PHẬT GIÁO VIỆT NAM

(TƯ PHÚC TỰ)
 
Thời nhà Trần, nước ta có các trung tâm Phật giáo lớn là Yên Tử, Côn Sơn, Quỳnh Lâm và Vĩnh Nghiêm. Nhà tổ ổ Côn Sơn còn thờ tượng Trúc Lâm tam Tổ (ba vị Tổ phái Thiền Trúc Lâm) là Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330) và Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334).
Không phải ngẫu nhiên mà Thiền sư Pháp Loa đã dựng am Bạch Vân ở Côn Sơn và Thiền sư Huyền Quang đã chọn nơi đây tu hành vào những năm tháng cuối đời. Côn Sơn (cách thị xã Hải Dương 15km, nay thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, vốn là tên một ngọn núi cao khoảng 200m so với mặt biển, có ba nhóm nhô lên như một con kỳ lân phủ phục, nên còn tên là Lân Sơn. Leo khỏi 600 bậc đá, đứng trên đỉnh núi nhìn khắp chung quanh sẽ thấy hiện ra "Một vùng cây cỏ tận hưởng niềm vui thưởng thức, sông núi bao la thu vào tầm mắt ngóng trông" (Nhật thiên thảo mộc cùng ngu hưởng. Bất tận giang sơn nhập chỉ huy) như vua Lê Thánh Tông đã viết.
Và không phải ngẫu nhiên mà vua Trần Nghệ Tông đã đặt tên cho mấy nếp nhà bên suối dưới khe núi Côn Sơn, với thạch bàn giữa thiên nhiên đầy cỏ hoa và khóm trúc, trên đầu non khói tỏa là Thanh Hư động: nơi ở thanh tịnh vắng vẻ như động tiên giữa chốn hư không. Khi trụ trì ở đây, Thiền sư Pháp Loa đã cảm hứng giữa đất trời tao nhã:
Sự đời quên cả chẳng lôi thôi
Chiếc chõng quanh năm bó gối ngồi
Ngày tháng chẳng còn sờ đến lịch
Thấy hoa cúc nở đoán thu rồi.
(Nguyễn Trọng Thuật dịch)
 Nằm ở chân núi phía Nam, chùa Côn Sơn, tên chữ là Tư Phúc Tự, được xây dựng từ thời Lý, dân gian thường gọi là chùa Hun (nơi đốt than). Tương truyền rằng vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã từng đến thăm chùa. Vào đời Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng, có đến 83 gian, bao gồm tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống? Bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Hun chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ: thông, đại và hương bài.
Phía trước, ngay lối đi vào chùa có một tấm bia đá đặt trên lưng rùa khắc ba chữ "Thanh Hư Động", bút tích của vua Trần Nghệ Tông. Bên trái là nhà bia cũ dựng năm 1608, có tấm bia ghi bài minh nhan đề "Côn Sơn Tư Phúc Thiền Tự Bi" nói về việc trùng tu chùa.
Bên đường dẫn lên đỉnh núi rợp bóng cây phía sau chùa là khu mộ tháp, nổi bật là Đăng Minh bảo tháp dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang.
Chùa Côn Sơn đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Thanh Hư động chính là nơi Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại nhà thơ, ẩn dật. Mấy gốc thông già trải qua sương nắng hơn sáu thế kỷ còn đứng đó là do chính tay Trần Nguyên Đán trồng, như thơ của Băng Hồ tướng công đã ghi lại:
Xuân nhật tảo di hoa ảnh động
Thu phong vãn tống hạc thanh lai
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Tận thị kình thiên nhất thủ tài.
Nghĩa là:
Nắng xuân sớm động bóng hoa
Gió thu hiu hắt chiều tà hạc kêu
Lưu Quang thềm điện xanh rêu
Chống trời thu biếc do đều một tay.
 Một phần tuổi thơ của mình, từ lúc 5 tuổi đến lúc 10 tuổi, Nguyễn Trãi sống với ông ngoại. Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn. Dòng suối Côn Sơn đã in bóng nhà thơ ngồi trên thạch bàn những ngày ẩn dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đã gợi nên cảm hứng để Nguyễn Trãi sáng tác nhiều bài thơ trong Quốc Âm thi tập:
Côn Sơn có suối rì rầm
Ta nghe tiếng suối như cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm?
Nhưng bi kịch của lịch sử đã không để cho nhà thơ được yên nghỉ tuổi già dưới bóng thông và ngâm thơ nhàn. Vụ án Lệ Chi Viên với cái chết đột tử của Lê Thái Tông vào tháng 9 năm 1442 đã dẫn đến hình phạt tru di tam tộc đối với Khai quốc công thần Nguyễn Trãi. Học trò Nguyễn Trãi đã đưa thi hài nhà thơ về mai táng trên núi Giáp Sơn, phía Đông Bắc núi Côn Sơn. Gần đó, trên đỉnh núi Tam Tiên là ngôi mộ Nguyễn Phi Khanh, thân sinh Nguyễn Trãi.
Một lần về Côn Sơn, nhà thơ Trần Đăng Khoa chợt thức giấc lúc nửa đêm và cảm nhận được hồn thiêng của Ức Trai còn hòa lẫn với thiên nhiên cảnh vật:
Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào.
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm.
--o0o--