| 
           
      
  
           
  |               
             
                
            
            
               PHẬT GIÁO VIỆT NAM
            
            
            
              
            
              
               
              
               
               
               
               
               
               
               
               
              
            
              
              
               
               
              
               
              
               
               
              
               
              
              
              
            
               
              
            
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
              
              
                
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
               
              
              
              CHÁNH PHÁP & HẠNH PHÚC
              
              
            
            
               
              
              
              Nhà 
              Xuất Bản Tôn Giáo-2001
              
            
           
            
           
            
               
              
              
              H. T. Thích 
              Minh 
              Châu
              
            
            
               
              
              
              ---o0o---
              
            
           
            
           
            
              
                
                   
                  - 
                  18. XUÂN VỀ VỚI NHỮNG LỜI PHẬT 
                  DẠY
 
                  
                
                - 
                
                 
 
           
            
           
                - 
                
                Hôm nay là ngày mồng một Tết năm Tân Mùi 1991, chư vị Thượng 
                tọa, Đại đức, Tăng, Ni, quý vị Phật tử và thân hữu, quy tụ tại 
                Thiền viện Vạn Hạnh này lễ Phật, nghe Pháp đầu năm, nói lên lòng 
                tôn kính chân thành của hàng Phật tử xuất gia và tại gia đối với 
                bậc Đạo sư chí tôn chí kính. Trong không khí trang nghiêm trân 
                trọng của buổi lễ đầu năm, chúng ta hãy lắng nghe một số lời dạy 
                căn bản của đức Thế Tôn, trên con đường hoằng hóa độ sanh của 
                Ngài. 
 
                - 
                
                Tại Vương Xá, Ambalatthika, Nalanda v.v... Thế Tôn nhấn 
                mạnh và nhắc đi nhắc lại nhiều lần ba pháp Vô lậu học Giới, 
                Định, Tuệ mà mọi đệ tử xuất gia cần phải hành trì: "Đây là 
                Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến 
                quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị 
                lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn 
                toàn các lậu hoặc, tức là Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu" (Kinh 
                Đại Bát-niết-bàn, tr. 84).
 
                - 
                
                Tại Pataligàma, Thế Tôn giảng cho các cư sĩ ở đây năm sự nguy 
                hiểm cho những ai phạm giới sống trái với luật:
 
                - 
                
                "Ở đây này các Gia chủ, người phạm giới sống trái với luật sẽ bị 
                tiêu hao tiền của rất nhiều, vì sống phóng dật. Đó là điều nguy 
                hiểm thứ nhất cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật 
                bị tiếng dữ đồn xa. Đó là điều nguy hiểm thứ hai cho những ai 
                phạm giới, sống trái giới luật.
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật 
                khi vào đồ chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia 
                chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thân sợ hãi bối rối. 
                Đó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới, sống trái 
                giới luật.
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái với luật 
                sẽ chết với tâm hồn rối loạn. Đó là điều nguy hiểm thứ tư cho 
                những ai phạm giới, sống trái giới luật.
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật 
                sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, 
                đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm cho những ai phạm 
                giới, sống trái giới luật.
 
                - 
                
                "Này các Gia chủ, đó là năm điều nguy hiểm cho những ai phạm 
                giới, sống trái giới luật. 
 
                - 
                
                "Này các Gia chủ, có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống 
                theo giới luật. Thế nào là năm?
 
                - 
                
                "Ở đây này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ 
                có tiền của dồi dào, vì sống không phóng dật. Đó là sự lợi ích 
                thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo giới luật".
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật 
                được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi ích thứ hai cho những ai giữ 
                giới, sống theo giới luật. 
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật 
                khi đi vào đồ chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc 
                Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, 
                không bối rối. Đó là lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống 
                theo giới luật. 
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, 
                sau khi thân hoại mệnh chung với tâm hồn không rối loạn. Đó là 
                sự lợi ích thứ tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
 
                - 
                
                "Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, 
                sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh vào thiện thú, thiên 
                giới, c õi đời này. Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ 
                giới, sống theo giới luật. Này các Gia chủ, đó là năm sự lợi ích 
                cho những ai giữ giới, sống theo giới luật”.
 
                - 
                
                Tại Kotigàma, Thế Tôn dạy cho các Tỳ kheo bốn Thánh đế Khổ, Tập, 
                Diệt, Đạo, nguyên nhân và con đường khởi lên và đoạn diệt sanh 
                tử luân hồi.
 
                - 
                
                "Này các Tỳ kheo, chính không giác ngộ, không thông hiểu Khổ 
                Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm. Ta và các 
                ông. Này các Tỳ kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu 
                Khổ tập thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo Thánh đế mà 
                chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các ông. Này 
                các Tỳ kheo khi Khổ Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, 
                khi Khổ tập Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ 
                diệt Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ diệt 
                đạo Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái 
                được diệt trừ, sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay 
                không còn hậu hữu nữa".
 
                - 
                
                Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ lại nói thêm: 
 
                - 
                
                "Chỉ vì không thấy như thật Bốn Thánh đến nên có sự luân chuyển 
                lâu ngày trong nhiều đời”. 
 
                - 
                
                "Khi những sự thực này được nhận thức, nguyên nhân của một đời 
                sống khác được trừ diệt”. 
 
                - 
                
                "Khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa”.
 
                - 
                
                Tại Vadikà, Thế Tôn giảng về Gương pháp (Pháp kính), chính nhờ 
                soi vào gương này, phàm là đệ tử xuất gia hay tại gia, chứng đạt 
                pháp này sẽ tự tuyên bố về mình như sau:
 
                - 
                
                "Đối với Ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi 
                bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta sẽ chứng quả Dự lưu, nhất 
                định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác”.
 
                - 
                
                "Này Ananda, Pháp kính ấy là gì mà Thánh đệ tử, sau khi chứng 
                đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như sau: 
                "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không tái sinh cõi bàng 
                sanh, ngạ quỷ, ác xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhất định 
                không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác”? Này Ananda, vị Thánh đệ tử 
                có chánh tín đối với Phật: “Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng 
                Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, 
                Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy có 
                chánh tín đối với Chánh pháp: “Chánh pháp được Thế Tôn khéo 
                giảng dạy, thiết thực, vượt ngoài thời gian chi phối, đến để mà 
                thấy, đưa đến giải thoát, được kẻ trí tự mình thâm hiểu". Vị ấy 
                có chánh tín đối với chúng Tăng: “Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân 
                trực tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trí tu hành, chúng 
                Tăng đệ tử Thế Tôn chân tịnh tu hành, tức là bốn đôi tám vị. 
                Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn đáng được nghênh đón, đáng được cúng 
                dường, đáng được chiêm ngưỡng, đáng được chắp tay, là phước điền 
                vô thượng ở trên đời”. Vị ấy đầy đủ giới hạnh, được bậc Thánh 
                mến chuộng, được viên mãn không manh múng, được vẹn toàn không 
                sứt mẻ, không tỳ vết, không ô nhiễm, những giới hạnh đưa đến 
                giải thoát, được người trí tán thán, hướng dẫn đến Thiền định.
 
                - 
                
                "Này Ananda, chính Pháp kính này mà Thánh đệ tử sau khi chứng 
                đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như sau: 
                "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không tái sanh cõi bàng 
                sanh, ngã quỷ, ác xứ, ác thú Ta đã chứng quả Dự lưu, nhất định 
                không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác”.
 
                - 
                
                Chính tại Beluvà, Thế Tôn khích lệ Tôn giả Ananda và các vị Tỳ 
                kheo: 
 
                - 
                
                "Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, 
                hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một gì khác. Dùng Chánh 
                pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương 
                tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị Tỳ kheo tự mình là 
                ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa 
                một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm 
                chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác".
 
                - 
                
                "Này Ananda, ở đời vị Tỳ kheo, đối với than, quán thân, tinh 
                tấn, giác tỉnh, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham, ái, ưu, bi trên 
                đời; đối với các cảm thọ ... đối với tâm ... đối 
                với các pháp, quán pháp, tinh tấn, giác tỉnh, chánh niệm, nhiếp 
                phục mọi tham, ái, ưu, bi trên đời. 
 
                - 
                
                Này Ananda, như vậy Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, 
                tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác dùng Chánh 
                pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ tựa, không nương tựa 
                một gì khác".
 
                - 
                
                Tại Kùtàgàra, Thế Tôn cho mời tất cả vị Tỳ kheo và tổng kết lại 
                những pháp môn mà Ngài đã giảng dạy. 
 
                - 
                
                "Này các Tỳ kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy 
                cho các ông, các ông phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và 
                truyền rộng để Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc 
                cho Chúng sinh, vì an lạc cho Chúng sinh, vì lòng thương tưởng 
                cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và 
                loài Người. Này các Tỳ kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ 
                và giảng dạy, các ông phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và 
                truyền rộng để cho Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh 
                phúc cho Chúng sinh, vì an lạc cho Chúng sinh, vì lòng thương 
                tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời 
                và loài Người? Chính là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần 
                túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ đề phần, tám Thánh đạo phần. Này 
                các Tỳ kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, 
                mà các ông phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng 
                để Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho Chúng 
                sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì 
                an lạc cho loài Trời và loài Người".
 
                - 
                
                Trên đây là một số lời dạy của đức Phật trong những năm truyền 
                giáo của Ngài, những lời dạy mà các hàng Phật tử chúng ta cần 
                phải khắc cốt ghi tâm những lời dạy nếu thực hành sẽ đưa chúng 
                ta đến con đường giải thoát và giác ngộ, sẽ giúp chúng ta ngay 
                trong đời sống hiện tại và trong tương lai, sống được an lạc và 
                hạnh phúc.
 
                - 
                
                Chúng tôi nghĩ rằng với những lời dạy thiết thực của một bậc Đạo 
                sư đã nhiệt tình thương tường chúng ta, muốn chúng ta được sống 
                an lạc và hạnh phúc, thời trách nhiệm chung của chúng ta là xây 
                dựng cuộc sống hiện hữu này, trở thành một môi trường Phật giáo 
                lý tưởng để tất cả chúng ta, xuất gia và tại gia đều có thể sống 
                và hành trì theo những lời dạy của bậc Đạo sư.
 
                - 
                
                Chúng ta sẽ cố gắng liễu tri lời Phật dạy thông qua các lớp dạy 
                kinh điển, trở thành như đạo tràng thuyết pháp đem lại cho chúng 
                ta vô lượng pháp lạc và giúp ta tìm hiểu giáo lý của đức Thế Tôn 
                càng ngày càng sâu rộng. Chúng ta sẽ thể hiện nếp sống đạo Phật 
                thông qua các hình thức tu tập Bát quan trai giới và các lớp 
                Thiền học, là thế nào cho các việc tu tập Bát quan trai và Thiền 
                hành trở thành những suối nguồn Thiền lạc cho mọi người hành 
                trì. Chúng ta hãy cố gắng làm thế nào cho mọi Phật tử là những 
                người có lòng tin sáng suốt, giữ giới đã phát nguyện, học tập 
                giáo lý, làm các hạnh lành về thân về lời, về ý, sống một nếp 
                sống lành mạnh, hoan hỷ, tích cực, theo đúng tinh thần đạo đức 
                Phật giáo.
 
                - 
                
                Chúng ta, trong khả năng của mình sống theo tinh thần lục hòa, 
                thông cảm nhau, tìm hiểu nhau, tha thứ cho nhau, giúp đỡ lẫn 
                nhau đem lại niềm hạnh phúc và an lạc cho mọi người.
 
                - 
                
                (Bài giảng đầu Xuân Tân Mùi 1991 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
 
               
             
           
              
           
              
             
            
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |