| 
           
      
  
           
  |               
             
                
            
            
               PHẬT GIÁO VIỆT NAM
            
            
            
              
            
            
              
              
                 
                - 
                
                (SẮC TỨ QUỐC ÂN TỰ)
 
                
              
              - 
              
               
 
              - 
              Bối 
              điệp phiêu vân, lục thời thiền tụng kỳ phong nẫm;
 
              - 
              Ca 
              sa thấp vũ, nhất vị thanh cơ kiến đạo xương
 
              - 
              
              (Mây phất phơ trên kinh lá bối, sáu thời thiền tụng, cầu hoa 
              lợi phong đăng.
 
              - 
              
              Mưa thấm khắp nếp áo cà-sa, nhất vị thanh tu, gây cơ duyên phát 
              đạt)
 
              - 
              
              Bát bảo xán kim lương, biểu nhật lâm quan, tiện hữu nhân hữu cảnh;
 
              - 
              
              Ngũ vân sinh ngọc đống, xuân quan triển tọa, hỷ bất túc bất ly.
 
              - 
              
              (Đồ bát bảo rực rỡ rường vàng, vừng nhật chiếu đến thiền quang,
 
              - 
              
              mến được có người có cảnh.
 
              - 
              
              Mây ngũ sắc chói ngời cột ngọc, ánh xuân dồn về bảo tọa,
 
              - 
              
              vui thay không mất, không xa)
 
              - 
              Đó 
              là nội dung ca ngợi ngôi chùa Quốc Ân và vị Thiền sư khai sáng 
              được khắc trên hai cặp liễn đối treo ở ngôi chánh điện do Chúa 
              Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu ban.
 
              - 
              Chùa 
              Quốc Ân tọa lạc ở lưng chừng một quả đồi thấp thuộc phường Trường 
              An, thành phố Huế. Du khách qua cầu Phú Cam ở đường Nguyễn Trường 
              Tộ, đi khoảng 2km thì đến chùa.
 
              - 
              Chùa 
              Quốc Ân do Thiền sư Nguyên Thiều khai sáng khoảng năm 1682 - 1685, 
              đời vua Lê Huy Tông, lúc đầu mang tên chùa Vĩnh Ân.
 
              - 
              
              Thiền sư Nguyên Thiều hay Thọ Tôn, húy là Siêu Bạch, hiệu là Hoán 
              Bích (1648 - 1728), thọ giới với Hòa Thượng Khoáng Viên ở Quảng 
              Đông. Năm 1677 Ngài theo thuyền buôn sang Việt Nam, lập chùa Thập 
              Tháp Di-đà ở Bình Định. Sau khi khai sơn chùa này, Thiền sư Nguyên 
              Thiều đi khắp nơi truyền đạo, ra Huế dựng chùa Hà Trung ở Vinh Hà 
              (Phú Vang) rồi lên khu vực núi Ngự Bình dựng chùa Vĩnh Ân. Đến năm 
              1689, Chúa Nguyễn Phúc Trân đã đổi tên chùa Vĩnh Ân là Quốc Ân, 
              ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Quốc Ân Tự" và chuẩn phê miễn thuế 
              ruộng đất cho chùa.
 
              - 
              Chùa 
              Quốc Ân là ngôi Tổ đình nổi tiếng của miền Trung. Thiền sư Nguyên 
              Thiều là vị Tổ đời 33 Thiền phái Lâm Tế. Ngài đem vào Việt Nam hai 
              dòng kệ:
 
              - 
              Tổ 
              đạo giới định tông
 
              - 
              
              Phương quảng chứng viên thông
 
              - 
              Hạnh 
              siêu minh thiệt tế
 
              - 
              Liễu 
              đạt ngộ chơn không
 
              - 
              Như 
              nhật quang thường chiếu
 
              - 
              Phổ 
              châu lợi ích đồng
 
              - 
              Tín 
              hương sanh phước huệ
 
              - 
              
              Tương kế chấn từ phong
 
              - 
              Và:
 
              - 
              Đạo 
              bổn nguyên thành Phật Tổ Tiên
 
              - 
              Minh 
              như hồng nhật lệ trung thiên
 
              - 
              Linh 
              nguyên quảng nhuận từ phong phổ
 
              - 
              Kế 
              thế chân đăng vạn cổ huyền
 
              - 
              
               Theo qui định, cứ mỗi đời lấy một chữ đặt pháp danh cho đệ tử. 
              Ngày nay đa số Phật tử ở miền Trung và miền Nam đều bắt nguồn từ 
              hai dòng kệ này.
 
              - 
              
              Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch trong khi trụ trì tại chùa Hà 
              Trung. Ngài để lại cho đệ tử bài kệ sau đây:
 
              - 
              Tịch 
              tịch cảnh vô ảnh,
 
              - 
              Minh 
              minh châu bất dung.
 
              - 
              
              Đường đường vật phi vật,
 
              - 
              Liê 
              liêu không vật không.
 
              - 
              
              Nghĩa là:
 
              - 
              Lặng 
              lẽ gương không chiếu bóng
 
              - 
              Sáng 
              trưng ngọc chẳng thâu hình
 
              - 
              Rõ 
              ràng Vật không phải Vật
 
              - 
              Mênh 
              mông Không chẳng là Không.
 
              - 
              
              (Trích Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, tr.189)
 
              - 
               Sau 
              khi Thiền sư Nguyên Thiều mất, Chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu đã 
              truy tặng Ngài thụy hiệu Hạnh Đoan Thiền sư.
 
              - 
              Vào 
              thời Nguyễn, chùa Quốc Ân được trùng tu nhiều lần. Năm 1805, bà 
              Long Thành (chị ruột vua Gia Long) đã cúng dường tiền bạc để trùng 
              tu chùa. Nhưng lúc bấy giờ đây cũng chỉ là một ngôi chùa tranh tre 
              đơn giản. Năm 1822, Hòa thượng Hoằng (Tăng cang chùa Linh Mụ) được 
              vua Minh Mạng giao nhiệm vụ trùng tu chùa Quốc Ân. Năm1825, Hòa 
              thượng viên tịch, tháp mộ được xây dựng trong vườn chùa. Năm 1837 
              và năm 1842, chùa lại được tiếp tục trùng tu. Từ năm 1846 đến năm 
              1863, vị Hòa thượng kế nghiệp cho xây cổng tam quan, hai miếu thờ 
              Ngũ hành và Thiên Y A Na.
 
              - 
              Chùa 
              kiến trúc theo dạng chữ "Khẩu". Phía trước là tiền đường và chánh 
              điện, phía sau là nhà Tổ, hai bên là phương trượng và tăng xá.
 
              - 
              Chùa 
              Quốc Ân còn bảo lưu mô hình thờ tự truyền thống. Án giữa thờ tượng 
              Tam Thân, tiếp theo là tượng Bổn sư, Thích-ca đản sinh, Quan Âm 
              Chuẩn Đề. Án tả thờ Quan Công, Châu Xương và Quan Bình. Án hữu thờ 
              Bồ-đề Đạt-ma. Hai bên tả hữu thờ Thiện Hữu, Ác Hữu và Thập điện 
              Minh Vương.
 
              - 
              
              Trong chùa có nhiều hoành phi và câu đối với nét bút điêu luyện, 
              chạm trổ tinh xảo.
 
              - 
              Ở 
              sân trước chùa có dựng tấm bia khắc bài minh của Chúa Hiển Tông 
              Nguyễn Phúc Chu vào năm 1729, ca ngợi đạo đức của Thiền sư Nguyên 
              Thiều:
 
              - 
              Ưu 
              ưu bát nhã
 
              - 
              
              Đường đường phạm thất
 
              - 
              Thủy 
              nguyệt ưu du
 
              - 
              Giới 
              trì chiến lật
 
              - 
              Trạm 
              tịch cô kiên
 
              - 
              Trác 
              lập khả tất
 
              - 
              Thị 
              thân bản không
 
              - 
              
              Hoằng giáo lợi vật
 
              - 
              Biến 
              phú từ vân
 
              - 
              Phổ 
              chiếu huệ nhật
 
              - 
              
              Chiêm chi, nghiêm chi
 
              - 
              Tháo 
              sơn ngật ngật.
 
              - 
              Tạm 
              dịch:
 
              - 
              Bát 
              nhã cao vời
 
              - 
              Cửa 
              Thiền tỏ rõ
 
              - 
              Ung 
              dung trăng nước
 
              - 
              
              Ngiêm trì giới luật
 
              - 
              Sáng 
              lặng riêng vững
 
              - 
              Đứng 
              thẳng đã chắc
 
              - 
              Quán 
              thân vốn không
 
              - 
              
              Hoằng pháp lợi vật
 
              - 
              Mây 
              lành che khắp
 
              - 
              Trí 
              tuệ sáng soi
 
              - 
              Nhìn 
              ngài kính Ngài
 
              - 
              Núi 
              Thái cao ngất
 
              - 
              
              (Theo Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách. Danh lam xứ 
              Huế, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1993, tr.163)
 
             
            
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |