- 
                    
                    Long Thọ & Triết Lý Bát Bất
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    Thông Trí
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    --o0o--
 
                    
                  
                  - 
                  
                              
 
                  - 
                             
                  
                  
                  NĂM THỜI NÓI KINH
 
                  - 
                  
                              Suốt 49 năm thuyết giáo để hóa độ chúng sanh của 
                  Ðức Phật, được các đệ tử kết tập và phân chia thành năm thời :
 
                  - 
                  
                  1- Thời thứ nhất Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm.
 
                  - 
                  
                              Thời kinh nầy Ðức Phật  khi mới thành đạo ở dưới 
                  cội Bồ Ðề, ngài nói kinh nầy trong 21 ngày. Mục đích ngài nói 
                  kinh nầy là muuốn chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm để:
 
                  - 
                  - 
                  Dắt dẫn các bậc Bồ Tát lên địa vị Ðẳng Giác và Diệu Giác.
 
                  - 
                  - 
                  Nêu bày giáo Pháp rốt ráo của Như Lai, để giúp phương tiện cho
                  
 
                  - 
                  
                  Ðại chúng tu theo Ðại Thừa.
 
                  - 
                  
                  2- Thời thứ hai Phật Nói A Hàm.
 
                  - 
                  
                              Thời Kinh nầy Ðức Phật kinh nói 12 năm, mục đích 
                  là chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu Thừa dễ thừa nhận để tự tu tự 
                  độ.
 
                  - 
                  
                  3- Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.
 
                  - 
                  
                              Thời Kinh nầy Ðức Phật suốt 8 năm, mục đích Ðức 
                  Phật là muốn khuyến khích hàng Tiểu Thừa từ bỏ tâm niệm nhỏ 
                  hẹp, để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la bát ngát của Ðại 
                  Thừa.
 
                  - 
                  
                  4- Thời thứ tư Ðức Phật nói Kinh Bát Nhã.    
 
                  - 
                  
                              Thời Kinh nầy Ðức Phật nói 22 năm, mục đích chỉ 
                  bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng, 
                  vô tướng của các pháp.
 
                  - 
                  
                  5- Thời thứ năm Ðức Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn.
 
                  - 
                  
                  Thời Kinh nầy Ðức Phật nói 8 năm, mục đích ngài nói rỏ bản 
                  hoài của chư Phật muốn: Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri 
                  kiến.
 
                  - 
                  
                  NGUYÊN NHÂN PHẬT NÓI KINH BÁT NHÃ 
 
                  - 
                  
                  Như trên chúng ta thấy, Ðức Phật đã khéo sắp xếp để đưa tư 
                  tưởng của các hàng Tiểu Thừa bước sang lãnh vực của Ðại Thừa 
                  bằng một giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn nầy không thuộc hẳn 
                  về tiểu, hay Ðại Thừa. Ðây là giai đoạn Thành Thật Tông khai 
                  triển chân lý Nhân Không và Pháp Không để cuối cùng hệ thống 
                  Bát Nhã mới xuất hiện. Như chúng ta cũng đã biết, Ðức Phật nói 
                  kinh Bát Nhã là chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết 
                  minh thật tướng, vô tướng của các pháp. Kinh nầy được đức Thế 
                  Tôn nói ở bốn trụ xứ: Non Linh Thứu, Tịnh Xá Kỳ Viên, Tịnh Xá 
                  Trúc Lâm, và Vương Cung Cỏi Trời Tha Hóa Tự Tại, tất cả 16 
                  hội, tổng cộng 600 quyển. Có tính cách chi tiết hơn chúng ta 
                  thấy Ðức Phật nói Kinh Bát Nhã do những nguyên nhân như sau:
                  
 
                  - 
                  
                              1- Phật vì ngài Di Lặc Bồ Tát mà giảng rộng các 
                  hạnh bồ tát.
 
                  - 
                  
                              2- Muốn cho chư Bồ Tát tu theo Pháp môn Niệm Phật 
                  Tam Muội.
 
                  - 
                  
                              3- Muốn cho chư Bồ tát trong tam muội thấy Phật 
                  hiện thần thông biến hóa.
 
                  - 
                  
                              4- Phật nhận lời cầu thỉnh của Phạm thiên, cùng 
                  các cõi trời cõi sắc, vua Ðế Thích, cùng các trời cõi Dục và 
                  Tứ Thiên Vương trong sứ mạng Chuyển Pháp Luân.
 
                  - 
                  
                              5- Muốn đoạn trừ nghi hoặc của chúng sanh, và 
                  khiến cho mọi người thấy Phật trụ ở thực tướng thanh tịnh như 
                  hư không trong vô lượng vô số pháp Bát Nhã Ba La Mật.
 
                  - 
                  
                              6- Phật muốn tuyên thị tất cả các Pháp thực tướng 
                  đoạn nghi trừ kết của chúng sanh.
 
                  - 
                  
                  7- Muốn trừ cống cao tà mạn của ngoại đạo, muốn cho mọi người 
                  tin nhận chân Pháp, muốn cho chúng sanh hoan hỷ, và muốn trị 
                  bệnh kiết sử phiền não cho chúng sanh.
 
                  - 
                  
                              8- Muốn đoạn trừ ý nghĩ phàm phu cho rằng: Phật 
                  cũng giống như tất cả những chúng sanh khác, nghĩa là cũng có: 
                  Sanh, lão, bệnh, tử, đói, khát, nóng, lạnh..v..v.., và chỉ cho 
                  tất cả chúng sanh biết được thân Phật và đời sống của Phật 
                  không thể đo lường được.
 
                  - 
                  
                              9- Muốn trợ duyên cho những người chấp nhị biên 
                  hiểu rõ được lý Trung Ðạo.
 
                  - 
                  
                  10- Muốn phân biệt Sinh Thân và Pháp Thân, và phước báo cúng 
                  dường.
 
                  - 
                  
                  11- Muốn nói tướng thối chuyển, tướng bất thối chuyển.
 
                  - 
                  
                  12- Muốn nói ma huyển, ma sự, ma ngụy.
 
                  - 
                  
                              13- Vì nhân duyên cúng dường Bát Nhã Ba La Mật của 
                  người đời sau.
 
                  - 
                  
                              14- Muốn thụ ký rộng cho ba thừa.
 
                  - 
                  
                              15- Phật muốn nói tướng Ðệ Nhất Nghĩa Ðàn.
 
                  - 
                  
                  16- Muốn cho Tràng Trảo Phạm Chí và Ðại Luận Nghĩa Sư ở trong 
                  Phật Pháp sinh lòng tin.
 
                  - 
                  
                              17- Phật muốn nói thật tướng của sự vật.
 
                  - 
                  
                  18- Phật muốn nói phi thiện, phi bất thiện, phi vô ký, các 
                  tướng của sự vật, pháp học, vô học, phi vô học, pháp đoạn kiến 
                  đế, đoạn tư duy, vô đoạn, có thấy hữu đối, không thể thấy hữu 
                  đối, không thể thấy vô đối; pháp trên, giữa, dưới, nhỏ, lớn, 
                  vô lượng pháp.
 
                  - 
                  
                  19- Muốn lấy pháp môn khác với Tứ Niệm Xứ.
 
                  - 
                  
                  20- Phật muốn nói vô thường , khổ, không, vô ngã. 
 
                  - 
                  
                  NGÀI LONG THỌ VÀ TRIẾT LÝ BÁT BẤT 
 
                  - 
                  
                              Sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn, kinh Bát Nhã được 
                  xiển dương và trở thành hệ thống tư tưởng Bát Nhã Ðại Thừa. 
                  Người có công trong việc xiển dương tư tưởng Phật Giáo Ðại 
                  Thừa nói chung và Tư Tưởng Bát Nhã nói riêng là phải nói ngài 
                  Long Thọ.
 
                  - 
                  
                  Về việc vận động để hình thành Phật giáo Ðại Thừa, trước đây 
                  cũng đã có, nhưng chỉ là cái bóng mờ trong Sa mạc. Mãi cho đến 
                  khi ngài Long Thọ xuất hiện mới tổ chức thành Giáo Hội Phật 
                  Giáo. Như vậy nếu có lúc ngài Mã Minh là người thắp sáng ngọn 
                  đuốc Ðại Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu, thì ngài Long Thọ là người 
                  đốt cao ngọn đuốc chánh pháp vào giữa thế kỷ thứ sáu sau Ðức 
                  Phật nhập Niết Bàn. Theo truyện ký, ngài Long Thọ là người Tỳ 
                  Ðạt Bà thuộc Nam Ấn. Thuở nhỏ ngài thông hiểu các kinh Phệ Ðà, 
                  và trở thành người thông thái trong giáo lý của Bà La Môn. Khi 
                  xuất gia theo Phật Giáo, lúc đầu ngài tu theo hệ phái Tiểu 
                  Thừa, nhưng sau đó lại chuyển sanh Ðại Thừa, và trở thành nhà 
                  cổ xuý cho phong trào, và cũng là người thành công lớn trong 
                  việc thiết lập tám tông phái đại Thừa, và trong việc cổ xuý 
                  phong trào Phật Giáo Ðại Thừa tại miền Nam Ấn Ðộ. Sự đóng góp 
                  của ngài trong việc phát triển Ðại Thừa Phật Giáo, nên người 
                  đương thời coi trọng ngài như là Ðức Phật thứ hai. Sự đóng góp 
                  đáng lưu ý nhất của ngài là khái niệm về Tánh Không. Sự đóng 
                  góp nầy không những chỉ có tác dụng lớn lao trên tư tưởng Phật 
                  Giáo Ấn Ðộ, Trung Hoa, và Nhật Bản từ những thời xa xưa, mà 
                  những năm gần đây cũng đã thu hút được sự chú ý của những 
                  triết gia Tây Phương. Tiêu biểu, một trong những triết gia Tây 
                  Phương là ông Karl Jaspers, một triết gia hiện sinh người Ðức. 
                  Trong tác phẩm mang tên: Những Triết Gia Lớn, ông nêu danh 
                  sách mười lăm người mà ông cho là những triết gia đứng đầu Thế 
                  Giới. Trong số đó có đức Phật và ngài Long Thọ. Mười ba vị kia 
                  là: Khổng Tử, Socrates, Christ, Plato, Augustine, Kant, 
                  Anaximander, Heraclitus, Parmenides, Plotinus, Anselm, 
                  Spinoza, và Lão Tử. Việc Triết Gia Karl Jaspers xếp Ðức Phật 
                  và ngài Long Thọ vào danh sách những triết gia nổi tiếng đúng 
                  hay sai còn tùy sự nhận xét của từng cá thể. Nhưng chúng ta là 
                  người học Phật đừng bao giờ quên rằng  hai ngài không những là 
                  triết gia trong danh từ nhỏ hẹp nầy,  mà các ngài còn là những 
                  nhà lãnh đạo tôn giáo, và là những hành giả của tín ngưỡng. Vì 
                  lý do nầy mà các ngài được quần chúng hoan nghinh đón nhận, và 
                  coi là những bậc Giác Ngộ, những vị Phật ra đời để truyền 
                  giảng chân lý. 
 
                  - 
                  
                  Trong công cuộc hoằng dương giáo Pháp Ðại Thừa, ngài Long Thọ 
                  đã trước tác rất nhiều tác phẩm như:
 
                  - 
                  - 
                  Trung Quán Luận
 
                  - 
                  
                              - Thập Nhị Môn Luận
 
                  - 
                  
                              - Ðại Trí Ðộ Luận
 
                  - 
                  - 
                  Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
 
                  - 
                  
                              -Lục Thập Tụng Như Ý Luận
 
                  - 
                  
                              - Thất Thập Không Tính Luận
 
                  - 
                  - 
                  Hồi Tịnh Luận
 
                  - 
                  - 
                  Ðại Thừa Phá Hữu Luận
 
                  - 
                  - 
                  Ðại Thừa Nhị Thập Tụng Luận
 
                  - 
                  - 
                  Thập Bát Không Luận
 
                  - 
                  - 
                  Bồ Ðề Tư Lương Luận
 
                  - 
                  - 
                  Bồ Ðề Tâm Ly Tướng Luận
 
                  - 
                  - 
                  Bồ Ðề Hạnh Kinh
 
                  - 
                  - 
                  Thích Ma Ha Diễn Luận
 
                  - 
                  - 
                  Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ
 
                  - 
                  - 
                  Tán Pháp Giới Tụng
 
                  - 
                  - 
                  Quảng Ðại Pháp Nguyện Tụng.
 
                  - 
                  
                              Như trên đã nói ngài Long Thọ viết rất nhiều sách, 
                  nhưng bộ sách căn bản hơn hết đó là Trung Quán Luận. Lập 
                  trường của Trung Quán có ba tiền đề lớn;
 
                  - 
                  
                              1- Phương Pháp Quán Sát Nhị Ðế.
 
                  - 
                  
                              Phương pháp nầy, căn cứ trên sự vật, quan sát trên 
                  hai lập trường: Ðệ Nhất Nghĩa Ðế(Chân Ðế), và Ðệ Nhị Nghĩa 
                  Ðế(Tục Ðế).
 
                  - 
                  
                              2- Bộ Phái Phật Giáo.
 
                  - 
                  
                              Ðây muốn nói về Hữu Bộ, dùng phương pháp phân tích 
                  để thành lập Thực Tại Luận. Ðây là kết quả của sự quan sát Ðệ 
                  Nhất Ðệ Nhất Nghĩa Ðế.
 
                  - 
                  
                              3- Quan Niệm Chân Không. 
 
                  - 
                  
                              Ðây là nói về giáo nghĩa của Bát Nhã, là kết quả 
                  của sự quan sát Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Và được coi là chân lý tối 
                  hậu.
 
                  - 
                  
                              Nhiệm vụ của Trung Quán Luận là theo lập trường 
                  của Chân Ðế để quét phá sự quan sát sai lầm của Tục Ðế, mục 
                  đích là đem hết thảy đều quy về nghĩa không. Kinh Bát Nhã tuy 
                  đã quán phá, và cho hết thảy năm uẩn, 18 giới, và 12 nhân 
                  duyên đều không, và phân biệt tính không của các pháp, đó là 
                  phần thô. Có khi lại nói các pháp thế gian tức là Niết Bàn, đó 
                  là phần thâm thúy. Căn cứ vào đó chúng ta thấy cuộc sống chân 
                  thực và công năng của nó đã được thuyết minh một cách khoáng 
                  trương trong Kinh Bát Nhã, nghĩa là phán đoán về giá trị nhân 
                  sinh theo kết quả hoán chuyển căn bản. Ta có thể nói: Từ trước 
                  những cái thường làm cho ta bận tâm như Khổ, vui, nghèo giàu, 
                  mê, ngộ, thiện, ác thì bây giờ siêu việt hết. Từ đó dù ở trong 
                  hoàn cảnh nào, bao giờ hành giả cũng triệt để biểu dương cuộc 
                  sống làm chủ ý chí mình. Tuy nhiên,  trên thực tế Bát Nhã vẫn 
                  chưa đưa những thuyết ấy đến lập trường lý luận. Ngài Long thọ 
                  tiến thêm một bước nữa, và đây là điểm độc đáo của Ngài, đó là 
                  dùng biện chứng luận Hữu để đả phá Thế Giới Quan của Tiểu 
                  Thừa, rồi đem tất cả quan niệm Không của Ðại Thừa trên phương 
                  diện thần học, để biện chứng thành Trung Quán. Ðể đạt tới mục 
                  đích Trung quán, nên trước hết ngài Long Thọ đã gạt bỏ sự quan 
                  sát thế giới theo hai mặt: Sinh-Diệt, Thường-Ðoạn, Một-Khác, 
                  Ði-Lại. Chân tướng của Thế Giới chỉ có thể nói là ở chổ: Không 
                  sanh, không diệt; không thường, không đoạn; không đi, không 
                  lại. Lấy lý thuyết Bát Bất nầy  để chứng minh thuyết đôi: 
                  Sanh-Diệt, Thường-Ðoạn, Một-Khác, Ði-Lại không còn có lý do để 
                  đứng vững. Như ở trong Trung Quán Luận có đoạn nói về cái 
                  Không Ði trong triết lý Bát Bất như sau:
 
                  - 
                  - 
                  Ði rồi, không có cái chi đi
 
                  - 
                  
                  Chưa đi, cũng không có cái đi 
 
                  - 
                  
                  Ngoài cái đi rồi và chưa đi
 
                  - 
                  
                  Thì khi đi cũng chưa có cái đi.
 
                  - 
                  Ý 
                  nghĩa vừa được trình bày ở trên cho chúng ta thấy cái trạng 
                  thái Ði Rồi thì không còn có sự đi nữa. Trong trạng thái Chưa 
                  Ði, thì lại không có sự đi. Ngoài cái Chưa Ði và Ði Rồi, thì 
                  dù ở trong trạng thái Ðang Ði cũng không có sự đi. Như vậy 
                  cuối cùng cũng không có sự đi, cho nên ngài Long Thọ kết luận 
                  rằng tất cả đều không. Ðó là kết cấu của Trung Luận.  
                  
 
                  - 
                  
                              Căn cứ vào tri thức thông thường, một khi giải 
                  thích về thế giới thì tất cả đều lấy Vô minh, tham vọng làm 
                  khởi điểm để dẫn tới tất cả duyên sinh. Vô minh và tham vọng 
                  đó có đều do sự nhận biết sai lầm lấy cái không làm có, cho 
                  nên rốt cuộc cũng chỉ là không.  Do đó mà trong Bát Nhã nói: 
                  Không không, đại không. Ở đây ngài Long Thọ muốn đem thuyết 
                  Chân Không của Bát Nhã thành lập biện chứng luận. Ngài Long 
                  Thọ tuy dựa vào Chân Lý Bát Nhã để thành lập thuyết biện chứng 
                  không, nhưng thật ra lập trường chính của ngài Long Thọ thì 
                  lại không
 
                  - 
                  
                  nhất định ở cái không. Bởi vì chính cái không cũng là không, 
                  vậy thì lại trở về cái thế giới giả danh. Trong Trung Quán 
                  Luận có nói rõ ý nghĩa nầy: Các pháp do nhân duyên sanh, tôi 
                  nói đó là không, cũng gọi là giả danh mà cũng là Trung Ðạo. 
                  Nghĩa là giữa khoảng Không và Có để khai triển một thế giới 
                  thật tướng đó là Trung Ðạo. Ðây mới thực sự là lập trường 
                  chính của ngài Long Thọ.
 
                  - 
                  
                              Nói tóm lại, lập trường của Bát Nhã xuất phát từ 
                  vọng tâm duyên sinh quan, bao giờ nó cũng đưa về tính không, 
                  thì lúc đó mới mở được chân trời tự do giải thoát. Căn cứ trên 
                  lập trường ấy, cuối cùng Bát Nhã đã khai triển một thế giới 
                  diệu hữu vô cùng linh động, và thiết thực. Chân Không Diệu Hữu 
                  đó là nền tảng  của tất cả tư tưởng Ðại Thừa. Chỉ có một điểm 
                  khác biệt đó là: Chú trọng ở Chân Không hay Diệu Hữu. Lấy nó 
                  làm phương châm hoạt động hay chỉ để quán chiếu thế giới. Chú 
                  trọng ở sự hành đạo hay chỉ để thuyết minh? Ðó là những điểm 
                  bất đồng, nhưng xét cho cùng chúng ta có thể nói tất cả các 
                  kinh điển Ðại Thừa đều xuất phát từ Bát Nhã, và lấy Bát Nhã 
                  làm trung tâm. Do đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong 
                  Phật Pháp Kinh Bát Nhã đã chiếm một địa vị trọng yếu cho việc 
                  tu tập và nghiên cứu. Không những cho chư liệt lịch đại tổ sư, 
                  chư đệ tử Tại Gia hay Xuất Gia của Ðức Phật và ngay cả cho tất 
                  cả các hàng học giả sau nầy khắp nơi trên thế giới.
 
                  - 
                               
                  Tài Liệu Tham Khảo:
 
                  - 
                  - 
                  Bát Nhã Cương Yếu
 
                  - 
                  - 
                  Ðại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
 
                  - 
                  - 
                  Ðại Trí Ðộ Luận
 
                  - 
                  - 
                  Những Kỷ Nguyên Ðầu Của Ðạo Phật.
 
                 
                
                 |