PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 
Thiên Ấn niêm hà (Ấn trời đóng trên sông) là thắng cảnh thứ nhất trong mười cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi. Nằm bên tả ngạn sông Trà Khúc, núi Thiên Ấn cùng với giòng sông trở thành biểu tượng cho sự vĩnh hằng của vùng đất này, như hai câu thơ của thi sĩ Bích Khê:
Ngàn năm quả Ấn nằm trơ mốc,
Một dải sông Trà chảy sậm xanh.
Từ chân cầu Trà Khúc hai mươi nhịp, đi theo con đường về phía Cổ Lũy khoảng 2km, du khách sẽ gặp lối đi lên chùa Thiên Ấn trên núi.
Núi Thiên Ấn xưa kia có tên là núi Hó, nay thuộc địa phận xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh. Núi cao khoảng 105m, đỉnh núi bằng phẳng, rộng độ 10 ha. Từ phương Đông nhìn lên thấy bốn phía núi đe? có hình thang cân trông giống như cái ấn trên sông. ở phía Nam, dưới chân núi có gò nhỏ gọi là hòn Triện. phía Đông giáp núi Tam Thai, phía Bắc tiếp núi Lã Vọng. phía Tây có núi Long Đầu. Xưa kia núi Thiên Ấn có nhiều đá son dùng mài mực son chấm quyển chữ nho. Đường lên núi nay không còn là lối mòn mà được mở rộng, tuy chưa bằng phẳng, nhưng xe hơi có thể lên tới chùa được.
Do vị trí địa lý của nó, năm Minh Mạng thứ 11 (1830) hình núi Thiên Ấn được chạm vào Di Đỉnh (một trong chín đỉnh đồng ở Huế được đúc dưới triều vua Minh Mạng). Đến năm Tự Đức thứ ba (1850), Thiên Ấn được liệt vào hàng danh thắng.
Chùa Thiên Ấn được Thiền sư Pháp Hóa khai sơn năm 1694. Ông tên là Lê Diệt, người Phúc Kiến, hiệu là Minh Hải - Phật Bảo, sinh năm 1670, viên tịch năm 1754, trụ trì tại chùa này suốt 60 năm. Bên cạnh chùa có giếng sâu 21m, nước mát ngọt, cũng là một công trình của Thiền sư Pháp Hóa. Núi cao, đá cứng, thiếu dụng cụ, nhưng Ngài vẫn kiên trì đào giếng suốt bốn năm ròng. Một hôm có vị tăng trẻ từ đâu không rõ phát nguyện cùng đào giếng với Thiền sư. Cùng làm việc suốt ba tháng ròng, họ mới chuyển được một tảng đá lớn chắn ngang, từ đó, mạch nước mới tuôn ra. Nhưng lúc giếng có nước cũng là lúc mà vị tăng trẻ ra đi biệt tích. Câu chuyện này còn được truyền tụng qua câu ca dao:
Ông thầy đào giếng trên non,
Đến khi có nước không còn tăm hơi
Gắn liền với chùa Thiên Ấn còn có sự tích quả đại hồng chung linh thiêng. Chuông này vốn được dân làng Chí Tượng (nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) đúc cho chùa làng nhưng đánh không kêu. Vào năm 1845, Thiền sư Bảo Ấn, vị Tổ sư thứ ba của chùa đang tham thiền, thì thấy một vị Hộ Pháp tới bảo thỉnh quả chuông ấy về chùa. Xuất định, Thiền sư Bảo Ấn nhờ sư Diên Tọa đến làng Chí Tượng thỉnh chuông về. Trong ngày lễ khai chuông, sau khi chú nguyện, Thiền sư Bảo Ấn đã gióng lên tiếng chuông tròn ấm ngân vọng khắp vùng. Chuông này nay treo ở bên trái chính điện của chùa.
Tổ đình "Thiên Ấn Tự" được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch "Sắc tứ Thiên Ấn Tự" năm 1716. Ngày nay bên cạnh chùa, dưới bóng mát của tàn cây đa cổ thụ còn có tháp của Thiền sư Pháp Hóa và 5 vị trụ trì kế tiếp là Khánh Văn, Bảo Ấn, Giác Tịnh, Hoằng Phúc, Diệu Quang.
Ngoài ra, phía trước chùa, trên núi, còn có mộ chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng được nhân dân an táng tại đây năm 1947.
Cũng năm 1947, chùa Thiên Ấn bị giặc Pháp ném bom sụp đổ. Sau năm 1954, Giáo hội Tăng già tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, đã phác họa chương trình trùng kiến chùa Thiên Ấn. Dưới sự chỉ đạo của hai thầy Huyền Tân và Hồng Ân, chùa được khởi công xây dựng từ năm 1959 và khánh thành vào ngày mùng 8 tháng giêng năm Tân Sửu (1961).
Là một thắng tích của đất nước, chùa Thiên Ấn đã trở thành đề tài ngâm vịnh của nhiều văn nhân thi sĩ. Bài thơ nổi tiếng nhất viết về chùa là bài Vịnh Thiên Ấn niêm hà của Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767):
Phong cảnh nơi đây thật rất xinh
Niêm hà có ấn của trời sinh
Xem kia dấu tích còn vuông vức
Nhận lại non sông rõ dạng hình
Cách thức như in đồ Cổ Tự
Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh
Châu sa đổ dưới chân chờ mãi
Trấn chỉ sau lưng núi Cẩm Thành.
--o0o--