhưng không 
                thể sánh bằng và Trung Quán Luận đã vượt lên trên tất cả mọi lập 
                luận ấy vào những thời buổi ban đầu của thế kỷ thứ 2 sau Tây 
                lịch.
                
                Ở Âu Châu thời ấy chỉ có một vị thần sinh ra mọi sự thưởng phạt 
                của thế gian. Điều nầy không có trong giáo lý Phật Giáo. Như vậy 
                nó sẽ vô lý là ai đã tạo ra vị thần kia? Hay vị thần ấy tự sinh? 
                Nếu tự sinh thì không đúng với luật tuần hoàn của vũ trụ và của 
                khoa học.
                
                Nhị nguyên luận có nghĩa là cái nầy có cho nên cái kia có. Nếu 
                cái nầy không có thì cái kia không có. Ví dụ như A sinh ra B, 
                rồi B sinh ra C. Nếu A không có thì B sẽ không có và dĩ nhiên là 
                không có C. Nhưng câu hỏi được đặt ra cho phái nhị nguyên luận 
                của Âu Châu là ai sinh ra A thì họ không trả lời rõ ràng.
                
                Tam đoạn luận thì đa phần chúng ta đều biết. Đó là triết thuyết 
                của Socrates người Hy Lạp, đương thời đã thuyết phục được Âu 
                Châu là: 
                
                "Tất cả mọi người đều phải chết
                
                Tôi là người
                
                Vậy tôi phải chết" 
                
                 Đây là một sự lập luận gián đoạn và chỉ có tính 
                cách thời gian, chứ không có tính cách phổ quát. Còn Trung Quán 
                Luận thì không giống như 3 loại lập luận của triết học Âu Châu 
                thuở bây giờ. Ngài Long Thọ lập luận là: Trong cái nầy nó có cái 
                kia và trong cái kia nó có cái nầy. Ta đang sống cũng có nghĩa 
                là ta đang đi đến chỗ chết. Và sự sống chỉ là sự tiếp nối của 
                cái nầy và cái kia trong một thời gian nhất định nào đó, rồi nó 
                thay đổi.
                
                Ví dụ như trong cây bao giờ cũng có hoa và trong đá bao giờ cũng 
                có lửa. Về mùa đông ta không thấy hoa; nhưng khi xuân đến hoa 
                kia lại khoe sắc thắm. Vậy hoa từ đâu mà có? Do biến thể của đất 
                trời vạn vật và thiên nhiên; nhưng hoa chỉ trổ khi có đầy đủ yếu 
                tố thuận lợi. Phật tánh cũng giống như thế. Phật tánh ấy không 
                ngoài mà cũng chẳng ở trong. Nhưng nếu đầy đủ yếu tố thì cái 
                tánh Phật ấy sẽ thành Phật; chứ ta không cần đi tìm Phật ở bên 
                ngoài.
                
                Lửa cũng như thế, vốn tự có trong đá. Ta chỉ cần va chạm 2 hòn 
                sỏi, cục đá với nhau thì ta sẽ có lửa. Điều kiện ắt có và đủ ở 
                đây chính là động tác tạo lửa; cũng không phải vì ta làm cho va 
                chạm mà có lửa. Vì lửa đã sẵn có; nhưng vì điều kiện lúc ấy đã 
                chín muồi; nên lửa lại phát sanh. Phật tánh cũng giống như vậy. 
                Do những tư lương Bồ Đề thành thục thì Phật tánh lại hiển lộ. Do 
                vậy mà ta thấy có người đã thành Phật, mà có kẻ vẫn còn là chúng 
                sanh. 
                
                Bất khứ bất lai là chẳng đến mà chẳng đi. Thân và tâm nầy thật 
                ra cũng chẳng từ nơi nào đến mà cũng chẳng phải đi về đâu. Ví 
                như gió thổi, mây bay. Ta ở đây thì có gió, cây bị động. Nên ta 
                thấy có hiện tượng gió; nhưng gió bắt nguồn từ đâu và sẽ đi về 
                đâu thì chẳng ai trả lời được. Tâm nầy cũng thế; nó hiện khi ta 
                thức và nó ẩn khi ta ngủ. Nếu nói lúc ngủ không còn tâm thì tại 
                sao khi ta thức, cái sự hiểu biết ấy nó lại hiện hữu và khi ta 
                chết thì bảo là mất; nhưng cái biết ấy nó sẽ mất đi đâu và nó sẽ 
                đi về đâu?
                
                Vậy thì trước khi ta đến thế giới nầy, ta là ai? Và sau khi ta 
                chết đi, ta sẽ đi về đâu? Theo lập luận của Ngài Long Thọ thì ta 
                không đến mà ta cũng chẳng đi. Sở dĩ mà ta thấy có đến và có đi, 
                vì ta thấy có sự hiện hữu của một con người, với thân tứ đại 
                nầy; nhưng con người ấy nó sẽ không là gì cả so với cái to lớn 
                của đất trời vạn vật và của không gian cũng như thời gian trong 
                một hay nhiều kiếp lai sinh.
                
                Trong thân thể của mình có sự vay mượn và sự hiện hữu của mẹ 
                cha. Thế mà khi cha mẹ hay người thân mất ta bảo là không còn gì 
                nữa. Đó là một sự ảo tưởng. Tại sao không còn? Thử hỏi dòng máu 
                nầy, gương mặt kia từ đâu mà có, nếu không phải từ cha mẹ sinh? 
                Do vậy mà ta bảo rằng mất; nhưng điều ấy chẳng mất; nó chẳng mất 
                mà nó cũng chẳng còn. Vì nó phải bị chi phối bởi thời gian, nên 
                phải chết và thay đổi dáng hình. Như vậy ta bảo rằng đi khuất 
                hay đã mất; nhưng khuất cũng có nghĩa là sẽ hiện lại khi cần và 
                cái mất ấy chỉ có tính cách tương đối, chứ chưa và không tuyệt 
                đối. Vậy thì tâm nầy hay thức nầy nó chẳng từ đâu đến và khi mất 
                đi thì nó cũng chẳng đi về đâu. Do vậy mà trong kinh Kim Cang, 
                Phật dạy rằng:
                
                "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc và vị lai tâm 
                bất khả đắc". Nghĩa là tâm quá khứ đã chẳng được, tâm hiện tại 
                cũng như thế và tâm vị lai thì biến đổi trong từng sát na sanh 
                diệt. Vậy thì cái gì là có, cái gì là không? Cái gì còn và cái 
                gì là mất? Dưới mắt của Bồ Tát thì mọi hiện tượng trong thời 
                gian nầy chỉ là một sự biến tướng giống như người mang cặp kính 
                nhiều màu. Khi đeo màu nầy thì ta thấy đối tượng là màu ấy. Khi 
                ta thay đổi màu khác thì ta bảo rằng đối tượng kia đã đổi màu; 
                nhưng trong thực tế thì đối tượng không thay đổi, chỉ có ta đang 
                thay đổi vị thế của các cặp kính ấy.
                
                Trung Đạo là nói về cái lý sở tác. Chính quán và Trung quán là 
                nói về cái trí năng chứng ấy. Hơn nữa đối với thiên (lệch lạc) 
                thì gọi là Trung, đối với tà thì gọi là chính. Trung Đạo ở đây 
                có nghĩa là:
                
                "Phi nhất, phi nhị thị vi trung đạo"
                
                Nghĩa là: 
                
                "Không một mà cũng chẳng hai, đó là con đường chính giữa"
                
                Con đường chính giữa là con đường phủ nhận những loại cực đoan 
                bên nầy hay bên kia, tốt hay xấu. Đây là cái lý. Còn điều chính 
                yếu là nói về cái trí năng phân biệt mọi việc của tâm thức. Ta 
                sẽ biết đâu là đúng và đâu là sai. Sở dĩ mà có sự sai đúng. Vì 
                ta chấp vào chỗ thấy biết của mình làm chủ; nhưng thật sự ra sự 
                thấy biết của mình căn cứ nơi cái gì để cho là đúng. Tất cả cũng 
                chỉ là sự chấp ngã và chấp tướng và ngay trong sự chấp đó cũng 
                đã có sự thay đổi rồi; nên chẳng có gì là chân lý khi tâm ta vẫn 
                còn vọng động và đối đãi. Cái tuyệt đối ở đây có nghĩa là mọi 
                vật và mọi việc nó là: "như nhị". Như thế ấy đó. Cái gì đến cứ 
                để cho nó đến. Cái gì đi hãy để cho nó đi. Hãy đừng tiếc thương, 
                ái luyến. Cũng đừng sầu khổ, vấn vương. Điều quan trọng là hãy 
                biết chấp nhận sự thật của cuộc đời. Mà sự thật của cuộc đời là 
                gì? - Là cái không to tướng, là cái không do mọi sự giả hợp mà 
                thành. Sở dĩ ta khổ đau bởi vì ta thấy có. Bây giờ ta hiểu được 
                lẽ trung đạo rồi thì có không nó cũng chẳng phải thực tướng nên 
                ta không bị chi phối bởi đối tượng, mà ta phải làm chủ lại đối 
                tượng. Do vậy mà Minh Châu Hương Hải Thiền Sư của Việt Nam chúng 
                ta thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nói rằng: 
                
                "Có thời có tự mảy may
                
                Không thời cả thế gian nầy cũng không
                
                Cho hay bóng nguyệt dòng sông
                
                Nào ai hay biết có không là gì ?" 
                
                 Có thì một chút cũng gọi là có, mà không thì to 
                lớn bao nhiêu cũng gọi là không. Khi bóng trăng chiếu trên mặt 
                nước thì ta bảo rằng có trăng, có nước và khi trăng di chuyển đi 
                nơi khác, mặt nước vẫn còn đó; nhưng ta lại chẳng thấy trăng 
                đâu, rồi ta lại nói không. Đây chỉ là một hiện tượng vần xoay 
                của mặt trời, mặt trăng và quả đất. Còn ta, ta vẫn bị cái đến đi 
                nó chi phối trong từng giờ từng phút như vậy.
                
                Hai câu cuối mới thật là tuyệt vời. Giống như 2 câu thách đố của 
                những hành giả tu hành. Đó là việc có không ấy ai biết được. Kẻ 
                nào biết được thì chính kẻ ấy là kẻ hiểu đạo. Rõ được đường đi 
                lối về của 2 nẻo tử sinh. Trong đời nầy chỉ có việc sinh và tử 
                là quan trọng, mà biết được và làm chủ được chính mình, thì còn 
                gì hơn được nữa. 
                
                Đối với những bậc giải thoát giác ngộ thì tâm thường tự tại an 
                nhiên, trạm tịch. Tuyệt nhiên không gợn một chút phiền não nào. 
                Còn tâm ta cũng vậy; nhưng chỉ toàn là bụi trần che phủ nên khi 
                hành động một việc gì thì cũng chỉ toàn là khổ đau và sầu muộn. 
                Ta đã biết mọi lý kỹ rồi. Bây giờ chỉ còn chấp nhận và thực hành 
                thì mới có kết quả khả quan được. Nếu không hạ thủ công phu ngay 
                từ bây giờ thì chẳng khác nào ta thấy một món ăn ngon mà ta chưa 
                cầm đũa và chưa thưởng thức thì giá trị của món ăn ấy ta vẫn 
                chưa cảm nhận được trọn vẹn nơi khẩu vị của mình. "Có thực mới 
                vực được đạo" là vậy. Chữ thực ở đây không nhất thiết là ăn mà 
                là chứng thực hay hiểu rõ được chân lý. Ấy là thực. Thực đây là 
                hiểu sự thật của vạn pháp và rõ được đường đi lối về. 
                
                Giáo lý Trung Đạo nầy do Ngài Đại Luận Sư Long Thọ đã chủ 
                trương, nhằm xiển dương tinh thần Đại Thừa Phật Giáo và lấy từ 
                căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Ngay cả Phật Giáo Nguyên Thủy 
                cũng chưa hẳn đã hoàn toàn chấp nhận quan điểm nầy; nhưng theo 
                Ngài, Ngài bảo rằng: Tất cả nền giáo lý ấy mà không có một phái 
                ngoại đạo nào phá vỡ được, thỉ đó chính là giáo lý của Đức Phật 
                và là giáo lý của Đại Thừa". Nói như thế không sai. Vì lẽ cái 
                nầy khi lớn lên không phải chỉ có một cái gốc, hay chỉ có một 
                cành, mà cành ấy phải tỏa ra cành lá sum sê thì cây ấy được gọi 
                là cây phát triển. Ở đây tinh thần Đại Thừa giáo cũng vậy, lấy 
                những điểm chính trong giáo lý của Đức Phật để xiển dương tinh 
                thần giác ngộ giải thoát. Tuy có đi ra ngoài khuôn mẫu; nhưng nó 
                là sự phát triển của một thân cây, nhất là cây ấy đã có mấy ngàn 
                năm lịch sử. 
                
                             Viết xong trong khóa Tu Gieo Duyên kỳ 7
                
                Tại Chùa Viên Giác Hannover từ ngày 1 đến 14 tháng 7 năm 2005
                
                Thích Như Điển       |  |