| 
           
      
  
           
  |               
             
               TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
            
            
            
              
            
              
                
                   
                  - 
                  
                  Không Tông & Hữu Tông
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  (Trích từ Phật Giáo Tam Bách Đề - Từ Thiệu Cường)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  Thích Nữ Liên Nghiêm dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  ---o0o---
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                
                Không tông và Hữu tông là tên riêng của hai tông phái lớn của 
                Phật giáo Ðại Thừa Ấn Ðộ. Không tông gọi đủ là Ðại Thừa Không 
                tông, là tên riêng của tông phái Trung Quán Phật giáo ; Hữu tông 
                gọi đủ là Ðại thừa Hữu tông, là tên riêng của tông phái Du Già 
                Phật giáo. Lấy Không, Hữu để đặt tên cho hai phái lớn này, chủ 
                yếu là do đặc trưng giáo nghĩa của hai tông phái này. Nói cách 
                khác, tông phái Trung quán sở dĩ có tên là Không tông, chính là 
                vì tông phái này đặc biệt nói rõ bản chất của sự vật hiện tượng 
                duyên khởi tánh không ; tông phái Du Già sở dĩ có tên là Hữu 
                tông, là do tông phái này nhấn mạnh tất cả các sự vật hiện tượng 
                đều là tồn tại hư giả do “thức” biến hiện ra, mà “thức” biến 
                hiện ra vạn tượng trong vũ trụ thì tồn tại, có nghĩa là “hữu”.
                
 
                - 
                
                Tông phái Trung quán trên cơ sở tư tưởng không quán vào đầu thời 
                kỳ kinh điển Bát nhã đại thừa xướng đạo, đã đưa ra lập trường 
                trung đạo để thuyết minh bản chất “không” của sự vật tồn tại. Lý 
                luận tánh không của “Kinh Bát nhã” cho rằng, bản chất sự vật thì 
                không có chân thật bất biến, cho nên gọi là không ; nhưng sự vật 
                hiện tượng thì tồn tại nên gọi là huyễn có. Ngài Long Thọ là 
                người đặt nền móng cho tư tưởng tông phái Trung quán, tiến một 
                bước từ trong quy định bản chất “tự tánh” và mối quan hệ hai lần 
                phủ định của “hữu (tồn tại)” và “vô (không tồn tại)”, để luận 
                chứng “vô tự tánh, ”, từ đó xiển thuật tư tưởng trung đạo của 
                mình. Ngài Long Thọ cho raèng “tự tánh” chính là cái mà rời bỏ 
                tất cả sự vật hiện tượng khác mà có thể độc lập tồn tại, tức là 
                không cần tha nhân mà tự ngã sanh ra, tự ngã tồn tại, hoặc là tự 
                ngã tồn tại không bị bất cứ điều kiện hạn cheá nào ; nói ngược 
                lại vật sanh ra do điều kiện nhân duyên chính là “vô tự tánh”. 
                Tất cả sâm la vạn tượng không có cái nào mà không ở trong mối 
                quan hệ nhân quả, đều là vô tự tánh, chính là “không” ; “không” 
                chẳng phải là hư vô, mà là chỉ sự xuất hiện của sự vật bắt nguồn 
                từ một nhân duyên nào đó. Như thế, Ngài Long Thọ từ trong tánh 
                chất duyên khởi của pháp và tự tánh có cách nhìn phủ nhận sự vật 
                có tự tánh . Tự tánh của sự vật đã không thể thành lập, thì cũng 
                không thể có tha tánh, vì tha tánh chính là tự tánh của sự vật. 
                Tự tánh, tha tánh đều không thể thành lập, thì không có “hữu 
                (bản chất tồn tại)” của thế giới vạn vật, đó gọi là “bất hữu” ; 
                đã không có “hữu ”, cũng không tồn tại “vô (sự biến hóa của bản 
                chất)”, vì không có bản chất, nên không có sự biến hóa của bản 
                chất, đó gọi là “bất vô”. 
 
                - 
                
                Ngài Long Thọ còn đưa ra, “không” chính là sự thống nhất của 
                “hữu” và “vô”, “bất hữu” và “bất vô”. Nói nó là “vô”, “bất hữu”, 
                là chỉ sự vật không có tự tánh, không có sự tồn tại của bản chất 
                ; nói nó là “hữu”, “bất vô”, là chỉ sự vật đều nằm trong điều 
                kiện nhaân duyên, sự biến hóa sanh diệt của sự vật, chỉ có ý 
                nghĩa sự vật từ điều kiện nhân duyên này chuyển đến một điều 
                kiện nhân duyên khác, hoàn toàn không có sự biến hóa của bản 
                chất. Cái “không” này là sự nhận thức chân thật nhất đối với thế 
                giới, là chân lý tuyệt đối do Ðức Phật thuyết ra, chính là “chân 
                đế”. 
 
                - 
                
                             Ngài Long Thọ chỉ ra : lại có một loại “tục đế” đối 
                đãi với “chân đế”, là nhận thức điên đảo của phàm phu thế tục 
                đối với thế giới. Trong con mắt của phàm phu tục tử, sự tồn tại 
                của sự vật là vì nó có thực thể, sự biến hóa, phát triển của sự 
                vật là sự biến hóa hoặc mất đi của bổn thể của sự vật. Vì thế, 
                phàm phu tục tử nói “hưõu” là thực hữu, là sự tồn tại của thực 
                thể. Nếu họ nói “vô”, thì có ý nghĩa là hư vô, là sự tiêu tán 
                mất đi của thực thể. Như thế chúng sanh sẽ vì “hữu” mà vui, vì 
                “vô” mà buồn, không bao giờ giải thoát được sự trói buộc của 
                phiền não. Vì để phương tiện hướng dẫn cho chúng sanh tiếp nhận 
                chân đế của Phật giáo, nhận thức một cách như thực bổn lai diện 
                mục của sự vật, Ðức Phật chỉ đành mượn các danh từ mà thế tục đã 
                nhận thức như : hữu, vô, không... để thuyết minh duyên khởi, vô 
                tự tánh, như thế chân lý mà Phật vì chúng sanh phương tiện 
                thuyết ra gọi là tục đế. 
 
                - 
                
                Nói khái quát, Ngài Long Thọ cho rằng, do tác dụng nhân duyên mà 
                vạn tượng vũ trụ sanh ra, được phản ánh trong nhận thức, có thể 
                gọi đó là “không”, cũng có thể nói là sự giả thuyết của ngôn ngữ 
                văn tự ; mặc khác tính chất chân thực của tự thân các hiện tượng 
                sự vật đều nương vào điều kiện nhân duyeân nhất định mà sanh 
                khởi thì chẳng phân ra không và giả. Ðó chính là nói, “không” 
                chẳng phải là bản chất chân thực của tự thân hiện tượng sự vật, 
                mà là một loại quy định từ nhận thức luận Phật giáo đối với 
                duyên khởi sự vật của đại thừa Không tông. 
 
                - 
                Kỳ 
                thực, thừa nhận tất cả hiện tượng sự vật đều do nhân duyên hòa 
                hợp mà sanh khởi, là nguyên lý căn bổn của Phật giáo, không phải 
                một mình tông phái Trung quán hiểu rõ được sự mầu diệu của giáo 
                lý duyên khởi, mà tất cả tông phái Phật giáo đều ở trên cơ sở 
                này đối với nghĩa lý Phật giáo mà riêng có phát minh và sáng 
                tạo. Các nhà học giả Trung quán như Ngài Long Thọ... về đặc điểm 
                nổi bật của phương diện duyên khởi luận, các Ngài y cứ tư tưởng 
                duyên khởi đưa ra “không”, đó cũng chính là nguyên nhân sở tại 
                mà các Ngài có thể lấy “Không” làm tông. Các Ngài sở dĩ có thể 
                từ lập trường duyên khởi nói “không”, vì với cách nhìn của các 
                Ngài, một vài bộ phái Phật giáo trước đó, trên cơ sở thuyết 
                duyên khởi đưa ra những kết luận đã đi lệch hướng, xa rời mục 
                đích tôn chỉ của Phật giáo là đưa người liễu thoát sanh tử. Nói 
                một cách xác thực, không quán của Ngài Long Thọ, chủ yếu là nhắm 
                vào các bộ phái Phật giáo nhất là thiên kiến của Thuyết Nhất 
                Thiết Hữu Bộ về phương diện duyên khởi luận.
 
                - 
                
                Thời kỳ bộ phái, một vài bộ phái Phật giáo từ tư tưởng duyên 
                khởi tất cả sự vật đều do nguyên nhân điều kiện mà tồn tại, đưa 
                ra kết luận sự vật thực hữu, trong đó đặc biệt nổi tiếng là 
                Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cho rằng, 
                không những sự vaät hiện tượng tồn tại trước mắt thực hữu mà tất 
                cả vật chất tinh thần hiện tượng ở quá khứ và vị lai cũng đều 
                phổ biến tồn tại. Người đã đều có quan niệm sự vật trong quá 
                khứ, hiện tại, vị lai là tồn tại, đó chính laø thuyết minh sự 
                vật là thực tế tồn tại, vì nếu sự vật không tồn tại, người sẽ 
                không có đối tượng của tư tưởng. Lại nữa, theo duyên khởi luận, 
                kết quả là do nguyên nhân trước đó mà sanh ra, do nhân mà có 
                quả, kết quaû không thể sanh ở không vô. Nguyên nhân đã có thể 
                sanh ra kết quả, thì chứng minh nguyên nhân là thực tại. Như 
                thế, thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ từ phương diện có nguyên nhân tánh 
                của sự vật hiện tượng tồn tại mà khẳng định tất cả sự vật vĩnh 
                viễn tồn tại. Ðiều này trái ngược với quan niệm vô thường của 
                Nguyên thủy Phật giáo. Vì để khẳng định quan điểm vô thường của 
                Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ phân hóa 
                ra như Thuyết Kinh bộ lại cho rằng, sự vật quá khứ và vị lai đều 
                không có thực thể, thực tại chỉ là sự vật tồn tại trước mắt. Với 
                cách nhìn của Thuyết Kinh bộ, sự thực hữu hoặc tồn tại của sự 
                vật là đối với một công dụng nào đó vốn có của sự vật mà nói. 
                Nếu sự vật sanh ra một loại kết quả nhất định nào đó, từ một 
                loại hình thức tồn tại chuyển hóa thành một loại hình thái tồn 
                tại khác, chính là chứng minh sự vật này là thực tại. Do đó 
                Thuyết Kinh bộ còn phủ nhận quan điểm Niết bàn là cảnh giới an 
                lạc vĩnh viễn, cho rằng tất cả đều là vô thường, Niết bàn cũng 
                chỉ là cảnh giới ngừng thọ khổ, siêu việt luân hồi mà thôi.
                
 
                - 
                
                Tông phái Trung quán cho rằng, người do vì đối với diện mục thực 
                tế của tất cả sự vật ở thế gian không có sự nhận thức chân 
                chánh, mà sanh ra hý luận vô ích, phân biệt điên đảo, vì thế mới 
                bị chịu các sự thống khổ không ngừng. Giải trừ tất cả thống khổ, 
                điều căn bổn nhất là phải thể hội tất cả sự vật không có thực tế 
                tự tánh, từ trong duyên khởi sự vật hiện tượng nắm bắt cho được 
                cái “không”. Các học giả của tông phái Phật giáo Du Già được 
                thành laäp sau đó, một mặt kế thừa tư tưởng duyên khởi tánh 
                không của tông phái Trung quán, mặt khác cho rằng : Cách nói 
                “tất cả đều là không” sẽ dẫn đến sự phủ định Phật Pháp Tăng Tam 
                bảo, phủ định chủ thể thành Phật cùng vơùi sự tồn tại của cảnh 
                giới Niết bàn, hình thành sự nguy cơ của lý luận, gây tai hại 
                cho sự tồn tại của tự thân Phật giáo. Vì thế tông phái Du Già 
                đưa ra tư tưởng mới “cảnh vô thức hữu”, một mặt tiếp tục kiên 
                trì lập trường căn bổn của đại thừa Phật giáo duyên khởi sự vật 
                giả có, mặt khác lại tuyên bố “thức” là thực tại, là “có”. Ðó 
                chính là nguyên nhân mà gọi là đại thừa Hữu tông. Thích ứng với 
                mục đích căn bổn giải thoát thaønh Phật của Phật giáo, lấy “thức 
                hữu cảnh vô” làm cơ sở, tông phái Du Già lại đưa ra “chuyển thức 
                thành trí”, chủ trương chúng sanh thông qua triệt để chuyển biến 
                tư tưởng ý thức, cuối cùng có thể đạt được vô thượng trí huệ, 
                chứng thánh thành Phật. 
 
                - 
                Từ 
                đó có thể thấy “không” của Không tông và “hữu” của Hữu tông hoàn 
                toàn không có đối lập. “Không” mà tông phái Trung quán nói ra là 
                muốn phủ định tánh thực tại của tất cả hiện tượng sự vật ; “hữu” 
                mà tông phái Du Già nói ra, chỉ là khi đồng thời hoàn toàn phủ 
                định tánh thực tại của vạn vật thế giới, lại giữ lại một cái 
                “thức”, từ đó vì sự tu trì giữ lại cái khả năng chuyển thức 
                thành trí. Chính laø nói, Hữu tông ra đời sau Không tông, trên ý 
                nghĩa tích cực, kế thừa tư tưởng trung đạo của duyên khởi tánh 
                không, đồng thời lại bổ sung “tất cả đều không” của tông phái 
                Trung quán, có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực. Kyø thực, đại thừa 
                Không tông chủ trương “tất cả đều là không”, đồng thời cũng đưa 
                ra “thực tướng Niết bàn”. Chỗ cao minh của Hữu tông đại thừa 
                chính là thông qua “vạn pháp duy thức”, kết hợp sự phủ định vạn 
                vật thế tục và lý tưởng vi diệu xuất thế giải thoát. 
                
 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |