| 
           
      
  
           
  |               
             
                
            
            
               PHẬT GIÁO VIỆT NAM
            
            
            
              
            
              
               
              
               
               
               
               
               
               
               
               
              
            
              
              
               
               
              
               
              
               
               
              
               
              
              
              
            
               
              
            
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
              
              
                
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
               
              
              
              CHÁNH PHÁP & HẠNH PHÚC
              
              
            
            
               
              
              
              Nhà 
              Xuất Bản Tôn Giáo-2001
              
            
           
            
           
            
               
              
              
              H. T. Thích 
              Minh 
              Châu
              
            
            
               
              
              
              ---o0o---
              
            
           
            
              
                
                   
                  - 
                  
                  9. Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO
 
                  
                
                - 
                
                 
 
                - 
                
                Theo truyền thuyết Nam tông, đức Phật đản sinh, thành đạo và 
                nhập Niết Bàn cùng trong một ngày, tức là ngày Rằm trăng tròn 
                tháng Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức Phật đản sinh 
                vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8 tháng Tư), thành đạo 
                ngày mồng 8 tháng Chạp, và nhập Niết Bàn vào ngày Rằm tháng Hai 
                âm lịch. Nhưng Bắc tông hay 
                
                Nam 
                tông, quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là một. Chí nguyện 
                xuất gia, quá trình tầm đạo học đạo, hành khổ hạnh, hành Thiền, 
                tu tập Thiền quán, chứng Chánh Đẳng Giác cùng là một. Quá trình 
                ấy đều được các học phái chấp nhận, dù có những sai khác về chi 
                tiết. 
 
                - 
                
                Theo truyền thống, Thái tử đi dạo chơi bốn cửa thành, thấy một 
                người già, một người bệnh, một người chết và một người tu sĩ 
                xuất gia. Bốn hình ảnh được chứng kiến này làm Ngài xúc động rất 
                mạnh. Ba hình ảnh đầu mở mắt cho Ngài thấy cảnh sinh, lão, bệnh, 
                tử đè nặng trên kiếp sống con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu 
                con đường giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già, bệnh, chết. Do 
                vậy chí nguyện xuất gia của Ngài đã được minh định rõ ràng như 
                đã được diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
 
                - 
                
                "Này các Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa 
                chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại 
                tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già , tự 
                mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu...
                tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm... Vậy 
                Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, 
                hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, 
                Niết Bàn; tự mình bị già... cái không già... tự 
                mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị sầu...
                cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm. Sau khi biết rõ 
                sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không ô nhiễm, 
                vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn" (Trung Bộ Kinh I, 
                163).
 
                - 
                
                Ở nơi đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò của cảm thọ (Vedanà) 
                rất là đặc biệt trong quá trình xuất gia, tu đạo và thành quả 
                của Ngài, chính vì thấy sự đau khổ của chúng sinh, và đau khổ 
                (Dukkha) là một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh, đau khổ vì bị già, 
                đau khổ vì bị bệnh, đau khổ vì bị chết nên Ngài mới xuất gia tìm 
                đạo. Cho nên đạo Phật có thể nói là một đạo bắt đầu với một cảm 
                thọ tức là khổ thọ và chấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức là lạc 
                thọ, giải thoát lạc, chánh gìác lạc. Ở đây chúng ta hiểu một 
                cách toàn diện câu nói rất đặc biệt của đức Phật: “Trọn đời Ta 
                thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai điều: sự khổ và sự diệt khổ" 
                (Trung Bộ I, 140).
 
                - 
                
                Với tâm nguyện giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử nên Thái tử 
                xuất gia tu đạo, như được chính Ngài diễn tả trong đoạn kinh sau 
                đây: 
 
                - 
                
                "Rồi này các Tỳ kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên 
                thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, 
                trong thời vàng son cuộc đời, mặc dù cha mẹ không bằng lòng, 
                nước mắt đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, 
                xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như 
                vậy, để đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng, tối thắng an 
                tịnh, đạo lộ, hướng đến tịch tịnh..." (Trung Bộ Kinh I, 
                trang 163).
 
                - 
                
                Sau khi xuất gia, Thái tử đi đến học đạo với Alàra Kàlàma và 
                Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả Vô sở hữu xứ và 
                Phi tưởng phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà hai vị này đạt 
                được, Ngài suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, ly tham, 
                đoạn diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn mà chỉ đưa 
                đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng 
                xứ. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn kính các pháp này, và 
                từ khước pháp ấy, Ta bỏ đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
 
                - 
                
                Tiếp đến là những năm khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy giờ, 
                có nhiều vị giáo chủ tin tưởng rằng khổ hạnh là con đường đưa 
                đến giải thoát; có hành hạ thân xác, có cảm thọ khổ đau mới hy 
                vọng giải thoát giác ngộ.
 
                - 
                
                Trong Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập nghiến răng, dấu chặt 
                lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại 
                tâm. Rồi Ngài tu tập Chỉ tức Thiền (tức là Thiền nín thở), chịu 
                những khổ đau kinh khủng, khi thì bị tiếng gió động kinh khủng 
                thổi ngang qua lỗ tai như tiếng ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh 
                khủng thổi ngang qua đầu, khi thì bị đau đầu một cách kinh 
                khủng, khi thì bị một sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức Phật 
                tường thuật lại đời sống tu khổ hạnh:
 
                - 
                
                "Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, 
                ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen, hay súp đậu hột 
                hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì ta ăn 
                quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt 
                cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như 
                móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phơi bày của 
                Ta giống như một chuỗi trái bóng; vì Ta ăn quá ít, các xương 
                sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một sàn nhà hư nát; vì 
                Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ 
                con mắt giống như ánh nước long lanh nằm sâu trong một giếng 
                nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu của Ta trở thành nhăn 
                nheo khô cằn như trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín, bị cơn 
                gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta 
                nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng" thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. 
                Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống" thì chính da bụng bị Ta nắm 
                lấy. Vì Ta ăn quá ít, này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám 
                chặt xương sống”. (Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
 
                - 
                
                Hiện nay ở các chùa Việt Nam có thờ tượng Phật gọi là tượng 
                Tuyết Sơn hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn da bọc lấy xương, 
                như chúng ta được thấy ở chùa Bút Tháp.
 
                - 
                
                Điều quan hệ ở nơi đây là những bài học, những kinh nghiệm, vị 
                Bồ-tát đã rút tỉa ra được, khi tự mình tu khổ hạnh như vậy: "Này 
                Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù 
                cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị 
                khích động không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh 
                tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy". Rồi vị Bồ-tát nghĩ đến 
                lúc còn nhỏ khi vua cha đang dự lễ cày cấy, và Thái tử được đặt 
                ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập sơ Thiền: “Ta ly dục, ly bất 
                thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc 
                do ly dục sanh, có tầm có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo 
                lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?”. Và này Aggivessana, tiếp 
                theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa 
                đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ 
                chăng, lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?". Này 
                Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc 
                thọ ly dục, ly bất thiện pháp" (Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh 
                I, trang 246).
 
                - 
                
                Vị Bồ-tát nói lên kinh nghiệm riêng của Ngài về vấn đề Thiền như 
                sau:
 
                - 
                
                "Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực, và được sức lực trở 
                lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, 
                một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này 
                Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng 
                không chi phối tâm ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ 
                hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội 
                tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, 
                được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh 
                niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả 
                niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như 
                vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối 
                tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú 
                Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này 
                Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại, 
                nhưng Ta không chi phối tâm Ta”. (Trung Bộ Kinh I, trang 247).
 
                - 
                
                Ở đây, thế giới hành Thiền là một thế giới cảm thọ, cảm thọ sơ 
                Thiền đưa đến hỷ lạc là một cảm thọ này do sống viễn ly đưa đến. 
                Thiền thứ hai cũng là một cảm thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng hỷ lạc 
                này do định sanh. Thiền thứ ba cũng là một cảm thọ. Xả niệm lạc 
                trú, không còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và Thiền thứ tư 
                cũng là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn, và 
                được xả thay thế và xả cũng là một cảm thọ. 
 
                - 
                
                Khi đã nhận thức được con đường phải đi, vị Bồ-tát đi tới 
                Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả ái một khóm rừng 
                thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, có một chỗ lội qua 
                dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi 
                khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một thiện nam tử tha thiết 
                tinh cần có thể tinh tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại 
                chỗ ấy và nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi mà vị 
                Bồ-tát lựa chọn là dưới gốc cây Bồ đề ở Bồ đề Đạo tràng, và con 
                sông kế cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền). Theo truyền 
                thống 
                
                Nam 
                tông, đêm ấy Ngài thành đạo chứng quả Bồ đề, và sau khi thành 
                đạo, Ngài ở lại chung quanh cây Bồ đề đến 49 ngày. Theo truyền 
                thống Bắc tông, sau khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày rồi 
                mới chứng quả. Đó là những sai khác về học phái chưa được giải 
                thích tường tận. Điều quan hệ là Ngài đã thành đạo dưới gốc cây 
                Bồ đề, sau khi thực hiện quá trình thành đạo: xuất gia, học đạo, 
                tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quán và chứng quả Chánh Đẳng Giác.
 
                - 
                
                Con đường đức Phật tự mình tu hành chứng quả và giảng dạy lại 
                cho các đệ tử là con đường Giới, Định, Tuệ. Giới là một nếp sống 
                lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện pháp, như đã được diễn 
                tả trong nhiều kinh điển. Thứ hai là Định, tức là Thiền định, 
                phương pháp tập trung nội tâm trên những đối tượng lựa chọn để 
                đoạn trừ năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, 
                nghi và thay thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. 
                Các Thiền chi này được giảm dần cho đến Thiền thứ tư, chỉ có xả 
                và nhất tâm. Tới đây chấm dứt giai đoạn Thiền định thứ hai và mở 
                đầu giai đoạn thứ ba tức là giai đoạn trí tuệ.
 
                - 
                
                Chính xả và nhất tâm, tức là Thiền thứ tư đóng một vai trò rất 
                quan trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu sĩ. Một mặt, Thiền 
                thứ tư là vị trí người hành giả, có đủ nội lực, nghị lực để đối 
                trị ác ma, đối trị sức mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và nhất 
                tâm đạt được địa vị cao nhất của Thiền sắc giới, Thiền này chấm 
                dứt giai đoạn Giới (Sìla) và Định (Samàdhi) và mở đường cho giai 
                đoạn thứ ba tức là Tuệ (panna). Thiền này chấm dứt Samatha (Chỉ) 
                và mở đầu cho Vipassanà (Quán). Nói một cách khác, phải với định 
                lực của Thiền thứ tư là xả và nhất tâm, người hành giả mới có 
                sức mạnh để Thiền quán có hiệu quả và tiến dần đến đích giác 
                ngộ, giải thoát. Tiến trình giải thoát, giác ngộ của đức Phật 
                dược diễn tả như sau:
 
                - 
                
                "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền 
                não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy. Ta 
                dẫn tâm đến Túc mạng minh...
 
                - 
                
                Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại 
                cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là đệ nhất minh Ta đã 
                chứng được trong đêm canh một. Vô minh diệt thì minh sanh, ám 
                diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, 
                tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được 
                tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 
 
                - 
                
                "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, 
                nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy, Ta dẫn tâm 
                hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sinh, Ta với thiên 
                nhãn thuần tịnh, siêu nhãn, thấy sự sống và chết của chúng sinh 
                ... Này Aggivessana, đó là đệ nhị minh Ta đã chứng được 
                trong đêm canh hai, vô minh diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng 
                sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy 
                này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không 
                chi phối tâm Ta. 
 
                - 
                
                "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền 
                não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn 
                tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí Ta biết như thật: “Đây là Khổ", 
                biết như thật: "Đây là nguyên nhân của Khổ", biết như thật "Đây 
                là Khổ diệt", biết như thật "Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”, 
                biết như thật: "Đây là các Lậu hoặc", biết như thật: "Đây là 
                nguyên nhân của các Lậu hoặc", biết như thật: "Đây là các Lậu 
                hoặc diệt", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ 
                các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của 
                Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh 
                lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu 
                biết: "Ta đã giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã 
                thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống 
                nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là đệ tam minh Ta đã chứng 
                trong canh ba, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, 
                do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này 
                Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi 
                phối tâm Ta”.
 
                - 
                
                Có một con đường làm nổi bật vai trò các cảm thọ trong quá trình 
                giải thoát và giác ngộ, vì trong phương pháp này, chúng ta thấy 
                rõ sự đóng góp vô cùng quan trọng của cảm thọ.
 
                - 
                
                Vị hành giả, cùng với xả và nhất tâm của Thiền thứ tư, thanh 
                tịnh trong sáng như vậy, không tập trung vào bốn Không định vì 
                là những pháp hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không suy tưởng đến 
                Hữu hay Phi hữu, nên không có chấp thủ mọi sự vật gì ở đời. 
                Không chấp thủ nên không sợ hãi tháo động. Do không sợ hãi tháo 
                động, vị hành giả chứng Niết Bàn, tự biết mình đã chứng quả 
                A-la-hán: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều gì nên 
                làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". Khi vị ấy cảm 
                thọ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết cảm thọ 
                ấy là vô thường, không nên đắm trước, không phải là đối tượng để 
                hoan hỷ. Vị ấy biết không có hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ 
                ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy 
                sinh mạng làm tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ, 
                lấy thân làm tối hậu hay lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị ấy biết 
                sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở 
                thành thanh lương. Do vậy vị hành giả thành tựu được bốn Thắng 
                xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ 
                thắng xứ (Pannà) nghĩa là trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự 
                giải thoát của vị này an trú vào Chân đế (Sacca) không bị dao 
                động, không thể đưa đến hư vọng, thuộc về Chân đế, Niết Bàn. Vị 
                hành giả thành tựu Tối thắng đế thắng xứ (Saccadhitthànà), tức 
                là Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh y vô trí 
                thức của vị ấy được đoạn tận gốc rễ, không có thể tái sanh. Vị 
                ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà), tức là sự xả ly tất 
                cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục; phẫn nộ thuộc sân hận; 
                vô minh thuộc si mê, không có thể hiện hữu trong tương lai, 
                không có khả năng sanh khởi. Vị ấy thành tựu được tối thắng, 
                tịch tịnh thắng xứ (Upasamàditthànà). Những vọng tưởng: "Tôi là, 
                tôi là cái này, tôi không là cái này, tôi sẽ không là cái này. 
                Tôi sẽ có sắc, có tưởng". Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục 
                bướu, là mũi tên, vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được 
                gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không già, 
                không có dao động, không có hy cầu. Không sanh làm sao già được, 
                không già làm sao chết được, không chết làm sao dao động được. 
                Không dao động làm sao hy cầu. Cho nên vị ấy đạt được tịch tịnh. 
                Ở đây chúng ta nhận thấy vị hành giả khi giác ngộ giải thoát 
                không phải thụ động, không phải đoạn diệt, không phải trở thành 
                vô tri giác như thường bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất 
                sinh động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh thắng xứ 
                (Ariyàdhitthànàni): trí tuệ, chân đế, tuệ xả, tịch tịnh, tác 
                động rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ được chấm dứt hoàn toàn, 
                mọi cảm thọ trở thành thanh lương, tịch tịnh, không có sanh, 
                lão, bệnh, tử, không còn khổ vì sanh, khổ vì bệnh, khổ vì già, 
                khổ vì chết. Vị ấy thật sự giác ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành 
                đạo. 
 
                - 
                
                Quá trình giác ngộ giải thoát của đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng 
                như sự giác ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã được thể 
                hiện trọn vẹn trong ngày thành đạo của Ngài. Từ nơi sự thành đạo 
                của Ngài, chúng ta rút tỉa được một số kinh nghiệm và hiểu biết 
                như sau:
 
                - 
                
                1. Quá trình giác ngộ, giải thoát của đức Phật là một quá trình 
                tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người hiện tại, 
                không có thần linh, không có bùa pháp, không có cứu rỗi.
 
                - 
                
                Trong quá trình này các cảm thọ đóng một vai trò chủ yếu vô cùng 
                quan trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất gia; chính khổ thọ 
                khiến Ngài từ bỏ khổ hạnh; chính lạc thọ khiến Ngài hành Thiền; 
                chính xả thọ là chân đứng để Ngài giác ngộ giải thoát, thành 
                đạo.
 
                - 
                
                2. Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là Giới, Định, Tuệ, 
                nghĩa là phải sống một nếp sống tốt lành trong sạch, dựa trên 
                nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những đối tượng có lựa chọn để 
                phát triển nội lực định tâm, và với xả và nhất tâm trong sáng 
                của Thiền thứ tư, bước vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật 
                với trí tuệ, và lấy trí như thật ấy đoạn tận các lậu hoặc để 
                được giác ngộ giải thoát.
 
                - 
                
                3. Đức Phật là một người như chúng ta, sanh ra là một người, 
                sống như một người và từ giã cõi đời như một người, nhưng là một 
                người vì sự đau khổ của chúng sinh mà xuất gia tu đạo, một con 
                người có đủ nghị lực kiên trì can đảm, để chiến thắng mọi trở 
                ngại cuối cùng tìm ra được con đường diệt khổ cứu độ chúng sinh.
 
                - 
                
                Ngày Thành Đạo của Ngài nói lên sự thành công cao cả của con 
                người đã biết nâng cao phẩm giá tuyệt vời của con người, có khả 
                năng giác ngộ và đã thành tựu sự giác ngộ một cách trọn vẹn dưới 
                gốc cây Bồ đề.
 
               
             
           
            
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |