PHẬT GIÁO VIỆT NAM

(PHÁP VÂN TỰ)
 
Dù ai đi đâu về đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
 Mấy câu ca dao trên gợi lên nỗi nhớ về một ngôi chùa thuộc vào loại cổ nhất nước ta, được xây dựng vào đầu thế kỷ III sau Công nguyên, nằm ở trung tâm của cố đô Luy Lâu, nay thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, cách Hà Nội khoảng 30km. Đó là chùa Dâu hay Pháp Vân Tự, đời Lý mang tên Cổ Châu, đời Trần mang tên Thiền Định, đời Lê mang tên Diên Ứng.
Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, chùa Dâu đã chứng kiến sự phát triển của một khu buôn bán sầm uất nằm trên giao điểm những con đường lớn thời xưa mà nay chỉ còn lại di tích đổ nát là thành Luy Lâu nằm ở ngã tư Thuận Thành (Hà Bắc) giữa hai tỉnh lộ: một về phía Bắc đến Đông Triều - Phả Lại, một về phía Nam đến Khoái Châu - Hải Hưng.
Lịch sử chùa Dâu gắn liền với huyền thoại Man Nương, người trinh nữ làng Mãn Xá bên sông Đuống từ lúc 12 tuổi đã bỏ từ bờ Nam sang bờ Bắc để học đạo với Thiền sư Khâu-đà-la người Thiên Trúc (Ấn Độ) ở chùa Linh Quang (xã Phật Tích, Tiên Sơn). Khâu-đà-la là một Thiền sư đã kết hợp việc truyền giảng Phật giáo Mật Tông với tín ngưỡng dân gian nên có ảnh hưởng rộng lớn trong cư dân Luy Lâu. Nhưng con đường học đạo của Man Nương bị dở dang vì một hôm, đang lúc nàng đang ngủ, Khâu-đà-la sau giờ hành lễ đã bước qua người nàng khiến nàng thụ thai. Một năm hai tháng sau, nhằm ngày 8 tháng 4 âm lịch, Man Nương sinh một bé gái và mang trả cho Thiền sư, Khâu-đà-la bồng đứa bé đến một cây đa cổ thụ ven sông, niệm thần chú. Khi nhà sư dùng thiền trượng gõ vào, gốc cây nứt ra, đứa bé được đặt vào, vết nứt liền khép lại và một mùi hương thơm ngát tỏa ra. Kỷ vật cuối cùng mà Thiền sư trao cho Man Nương là cây thiền trượng. Theo lời dặn của Khâu-đà-la, mỗi khi trời hạn hán, đất đai khô nẻ, mùa màng thất bát, Man Nương lại cắm cây thiền trượng xuống đất, cất lời cầu nguyện, thì phép màu lại hiện ra: trời đổ mưa. Một đêm mưa to gió lớn, cây đa cổ thụ nơi gởi xác đứa con gái của Man Nương, bỗng đổ xuống sông và xuôi theo dòng nước trôi về làng Dâu. Dân làng không ai khiêng nổi cây, may có Man Nương dùng dải yếm đào kéo được cây lên bờ. Đêm ấy dân làng được thần nhân báo mộng khuyên nên đem cây tạc tượng thờ. Từ đó ra đời 4 pho tượng thờ bốn vị nữ thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp: Pháp Vân (tức bà Dâu, thờ ở chùa Thiền Định), Pháp Vũ (tức bà Đậu), thờ ở chùa Thành Đạo), Pháp Lôi (tức bà Tướng, thờ ở chùa Phi Tướng), Pháp Điện (tức bà Dàn, thờ ở chùa Phương Quang).
Huyền thoại Man Nương, người mẹ đồng trinh trở thành Phật Mẫu sinh ra Tứ Pháp, đã khiến cho hàng năm vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, các vị sư tăng và khách thập phương về chùa Dâu mở hội như câu thơ trên kia đã nói. Hội chùa Dâu không chỉ là dịp để các Phật tử hành hương về nơi cửa Phật mà còn để tham dự những nghi thức văn hóa của cư dân nông nghiệp. Hội diễn ra khắp cả tổng với đám rước tưng bừng (gồm rước chào, rước đón, rước đưa) thỉnh các tượng bà Đậu, bà Tướng, bà Dàn về qui tụ với chị cả là bà Dâu ở chùa Diên Ứng. Sau lễ múc nước, dâng nước và múa gậy, đám rước lại thỉnh 4 tượng về bái vọng Phật Mẫu Man Nương ở chùa Tổ Mãn Xá. Vào ngày hội, trên bãi chùa Dâu người ta có thể xem múa sư tử, múa hóa trang rùa và hạc, múa trống, đấu vật, đánh cờ người.
Nằm trên một khu đất rộng ven sông Dâu - một nhánh của sông Đuống - Chùa Pháp Vân đã từng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng cả nước. Chính đây là nơi tu trì và thuyết pháp của các Thiền sư danh tiếng: Ti-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci, người Nam Thiên Trúc sang Việt Nam năm 580, dịch bộ kinh Tổng Trì Đại Thừa), Pháp Hiền, Quan Duyên, Trì Bát, Định Không, Thiện Hội? Sách Thiền Uyển Tập Anh còn ghi lại cuộc hội ngộ và tâm truyền độc đáo giữa Ti-ni-đa-lưu-chi và Pháp Hiền diễn ở chùa Dâu, đánh dấu sự xuất hiện của Thiền trong đời sống văn hóa dân tộc.
Vốn là một ngôi đền mang tên Pháp Vân, chùa Dâu đã được sửa chữa và trùng tu nhiều lần: giữa thế kỷ XIII vào đời Lý, cuối thế kỷ XIII và thế kỷ XIV vào đời Trần, thế kỷ XVIII vào đời Lê, cuối thế kỷ XIX vào đời Nguyễn. Ngôi chùa ngày nay còn mang nhiều dấu ấn của kiến trúc thời Hậu Lê. Ông Mạc Đĩnh Chi đã đứng ra tổ chức trùng tu lớn ngôi chùa vào năm 1313 như Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi lại: "Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng và cầu chín nhịp, nền cũ nay vẫn còn". Chùa làm theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ tiền đường, đi qua một sân gạch có tháp Hòa Phong ở giữa, sẽ đến Đại bái đường và Phật điện, sau lưng là Hậu đường. Tất cả nằm giữa bốn dãy nhà dài vây quanh theo hình chữ "Quốc". Trong Phật điện, tượng bà Pháp Vân thờ ở gian giữa cao gần 2m ngồi trên tòa sen. Đặt liền hai bên tượng bà Pháp Vân là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 1,57m mang đặc trưng phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII - XVIII.
Nói đến kiến trúc chùa Dâu, không thể không nhắc đến ngọn tháp Hòa Phong vượt trên mái ngói nâu nổi bật giữa màu xanh của nền trời và bóng che. Được Thiền sư Pháp Hiền xây dựng vào cuối thế kỷ VI để giữ gìn các di tích xá lợi, tháp Hòa Phong vốn có 9 tầng. Thời gian làm cho đổ nát, nay tháp chỉ còn 3 tầng, cao 17m, tầng chân tháp hình vuông mỗi cạnh 7m, tường dày, trổ 4 cửa vòm cuốn. Hai cửa chính nhìn ra hướng Đông và hướng Tây có bậc cấp lên xuống. Hai bên bậc cấp là hai con sóc đá trong tư thế nằm dài từ thềm xuống sân mang phong cách rất gần với điêu khắc cổ Chăm-pa và điêu khắc thú tượng trưng trong kiến trúc lăng mộ đời nhà Tùy. Tháp Hòa Phong được trùng tu vào năm 1737 vào đời Lê. Trong tháp có chuông lớn đúc dưới triều Cảnh Thịnh và khánh lớn bằng đồng đúc năm 1837 dưới triều Minh Mạng.
Được xây bằng gạch mộc to bản, xưa kia tháp Hòa Phong cao chót vót như một thạch trụ chặn cản luồng gió nghiệp chướng từ cõi vô minh thổi tới.
--o0o--