- 
                    
                    PHÁP BẢO ÐÀN KINH
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    Trúc Giao ghi
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    
                    --o0o--
 
                    
                  
                  - 
                   
 
                  - 
                  
                  Nói đến Pháp Bảo Ðàn Kinh là chúng ta liên tưởng đến ngài Huệ 
                  Năng là vị Tổ đời thứ sáu của Thiền Tôn Trung Hoa và sau nầy 
                  có ảnh hưởng lớn đối với Thiền Tôn của Nhật Bản, Triều Tiên và 
                  Việt Nam. Nói đến Thiền Tôn, là một tôn phái lớn và chi phối 
                  rất nhiều trong sự nghiệp tu học của chúng ta. Ðể cho có sự 
                  tiếp nối trước và sau, do đó chúng tôi xin được trình bày sơ 
                  lượt sự truyền thừa của Thiền Tôn trong phạm vi bài nầy. Theo 
                  sự truyền thừa của Thiền Tôn, thì vị sáng lập đầu tiên là Ðức 
                  Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng 
                  cho hai mươi bảy vị Tổ Sư kế tiếp. Vị Tổ Sư thứ hai mươi tám 
                  là ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Sau đó ngài Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa 
                  và truyền đạo, và trở thành vị Tổ Thứ Nhất của Thiền Tôn bên 
                  Trung Hoa. Tuy nhiên theo một số tài liệu cho rằng: Sau khi Tổ 
                  Sư Tử viên tịch thì Chánh Pháp Nhãn Tạng đã thất truyền từ đó. 
                  Còn về ngài Bồ Ðề Ðạt Ma thì cũng có một số tài liệu cho rằng: 
                  Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma chỉ là hình ảnh của người đời sau tạo nên 
                  chớ sự thực thì không có Bồ Ðề Ðạt Ma nào từ Ấn Ðộ sang Trung 
                  Hoa. Cũng có tài liệu nói Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là người ở Miền 
                  Trung Á chớ không phải người Ấn Ðộ. Tất cả những sự bất đồng 
                  đó chúng ta hãy cứ để cho những nhà viết lịch sử thẩm định. 
                  Còn bây giờ căn cứ vào lịch đại truyền thừa chư vị Tổ Sư Thiền 
                  Tôn có hai mươi tám vị Tổ Sư như sau:
 
                  - 
                  
                              1- Thích Ca Mâu Ni
 
                  - 
                  
                              2- Ma Ha Ca Diếp
 
                  - 
                  
                  3- A Nan Ðà
 
                  - 
                  
                              4- Thương Na Hoà Tu
 
                  - 
                  
                              5- Ưu Ba Cúc Ða
 
                  - 
                  
                  6- Ðề Ca Ða
 
                  - 
                  
                  7- Di Già Ca
 
                  - 
                  
                  8- Phật Ðà Nan Ðế
 
                  - 
                  
                  9- Phật Ðà Mật Ða
 
                  - 
                  
                  10- Hiếp Tôn Giả
 
                  - 
                  
                  11- Phúc Na Gia Xá
 
                  - 
                  
                  12- Mã Minh Ðại Sĩ
 
                  - 
                  
                  13- Ca Tỳ Ma La
 
                  - 
                  
                  14- Long Thọ
 
                  - 
                  
                  15- Ca Na Ðề Bà
 
                  - 
                  
                  16- Ra Hầu La Ða
 
                  - 
                  
                  17- Tăng Ca Nan Ðề
 
                  - 
                  
                  18- Ca Gia Xá Ða
 
                  - 
                  
                  19- Cưu Ma La Ða
 
                  - 
                  
                  20- Xà Da Ða
 
                  - 
                  
                  21- Thế Thân
 
                  - 
                  
                  22- Ma Noa La
 
                  - 
                  
                  23- Hặc Lặt Gia
 
                  - 
                  
                  24- Sư Tử Tôn Giả
 
                  - 
                  
                  25- Ba Xá Tư Ða
 
                  - 
                  
                  26- Bất Nhị Mạt Ða
 
                  - 
                  
                  27- Bát Nhã Ða La
 
                  - 
                  
                  28- Bồ Ðề Ðạt Ma
 
                  - 
                  
                  Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ hai mươi tám bên Ấn Ðộ, nhưng 
                  khi truyền vào Trung Hoa ngài là vị Tổ Sư  Thiền Tôn đầu tiên 
                  bên Trung Hoa nhu đã nói ở trên. Những chi tiết về cuộc đời 
                  của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma nói riêng, chư Tổ Sư của Thiền Tôn Trung 
                  Hoa nói chung được trình bày giản lượt như sau:
 
                  - 
                  
                              Bồ Ðề Ðạt Ma
 
                  - 
                  
                              Ngài là Vương Tử con thứ ba của vua Hương Chí ở 
                  Nam Ấn Ðộ. Thưở nhỏ ngài đã có chí siêu việt và tài hùng biện. 
                  Nhân dịp vua cha thỉnh Tổ Bát Nhã Ða La vào cung cúng dường, 
                  từ đó ngài có duyên gặp Tổ. Qua những lần đối thoại Tổ biết 
                  ngài là Pháp Khí của Phật Pháp. Sau khi vua cha băng hà, ngài 
                  quyết chí xuất gia tìm đạo. Do đó ngài tìm đến cầu xin Tổ Bát 
                  Nhã Ða La độ làm Ðệ Tử. Tổ hoan hỷ chấp nhận và làm lễ thí 
                  phát, truyền giới cụ túc, và đặt Pháp Hiệu là Bồ Ðề Ðạt Ma. Cơ 
                  duyên truyền Pháp đã thuần thục, một hôm Tổ gọi ngài đến và 
                  dặn dò: Ngươi hãy tạm giáo hóa ở đây, sau nầy thời cơ đến 
                  ngươi hãy sang Trung Hoa hóa truyền đạo mới thật là nhân duyên 
                  lớn. Nhưng ngươi phải chờ khi ta nhập diệt  khoảng sáu mươi 
                  năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm e có việc không tốt. Những 
                  việc kiết hung về sự giáo hóa ở Trung Hoa sau nầy  Ðạt Ma đều 
                  cầu tổ chỉ dạy. Tổ đều dùng những  lời sấm ký tiên đoán những 
                  việc kiết hung vận số ở Trung Hoa cho Ðạt Ma.
 
                  - 
                  
                              Sau khi Tổ viên tịch và cơ duyên hoằng Pháp đã 
                  đến, ngài dùng thuyền buôn sang Trung Hoa. Sau gần ngót ba năm 
                  thuyền mới cặp bến Quảng Châu lúc đó nhằm vào đời nhà Lương 
                  niên hiệu Phổ Thông năm đầu( Năm 520 T.L.) ngày 21 tháng 9 năm 
                  Canh Tý. Thích Sử tỉnh nầy nghe tin liền ra đón tiếp ngài, 
                  đồng thời dâng sớ về triều tâu lên Vua Lương Võ Ðế. Vua được 
                  sớ liền sai sứ thần đến thỉnh ngài về Kim Lăng là Kinh Ðô của 
                  Nhà Lương.
 
                  - 
                  
                              Sau vài ba câu chuyện qua lại với nhà Vua, ngài Bồ 
                  Ðề Ðạt Ma đã biểu lộ bản chất nghệ sĩ ngang nhiên của con 
                  người siêu phàm thoát tục, và tư tưởng của Bồ Ðề Ðạt Ma thì 
                  lại bay bổng lên tận những tầng cao vút của Siêu Tư Duy. Trong 
                  khi đó Vua Lương Võ Ðế chỉ là vị Vua Phật Tử ngoan đạo thuần 
                  thành, và vẫn chưa thoát khỏi trí nghĩ tầm thường của Phật Tử 
                  phàm tục. Chính vì lẽ đó mà nhà Vua không thể lãnh hội được 
                  tiếng Pháp diệu huyền của bậc đại nhân. Thế là ngài Bồ Ðề Ðạt 
                  Ma quyết định rời bỏ kinh đô nhà Lương đi về phía Bắc Giang. 
                  Tới Lạc Dương thuộc tỉnh Hà Nam, ngài ngụ lại Chùa Thiếu Lâm ở 
                  núi Tung Sơn. Ở đây ngài ngồi quay mặt vào vách suốt ngày 
                  trong chín năm trời để trở về với nỗi cô đơn tuyệt đối của một 
                  người thiết tha giúp đời nhưng đời không hiểu nổi ý chí tâm 
                  thành của mình. Ở đây, trong khoảng thời gian nầy, chỉ trừ một 
                  số nhỏ môn đệ, còn hầu hết những Cao Tăng, Danh Sĩ đương thời 
                  đều xa lánh và coi thường Bồ Ðề Ðạt Ma, vì họ không hiểu nổi ý 
                  chí huyền diệu của ngài.
 
                  - 
                  
                              HUYỀN THOẠI VỀ BỒ ÐỀ ÐẠT MA
 
                  - 
                  
                              Nếu nhìn kỷ chúng ta sẽ thấy cuộc đời của ngài Bồ 
                  Ðề Ðạt Ma. Nói như Phạm Công Thiện đã từng nói: Cuộc đời của 
                  Bồ Ðề Ðạt Ma là một bài thơ, và tâm hồn của Bồ Ðề Ðạt Ma là 
                  tâm hồn của một nghệ sĩ. Một tâm hồn chẳng biết sợ ai, cũng 
                  không xu phụ quyền thế, và sống một cuộc đời cô đơn đến cùng 
                  cực. Chính cái bản chất nghệ sĩ trong con người của Bồ Ðề Ðạt 
                  Ma đã khiến cho các môn đệ yêu mến và gần gũi với ngài. Cuộc 
                  đời của ngài Bồ Ðề Ðạt Ma nói riêng, và tất cả các Tổ của 
                  Thiền Tôn Trung Hoa nói chung, có nhiều chi tiết mà chúng ta 
                  cứ ngỡ là hoang đường, khó tin. Sự thật thì trên đời có gì tốt 
                  đẹp và thi vị hơn bằng những câu chuyện hoang đường, thần 
                  Thoại, cổ tích truyền kỳ. Chính những câu chuyện hoang đường, 
                  thần thoại..mới nói lên được thực tại của con người và cuộc 
                  đời của chư Tổ.
 
                  - 
                  
                              Theo truyền thống của Thiền Tôn tưởng tượng rằng: 
                  Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma có tướng mạo gay gắt hung dữ, đôi mắt luôn 
                  trợn trắng, mày quặm lại, râu đầy mặt, trông như tên cướp 
                  biển. Trong ngôn ngữ Trung Hoa có từ ngữ thông dụng là Bích 
                  Nhãn Hồ, nghĩa là tên Rợ Mắt Xanh, dùng để gọi Bồ Ðề Ðạt Ma. 
                  Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các vị Thiền Sư khi gọi Tổ 
                  Sư của tôn phái mình bằng những lời lẽ phạm thượng vô lễ như 
                  vậy. Ðó là thái độ tự nhiên của những Thiền Sư Trung Hoa, họ 
                  thường hay dùng những ngôn ngữ ngổ ngáo, nghịch đời như vậy. 
                  Ðối với họ, gọi ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là tên Rợ mới là thân mật, 
                  gần gũi và đầy lòng kính trọng chân thành. Về ngài Bồ Ðề Ðạt 
                  Ma có những truyện kỳ như sau:
 
                  - 
                  
                              1- Sau khi hội thoại với Vua Lương Võ Ðế, thấy nhà 
                  Vua không thể hiểu được đạo lý giải thoát của Phật Ðà, ngài 
                  liền bỏ đi. Lúc vượt qua sông Dương Tử, ngài dùng một cộng cỏ 
                  lau để làm phương tiện qua sông. Truyền kỳ nầy được những nhà 
                  hoạ sĩ thường vẽ chân dung ngài và hiện thờ ở các Chùa.
 
                  - 
                  
                              2- Một truyện kỳ khác, Có một lần khi đang tham 
                  thiền ngài bổng ngủ gục, vì thế mà ngài nổi giận, liền cắt đức 
                  mí mắt, và thịt của những mí mắt ấy rớt xuống đất mọc thành 
                  cây trà đầu tiên, sau nầy những Thiền Sư thường dùng trà để 
                  cho khỏi buồn ngủ, và trí óc được sáng sáng suốt quang minh. 
                  Về sau người Nhật Bản vẫn thường nói: Trà và Thiền giống nhau. 
                  Cũng từ đó các Thiền Sư đã làm nghệ thuật uống trà và trở 
                  thành Thiền Trà.
 
                  - 
                  
                              3- Một tuyền kỳ khác, cách ba năm sau khi Bồ Ðề 
                  Ðạt Ma viên tịch, Tống Vân đi sứ sang Ấn Ðộ, lúc trở về đi 
                  ngang qua núi Thông Lãnh, thì gặp Bồ Ðề Ðạt Ma, trên vai quảy 
                  một chiếc dép đi nhanh như bay, Tống Vân hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Thầy đi đâu?
 
                  - 
                  
                              Ngài đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Ði về Ấn Ðộ.
 
                  - 
                  
                  Ngài nói thêm:
 
                  - 
                  - 
                  Chủ của ông chán đời rồi.
 
                  - 
                  
                  Tống vân ngớ ngẩn. Từ giã tổ, Tống Vân trở về triều.  Ðến 
                  triều mới biết Minh Ðế đã băng. Hiếu Trang lên ngôi, Tống Vân 
                  đem việc ấy tâu lại cho Vua hay. Vua ra lệnh mở nắp quan tài 
                  ra quả nhiên còn quan tài không, chỉ còn lại một chiếc dép. 
                  Vua sắc chỉ đưa chiếc dép về thờ ở Chùa Thiếu Lâm.
 
                  - 
                  
                  Qua những giai thoại truyền kỳ như trên, chúng ta thấy được 
                  tâm hồn ngộ nghỉnh của Bồ Ðề Ðạt Ma, và tâm hồn ấy bốc lửa sôi 
                  sục trong ánh sáng của đạo lý, tất cả những giai thoại ấy cốt 
                  làm nổi bật tánh chất của Bồ Ðề Ðạt Ma, một tâm hồn vừa bi 
                  đát, vừa khôi hài, nghịch đời, siêu việt trong phàm tục. Ðó 
                  cũng là những tính chất nổi bậc nhất trong Thiền Tôn Trung 
                  Hoa.
 
                  - 
                  
                              NHỊ TỔ HUỆ KHẢ
 
                  - 
                  
                              Sau khi từ bỏ Vua Lương Võ Ðế, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma 
                  dừng chân ở Thiếu Lâm ở Tung Sơn, suốt ngày ngồi xây mặt vào 
                  vách im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được, còn người đời 
                  đều gọi là Bà La Môn nhìn vách. Thời gian ngài Bồ Ðề Ðạt Ma tu 
                  tại Tung Sơn, một hôm có nhà sư tên là Thần Quang đến tìm tổ 
                  để cầu đạo.
 
                  - 
                  
                              Sư Thần Quang quê ở Võ Lao, dòng Tôn Thất nhà Chu. 
                  Theo tương truyền nói cha mẹ của ngài lớn tuổi mà không có 
                  con, cha mẹ ngài phải đến Chùa cầu con, sau mẹ có thai mới 
                  sanh ra ngài. Thưở bé Ngài học hết sách đời, làu thông Lão 
                  Trang. Năm ba muơi tuổi ngài cảm thấy Lão, Dịch là sách thế 
                  gian không có được chân lý giải thoát, do đó Sư bắt đầu xem 
                  kinh sách Phật. Sau đó ngài vân du đây đó để tìm thầy học đạo. 
                  Ðến Lạc Dương ngài lên Hương Sơn Chùa Long Môn gặp ngài Bảo 
                  Tịnh và xin xuất gia. Sau đó nhiều năm tìm cầu học đạo, nhưng 
                  Sư không thấy thỏa mãn lòng mong mỏi cầu đạo. Khi được biết 
                  tại đỉnh Tung Sơn có Bồ Ðề Ðạt Ma là bậc dị nhân đắc đạo, do 
                  đó ngài tức tốc đến Tung Sơn để yết kiến Tổ. Mặt dầu Thần 
                  Quang đã đủ nghi lễ mà ngài vẫn ngồi yên ngó mặt vào vách. 
                  Thấy thái độ dửng dưng của Bồ Ðề Ðạt Ma nên Thần Quang suy 
                  nghĩ: Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được 
                  trong muôn một của các ngài. Lúc ấy nhằm tiết mùa đông nên 
                  tuyết rơi rất nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài trời tuyết 
                  hướng về ngài. Ðến sáng tuyết ngập ngập lên khỏi đầu gối mà 
                  gương mặt vẫn thản nhiên. Tổ Ðạt Ma thấy thế thương tình quay 
                  ra bảo:
 
                  - 
                  
                              - Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc 
                  gì?
 
                  - 
                  
                              Thần Quang thưa:
 
                  - 
                  
                              - Cúi mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lộ rộng độ 
                  cho con.
 
                  - 
                  
                  Tổ Sư dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay 
                  làm những việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn còn không 
                  thể đến thay, huống chi chỉ dùng một chút công lao nhỏ nầy mà 
                  cầu được pháp chân thừa sao? Thôi thì ngươi cứ đứng cho đến 
                  khi nào tuyết trắng thành màu hồng  rồi sẽ hay.
 
                  - 
                  
                              Thần Quang nghe Tổ dạy như vậy, liền lấy dao chặc 
                  cánh tay trái, tức thì dòng máu đỏ, nóng trong người Thần 
                  Quang phun ra trên mặt tuyết. Cầm cánh tay trái đứt lìa khỏi 
                  thân đến bên cạnh Tổ, Thần Quang kính cẩn thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng, tuyết trắng bây giờ đã thành hồng, cúi mong 
                  Hòa Thượng từ bi mở cửa Cam Lộ độ cho con.
 
                  - 
                  
                  Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma biết đây là Pháp Khí, là người có thể Tác 
                  Như Lai Sứ Hành Như Lai Sự, nên Tổ liền dạy:
 
                  - 
                  
                              - Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, 
                  nay ngươi tự chặc cánh tay, tâm cầu đạo của ngươi như vậy cũng 
                  rất khá.
 
                  - 
                  
                              Nghe Tổ dạy như vậy, Thần Quang biết Tổ đã nhận 
                  lời truyền dạy đạo, nên vội vã thưa:
 
                  - 
                  
                              - Bạch HòaThượng , Pháp Ấn của chư Phật con có thể 
                  được nghe không?
 
                  - 
                  
                              Tổ dạy:
 
                  - 
                  
                              - Pháp Ấn của chư Phật không phải từ nơi người 
                  khác mà được.
 
                  - 
                  
                              Thần Quang thưa:
 
                  - 
                  
                              - Bạch Hòa Thượng tâm con chưa an, xin Hòa Thượng 
                  dạy pháp an tâm cho con.
 
                  - 
                  
                  Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi đem tâm ra đây ta an tâm cho.
 
                  - 
                  
                  Thần Quang sửng sốt một hồi lâu rồi thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả. 
 
                  - 
                  
                  Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ta đã an tâm cho con rồi đó.
 
                  - 
                  
                  Khi nghe Tổ dạy như vậy Thần Quang nhân đây mà Khế Ngộ. Tổ 
                  liền đổi Thần Quang là Huệ Khả. Cơ duyên đã tới, một hôm Tổ 
                  kêu Huệ Khả truyền trao y bát, bốn quyển Kinh Lăng Già và bài 
                  kệ phú Pháp:
 
                  - 
                  
                  Ngô bổn lai tư độ
 
                  - 
                  
                  Truyền Pháp cứu mê tình
 
                  - 
                  
                  Nhất hoa sanh ngũ diệp
 
                  - 
                  
                  Kết quả tự nhiên thành.
 
                  - 
                  
                  Dịch là:
 
                  - 
                  
                  Ta sang đến cõi nầy
 
                  - 
                  
                  Truyên pháp cứu mê tình
 
                  - 
                  
                  Một hoa nở năm cánh 
 
                  - 
                  
                  Kết quả tự nhiên thành.
 
                  - 
                  
                  Cũng từ đây cả Tăng lẫn Tục bắt đầu đến yết kiến Tổ, và cũng 
                  từ đây Ðạo Thiền bắt đầu luân lưu khắp nơi trong xứ Trung Hoa
 
                  - 
                  
                  TÌM HIỂU VỀ SỰ AN TÂM CỦA HUỆ KHẢ
 
                  - 
                  
                  Qua mẫu chuyện đối thoại giữa Tổ và ngài Huệ khả:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng, tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
 
                  - 
                  
                  Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.
 
                  - 
                  
                  Huệ Khả đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
 
                  - 
                  
                  Tổ đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Ta đã an tâm cho con rồi đó.
 
                  - 
                  Ở 
                  đây chúng ta thấy, khi Huệ Khả tìm đến Bồ Ðề Ðạt Ma, không 
                  phải vì sự thị hiếu, không phải muốn học đạo lý để trở thành 
                  một học giả, mà Huệ Khả tìm đến với ngài Bồ Ðề Ðạt Ma như tư 
                  cách của một môn đệ của Phật cả tâm hồn lẫn thể xát, với tất 
                  cả lòng thành vô hạn của một con ngưòi đã từng đau khổ trong 
                  kiếp ngưòi, với những ưu tư khắc khoải, mong mỏi tìm lối thoát 
                  ra khỏi bể khổ trầm luân. Cho nên khi nghe ngài Bồ Ðề Ðạt Ma 
                  bảo:
 
                  - 
                  - 
                  Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó, thì Huệ Khả hốt nhiên đại ngộ.
 
                  - 
                  
                  Thật tình chúng ta không thể hiểu được sự thâm sâu trong vài 
                  ba câu đối thoại đơn sơ, nếu chúng ta không có những ưu tư 
                  khắc khoải, những đau đớn trong một tâm hồn dốc tâm cầu đạo 
                  như Huệ Khả. Không phải chỉ có câu nói: Ta đã an tâm cho ngươi 
                  rồi đó. Không phải chỉ có nghe như vậy mà có thể giác ngộ, mà 
                  chúng ta phải hiểu câu nói ấy như một tia lửa châm vào một cái 
                  pháo thăng thiên sẳn có trong đời sống tâm linh của Huệ khả. 
                  Nếu Huệ Khả chỉ là một học giả, hay một người không thành thật 
                  có tâm cầu đạo, thì câu nói đơn sơ của Bồ Ðề Ðạt Ma sẽ không 
                  có tác dụng gì cả. Sở dĩ câu nói ấy đưa Huệ Khả đến chỗ giác 
                  ngộ, là vì Huệ Khả chứng nghiệm quá nhiều phiền não đau khổ 
                  trong cuộc đời. Có thể nói Huệ Khả đang đứng trước hố thẳm của 
                  sinh tử, nên chỉ cần một lời nói đơn sơ: Ta đã an Tâm cho 
                  ngươi rồi đó là cũng đủ làm cho nguồn tuệ giác nội tại của Huệ 
                  Khả vùng dậy.
 
                  - 
                  
                              TAM TỔ TĂNG XÁN
 
                  - 
                  
                              Sau khi đắt Pháp với Sơ Tổ, ngài Huệ Khả ở tại núi 
                  Tung Sơn cho đến khi Sư Phụ Viên Tịch, sau đó ngài sang Bắc Tề 
                  hoằng truyền chánh pháp. Một hôm Nhị Tổ gặp một Cư Sĩ độ 
                  khoảng bốn mươi, không nói tên họ đến đảnh lễ Nhị Tổ và thưa:
 
                  - 
                  
                              - Ðệ tử mang bệnh , ghẻ lở đầy mình, xin Hòa 
                  Thượng từ bi vì đệ tử mà sám tội.
 
                  - 
                  
                              Nhị Tổ bảo:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi đem tội ra đây, ta sẽ vì ngươi mà sám tội.
 
                  - 
                  
                              Vị Cư Sĩ ấy sững sốt giây lát và thưa:
 
                  - 
                  
                              - Ðệ tử tìm tội không thể được.
 
                  - 
                  
                              Nhị Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ta đã vì ngươi mà sám tội rồi, nhưng ngươi nên nương tựa Phật, 
                  Pháp, Tăng.
 
                  - 
                  
                              Vị Cư Sĩ thưa:
 
                  - 
                  
                              - Hiện giờ đệ tử thấy Hòa Thượng thì biết được 
                  Tăng, nhưng con không biết thế nào là Phật, và Pháp.
 
                  - 
                  
                              Nhị Tổ dạy:
 
                  - 
                  
                              - Tâm ấy là Phật, Tâm ấy là Pháp. Phật, Pháp không 
                  hai, ngươi có biết không?
 
                  - 
                  
                              Vị Cư Sĩ thưa:
 
                  - 
                  
                              - Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở trong, không 
                  ở chặn giữa, không ở ngoài. Như tội, Tâm cũng vậy, Phật Pháp 
                  không hai.
 
                  - 
                  
                              Nhị Tổ nghe nói như thế, biết đây là Pháp khí nên 
                  rất hoan hỷ cho cạo tóc xuất gia và bảo:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi là vật báu của ta, nên ta đặt tên cho ngươi là Tăng Xán. 
                  Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Thiên Bình năm thứ hai(Năm 536T.L.), 
                  Tăng Xán được Nhị Tổ cho thọ giới cụ túc tại Chùa Quang Phước, 
                  từ đó bệnh của ngài cũng thuyên giảm. 
 
                  - 
                  
                  Tăng Xán hầu thầy được hai năm, Tổ thường giảng dạy nghĩa lý 
                  sâu mầu của Phật Pháp, và cơ duyên đã thuần thục, một hôm Nhị 
                  Tổ gọi đến bảo:
 
                  - 
                  
                              - Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chẳng ngại xa xôi từ Ấn Ðộ sang, 
                  đem Chánh Pháp Nhãn Tạng truyền trao cho ta, nay ta trao cho 
                  ngươi cùng với y bát, ngươi hãy khéo giữ gìn đừng có đoạn 
                  tuyệt. Nghe ta nói bài kệ:
 
                  - 
                  
                              Bổn lai duyên hữu Ðịa
 
                  - 
                  
                              Nhơn địa chúng hoa sanh
 
                  - 
                  
                              Bổn lai vô hữu chủng
 
                  - 
                  
                  Hoa diệt bất tằng sanh.
 
                  - 
                  
                  Dịch:
 
                  - 
                  
                              Xưa nay nhân có đất
 
                  - 
                  
                              Bởi giống đất hoa sanh
 
                  - 
                  
                  Xưa nay không có giống
 
                  - 
                  
                  Hoa cũng chẳng từng sanh.
 
                  - 
                  
                  Ðọc xong bài kệ Nhị Tổ nói tiếp:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi phải tìm nơi núi sâu ở ẩn, không nên đi giáo sớm, trong 
                  nước sẽ có nạn.
 
                  - 
                  
                  Tăng Xán Thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Thầy đã biết trước mọi việc, xin thầy từ bi dạy cho con rành 
                  rẻ.
 
                  - 
                  
                  Nhị Tổ nói:
 
                  - 
                  - 
                  Ðây không phải tự ta nói, mà là lời huyền ký của Tổ Bát Nhã Ða 
                  La, do Tổ Ðạt Ma thuật lại cho ta nghe. Sau khi Tổ nhập niết 
                  bàn 150 năm sẽ có những việc xảy ra như bài kệ:
 
                  - 
                  
                  Tâm trung tuy kiết ngoại hung đầu
 
                  - 
                  
                  Xuyên hạ tăng phòng danh bất trung
 
                  - 
                  
                  Vi ngộ độc long sanh võ tử
 
                  - 
                  
                  Hốt phùng tiểu thử tịch vô cùng.
 
                  - 
                  
                  Dịch:
 
                  - 
                  
                  Trong tâm tuy kiết ngoại đầu hung
 
                  - 
                  
                  Ðất xuyên phòng tăng tên chẳng trúng
 
                  - 
                  
                  Vì gặp độc long sanh con võ
 
                  - 
                  
                  Chợt nghe chuột nhỏ lặng vô cùng.
 
                  - 
                  
                  Xét về niên số nhằm đời của ngươi, ngươi nên cố gắng giữ gìn. 
                  Ta cũng có nợ ngày trước, nay cần phải trả. Dặn dò mọi việc 
                  cho Tam Tổ Tăng Xán xong, Nhị Tổ sang xứ Nghiệp Ðô giáo hóa 
                  chúng sanh.
 
                  - 
                  
                  SỰ GIÁC NGỘ CỦA TĂNG XÁN
 
                  - 
                  
                  Qua mẩu chuyện đối thoại giữa Nhị Tổ và Tăng Xán:
 
                  - 
                  - 
                  Ðệ tử mang bệnh, ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi vì đệ tử mà 
                  sám tội.
 
                  - 
                  
                  Nhị Tổ bảo:
 
                  - 
                  - 
                  Ðem tội ra đây ta sẽ vì ngươi mà sám tội.
 
                  - 
                  
                  Vị Cư Sĩ ngơ ngẩn:
 
                  - 
                  - 
                  Ðệ tử tìm tội không thể được.
 
                  - 
                  
                  Nhị Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ta đã vì ngươi mà sám hối rồi.
 
                  - 
                  
                  Như trên, chúng ta thấy phảng phất giống như tâm trạng của Nhị 
                  Tổ khi cầu đạo. Ở đây chúng ta thấy thái độ của Tam Tổ Tăng 
                  Xán tới gặp Nhị Tổ chỉ vì một lý do duy nhất đó là bệnh hoạn 
                  đau khổ triền miên, đi đến chỗ tuyệt vọng, nên khi Tăng Xán 
                  đến với Tổ cũng luôn cả tâm hồn lẫn thể xát, với tất cả lòng 
                  tín thành của con người đang bị nghiệp lực hoành hành. Như có 
                  lần chúng ta đã chứng kiến cách an tâm của Tổ Sư Ðạt Ma cho 
                  Nhị Tổ, thì bây giờ cũng như vậy, với những câu đối thoại đơn 
                  sơ giữa Nhị Tổ và Tăng Xán khó mà hiểu được ý nghĩa thâm trầm 
                  đó, nếu chúng ta không có đau khổ bệnh hoạn như vậy. Chúng ta 
                  cũng có thể hiểu câu nói nầy như một cái phi đạn trong đời 
                  sống tâm linh của Tăng Xán, cho nên lời của Nhị Tổ có tác dụng 
                  hữu hiệu trong việc giải phóng nghiệp lực và mang giác ngộ đến 
                  cho Tăng Xán. Ðã hơn một lần chứng nghiệm từ bản thân, nên Nhị 
                  Tổ chỉ nhận Tăng Xán làm môn đệ, khi Nhị Tổ biết chắc chắn 
                  rằng Tăng Xán là một con người hoàn toàn đau khổ vì nghiệp 
                  duyên. Khi đã biết rõ quá trình ý thức của Tăng Xán qua những 
                  mẫu đối thoại thông thường, Nhị Tổ đã biết rõ chổ cần thiết 
                  của Tăng Xán, nên chỉ đánh vào nhược điểm ấy bằng một câu đơn 
                  giản, thế là con người đau khổ, bệnh hoạn ấy ngã gục nhường 
                  chỗ cho con người mới sống dậy. Tăng Xán đang đứng trước vực 
                  thẩm của nghiệp báo, nên rất có thể chỉ vì một lời nói của Nhị 
                  Tổ có thể làm cho Tăng Xán tự tử, và có thể một lời nói làm 
                  cho Tăng Xán giác ngộ, và trong trường hợp nầy một lời nói của 
                  Nhị Tổ đã đánh thức được nghiệp thức của Tăng Xán.
 
                  - 
                  
                  TỨ TỔ ÐẠO TÍN
 
                  - 
                  
                              Sau khi đắc pháp, và theo lời dạy của Nhị Tổ, Tam 
                  Tổ Tăng Xán ẩn mình nơi núi Hòan Công thuộc Thư Châu. Về sau 
                  Tổ sang ở núi Tư Không Huyện Thái Hồ, trong thời gian nầy có 
                  vị tăng người Ấn Ðộ tên Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang Trung Hoa cầu 
                  pháp. Gặp Tổ, Tỳ Ni Ða Lưu Chi hết lòng ngưỡng mộ và xin làm 
                  đệ tử, Tổ truyền tâm ấn và khuyên qua phương nam tiếp độ chúng 
                  sanh. Nghe lời Tổ dạy, Tỳ Ni Ða Lưu Chi từ biệt thầy ra đi. 
                  Ðến Quảng Châu ngài trú trì ở Chùa Chế Chỉ ở đây ngài dịch 
                  Kinh Tượng Ðầu Báo nghiệp từ chữ Phạn sang chữ hán. Ðến năm 
                  canh Tý niên hiệu Ðại Tường thứ hai Nhà Chu, ngài qua Việt Nam 
                  Trú Trì tại Chùa Pháp Vân. Tính theo địa danh bây giờ, Chùa 
                  Pháp Vân nay thuộc làng Vân Giáp, huyện Thượng Phúc tỉnh Hà 
                  Ðông. Ở đây ngài dịch Kinh Tổng Trì. Năm Quý Sụu niên hiệu 
                  Khai Hòang thứ 14 đời Nhà Tùy( năm594) ngài truyền tâm ấn cho 
                  ngài Pháp Hiền rồi viên tịch.
 
                  - 
                  
                              Sau khi truyền Pháp cho ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Tam 
                  Tổ vẫn tiếp tục sống ẩn dật ở núi Tư Không, mãi cho đến đời 
                  Nhà Tùy niên hiệu Khai Hoàng có một Sa Di tên Ðạo Tín, họ Tư 
                  Mã, tổ tiên quê ở Hà Nội, sanh và trưởng thành ở Kỳ Châu huyện 
                  Quảng Tế, đến lễ Tam Tổ và thưa:
 
                  - 
                  
                              - Xin Hòa Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải 
                  thóat.
 
                  - 
                  
                              Tam Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Ai trói buộc ngươi?
 
                  - 
                  
                              Ðạo Tín thưa:
 
                  - 
                  
                              - Không ai trói buộc cả.
 
                  - 
                  
                              Tam Tổ dạy:
 
                  - 
                  
                              - Không ai trói buộc đâu cần giải thoát.
 
                  - 
                  
                              Nghe Tổ dạy như thế Ðạo Tín liền ngộ dạo. Từ đây 
                  Ðạo Tín theo hầu hạ Tổ suốt chín năm trời. Tổ thường dùng lý 
                  diệu huyền gạn hỏi, biết Ðạo Tín cơ duyên đã thuần thục, Tổ 
                  tuyền trao y bát cho ngài và dạy:
 
                  - 
                  
                              - Chánh Pháp Nhãn Tạng của Như Lai, nay ta trao 
                  cho ngươi cùng với y bát. Ngươi gắng mà giữ gìn hãy nghe ta 
                  nói bài kệ.
 
                  - 
                  
                              Hoa chủng tuy nhơn địa
 
                  - 
                  
                  Tùng địa chủng hoa sanh
 
                  - 
                  
                  Nhược vô nhơn hạ chủng
 
                  - 
                  
                  Hoa địa tận vô sanh.
 
                  - 
                  
                  Dịch:
 
                  - 
                  
                  Giống hoa tuy nhơn đất
 
                  - 
                  
                  Từ đất giống hoa sanh
 
                  - 
                  
                  Nếu không người gieo giống
 
                  - 
                  
                  Hoa đất trọn không sanh.
 
                  - 
                  
                  Tổ dạy tiếp:
 
                  - 
                  - 
                  Xưa Tổ Huệ Khả trao pháp cho ta rồi, ngài đến xứ Nghiệp Ðô 
                  hoằng pháp hơn 30 năm mới tịch. Nay đã có người thừa kế cho ta 
                  thì việc đã xong.
 
                  - 
                  
                              Sau khi truyền tâm ấn cho Ðạo Tín, tổ đến núi La 
                  Phù ngao du hai năm, rồi lại trở về Châu Thư ngụ tại Chùa Sơn 
                  Cốc. Dân chúng ở đây nghe Tổ đến đều vui mừng, họ tấp nập kéo 
                  nhau đến nghe pháp rất đông. Một hôm Tổ đăng tòa thuyết pháp 
                  cho tứ chúng nghe, sau khi thuyết pháp xong, Tổ đứng ngay 
                  thẳng dưới cây đại thọ chấp tay thị tịch.
 
                  - 
                  
                              Sau khi được phú Pháp, Ðạo Tín trở thành đệ Tứ Tổ, 
                  từ đó về sau Tổ tinh tấn tu tập ngày đêm không nằm.
 
                  - 
                  
                  HOẰNG PHÁP LỢI SANH
 
                  - 
                  
                              Trên con đường hoằng Pháp Lợi Sanh, năm 613T.L. 
                  niên hiệu Ðại Nghiệp năm thứ 13 đời Nhà Tùy, Tổ cùng đại chúng 
                  sang Kiết Châu, ở đó bị giặc cướp vây thành, dân chúng ai ai 
                  cũng kinh hoàng. Thấy vậy Tổ dạy mọi người chí thành niệm Ma 
                  Ha Bát Nhã, toàn dân chúng trong thành ai ai cũng tụng niệm. 
                  lúc bấy giờ bọn giặc cướp nhìn lên thành thấy thần binh trùng 
                  trùng điệp điệp, nên chúng vội vã rút binh.
 
                  - 
                  
                              Sau Tứ Tổ về an trụ tại Kỳ Xuân, núi Phá Ðầu. Ở 
                  đây, tăng tín đồ đua nhau đến tham vấn học đạo rất đông. Trong 
                  thời gian ở đây Tổ cũng đã khai thị cho ngài Pháp Dung. Ngài 
                  Pháp Dung đắc pháp với Tổ và sau nầy truyền thừa phái Ngưu Ðầu 
                  Thiền.
 
                  - 
                  
                              Một hôm Tứ Tổ đến huyện Hoàng Mai, giữa đường gặp 
                  một đứa bé độ chừng bảy tuổi. Tổ để tâm đến đứa bé, sau đó Tổ 
                  và tùy tùng tìm đến nhà đứa bé xin cha mẹ đứa bé cho nó xuất 
                  gia. Mẹ đứa bé đồng ý, Tổ nhận đứa bé làm đệ tử xuất gia và 
                  đặt tên là Hoằng Nhẫn. Khi cơ duyên đến Tứ Tổ truyền trao y 
                  bát và Hoằng Nhẫn trở thành đệ Ngũ Tổ.
 
                  - 
                  
                              CHỖ ÐẮC PHÁP CỦA TỨ TỔ
 
                  - 
                  
                              Qua sự đối thoại của Ðạo Tín và Tam Tổ, tuy cũng 
                  đơn sơ nhưng ý nghĩa rất cao xa. Bởi vì nếu không phải là 
                  người đã có căn cốt tu tập từ đời kiếp trước thì dĩ nhiên khó 
                  mà nhận lãnh ý nghĩa cao thâm này. Như nói:
 
                  - 
                  
                              - Xin Hoà Thượng từ bi mở cửa cam lộ, ban cho con 
                  pháp môn giải thoát.
 
                  - 
                  
                              Tam Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Ai trói buộc ngươi?
 
                  - 
                  
                              Ðạo Tín đáp:
 
                  - 
                  
                  Không có ai trói buộc.
 
                  - 
                  
                  Tam Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Ðã không ai trói buộc thì đâu cần phải giải 
                  thoát.
 
                  - 
                  
                              Từ câu chuyện ngắn gọn như vậy, Tam Tổ đã thấy rõ 
                  ràng Ðạo Tín là người có căn duyên với Phật Pháp, tuy nhiên 
                  cũng vẫn là người chưa kiến tánh, do đó mà chưa thoát được 
                  những phiền não, những hệ lụy trói buộc của kiếp người, nên 
                  Ðạo Tín phải đi phải cần Tổ chỉ dạy phương tiện giải thoát. 
                  Lời Tổ dạy như muốn nói: Nếu muốn giải thoát phiền não thì 
                  phải đi tìm phật, mà tìm phật ở bên ngoài là điều không thể có 
                  được. Vậy thì hãy nhìn vào bản chất của chính mình, đó chính 
                  là Phật. Phật là bậc toàn năng, toàn trí, toàn giác, là bậc đã 
                  giải thoát hoàn toàn. Một bậc không còn làm gì nữa, vì đã làm 
                  nhiều rồi, cũng không cần thành tựu vì đã thành tựu rồi. Thay 
                  vì  quay đi và đi tìm Phật ở ngoại vật, thì sẽ không bao giờ 
                  thấy Phật. Như vậy phải nhìn vào bản tính của chính mình, Phật 
                  là tâm của của chính mình, vậy thì cũng đừng lầm lẫn mà tìm 
                  cầu vào ngoại vật. Phật chính là bản tính giác ngộ, và sự giác 
                  ngộ nầy nói về sự giác ngộ tâm linh, vì chính bản tính tâm 
                  linh của mình phản ứng lại ngoại giới, và giao tiếp với mọi sự 
                  vật. Bản tính nói ở đây là tâm, Tâm là Phật. Phật là Ðạo, Ðạo 
                  là ngôn ngữ Thiền. Thiền là tiếng nói giản dị, nhưng lại vượt 
                  lên trên tất cả sự hiểu biết của những cái khôn và dại để nhìn 
                  thẳng vào bản lai diện mục của mình đó là thiền. Dù người có 
                  thông hiểu kinh bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu không nhìn thấy 
                  bản tánh nguyên thủy của chính mình, thì người ấy vẫn còn bị 
                  phiền não sai sử, trói buộc triền miên. Ðạo lý không phải chỉ 
                  có ở nơi nghiên cứu lý thuyết để chứng ngộ. Chân lý cao nhất 
                  và sâu sắc nhất đến không thể dò được, chân lý ấy không phải 
                  là đối tượng của sự luận bàn, và ngay cả những kinh điển cũng 
                  không thể đem chân lý đến cho ta, mà hãy nhìn thấy bản tánh 
                  thật thụ của mình thì sẽ đạt chân lý, và giải thoát. Tam Tổ đã 
                  thấy được sự thành tựu ở lớp tuổi mười bốn của Ðạo Tín, nên 
                  chỉ bằng một câu đơn giản như vậy mà có mãnh lực như tia hào 
                  quang vi diệu chiếu vào bản lai diện mục của Ðạo Tín.
 
                  - 
                  
                              ÐỆ NGŨ TỔ HOẰNG NHỞN
 
                  - 
                  
                              Như đã trình bày ở trên, một hôm Tứ Tổ đến huyện 
                  Hoằng Mai, giữa đường gặp một đứa bé tướng mạo rất khôi ngô, 
                  độ chừng bảy tuổi, Tổ hỏi đứa bé:
 
                  - 
                  
                              - Ngươi tên họ Là gì?
 
                  - 
                  
                  Ðựa bé đáp:
 
                  - 
                  
                              - Họ có mà không phải thường.
 
                  - 
                  
                              Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Là họ gì?
 
                  - 
                  
                              Ðựa bé đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Là họ Phật.
 
                  - 
                  
                              Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Ngươi không có họ à?
 
                  - 
                  
                              Ðựa bé đáp;
 
                  - 
                  - 
                  Vì họ ấy là không.
 
                  - 
                  
                              Thấy thế Tổ nói với tùy tùng:
 
                  - 
                  
                              Ðựa bé nầy không phải là người phàm, sau nầy sẽ 
                  làm cho Phật pháp hưng thịnh. Sau đó Tổ và tùy tùng tìm đến 
                  nhà đứa bé thuật lại những đặt tính khác thường của đứa bé và 
                  xin mẹ nó cho nó xuất gia. Mẹ đứa bé đồng ý, Tổ nhận đứa bé 
                  làm đệ tử xuất gia và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Nhận thấy cơ 
                  duyên đã đến, một hôm tổ gọi Hoằng Nhẫn đến bảo:
 
                  - 
                  
                              - Xưa Như Lai Truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng đến đời 
                  ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi hãy giữ 
                  gìn cẩn thận, truyền trao đừng cho đứt đoạn. Hãy nghe ta nói 
                  bài kệ:
 
                  - 
                  
                  Hoa chủng hữu sanh tánh
 
                  - 
                  
                  Nhơn địa Hoa sanh sanh
 
                  - 
                  
                              Ðại duyên dữ trí hiệp
 
                  - 
                  
                  Ðương sanh hoa bất sanh
 
                  - 
                  
                              Dịch:
 
                  - 
                  
                              Giống hoa có tánh sống
 
                  - 
                  
                              Nhân đất hoa nẩy mầm
 
                  - 
                  
                              Duyên lớn cùng tín hợp
 
                  - 
                  
                              Chánh sanh hoa chẳng sanh.
 
                  - 
                  
                              Sau khi Tứ Tổ tịch, Ngũ Tổ thừa kế trụ trì tại núi 
                  Phá Ðầu, ngài giáo hóa chúng sanh, Phật Pháp nơi dây rất thịnh 
                  hành. Khi ấy dân chúng kính mộ tôn phong, cho nên dù xa ngàn 
                  dặm cũng tìm đến tham học rất đông. Tại Ðạo tràng nầy tăng 
                  chúng thường trực không dưới năm trăm người.
 
                  - 
                  
                              Ðến niên hiệu Hàm Hanh( năm 670-674T.L.), đời nhà 
                  Ðường có một cư sĩ tên Lư Huệ Năng từ Lĩnh Nam đến yết kiến tổ 
                  để cầu đạo. Ngũ Tổ nhận thấy Huệ Năng là Pháp Khí nhưng sợ 
                  đương thời có người hãm hại, nên giả vờ không thâu nhận làm đệ 
                  tử xuất gia, mà chỉ thâu nhận như một người là công quả. Về 
                  sau cơ duyên đến Ngũ Tổ âm thầm truyền trao y bát và Huệ Năng 
                  trở thành Lục Tổ.
 
                  - 
                  
                              HUYỀN THOẠI VỀ NGŨ TỔ
 
                  - 
                  
                              Một hôm, Ngũ Tổ viếng thăm núi Long Phụng gặp một 
                  ông Sư Già trồng tòng, người đương thời gọi ông là Tài Tòng 
                  Ðạo Giả. Vị sư ấy hỏi Tổ rằng:
 
                  - 
                  
                              - Ðạo pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được 
                  không?
 
                  - 
                  
                  Tứ Tổ đáp:
 
                  - 
                  
                              - Tuổi của ông đã già dù cho có nghe kịp cũng 
                  không hoằng hóa kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
 
                  - 
                  
                              Ðạo Giả nghe Tứ Tổ dạy như vậy, ông liền từ tạ Tổ 
                  và đi xuống núi. Ðến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang 
                  giặt áo bên bờ sông, ông đến chào và hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Nhà cô cách đây gần hay xa. Cô có thể nào vui 
                  lòng cho tôi nghỉ nhờ được không?
 
                  - 
                  
                              Cô gái đáp:
 
                  - 
                  
                              - Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời sư vào 
                  nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
 
                  - 
                  
                              Ðạo Giả hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?
 
                  - 
                  
                              Cô gái đáp:
 
                  - 
                  
                              - Riêng tôi thì tôi bằng lòng.
 
                  - 
                  
                              Ðạo Giả nghe cô hứa chịu, liền đi thẳng về núi 
                  viên tịch. Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa 
                  lời với Ðạo Giả rồi, không bao lâu cô ấy có thai, cha mẹ thấy 
                  cô chưa có chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong, nên cha 
                  mẹ quyết định đuổi cô đi.    
 
                  - 
                  
                              Cô đang tuổi trẻ mà mang cái nợ giữa đường, sống 
                  bơ vơ không nơi nương đổ, phải đi làm thuê mướn nuôi miệng qua 
                  ngày. Ðến ngày khai hoa nở nhụy, cô sinh ra một đứa con trai 
                  xinh xắn, nhưng vì lý do không chồng mà có con, nên cô đành 
                  lòng đem đứa con mới sanh thả sông. Sáng ngày cô thấy đứa bé 
                  ngồi xếp bằng ngồi trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. 
                  Cô vừa lấy làm lạ, vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Ðến 
                  bảy tuổi, đứa bé gặp Tứ Tổ và đối thoại một cách phi thuờng, 
                  do đó được Tổ để ý xin về cho xuất gia và đặt tên là Hoằng 
                  Nhẫn. Hoằng Nhẫn, có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có 
                  nghĩa Tứ Tổ nhẫn chờ đứa bé không lớn khôn để truyền pháp. 
                  Theo truyền thuyết này, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tòng 
                  Ðạo Giả.
 
                  - 
                  
                              LỤC TỔ HUỆ NĂNG
 
                  - 
                  
                              Trên đường Tứ Tổ Hoằng Pháp Lợi Sanh, một hôm có 
                  một Cư Sĩ tên Huệ Năng họ Lư người Lĩnh Nam đến ra mắt Ngũ Tổ, 
                  Tổ hỏi:
 
                  - 
                  
                              - Ngươi từ đâu đến?
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng con từ Lĩnh Nam đến.
 
                  - 
                  
                  Ngũ Tổ hỏi:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi đến đây ý muốn cầu việc gì?
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng, con đến đây chỉ muốn cầu làm Phật.
 
                  - 
                  
                  Ngũ Tổ quở:
 
                  - 
                  - 
                  Người Lĩnh Nam không có Phật tánh, làm sao làm Phật được.?
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng kính cẩn thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng, người có nam có bắc, nhưng Phật tánh thì 
                  không có nam bắc.
 
                  - 
                  
                  Qua câu chuyện đối thoại Ngũ Tổ biết đây là bậc lợi căn, là 
                  hàng pháp khí. Tổ còn muốn nói chuyện thêm thì có người tới. 
                  Vì sợ người đời ganh tỵ nên Tổ bảo xuống nhà bếp làm công quả. 
                  Ở đây ngài làm công quả bửa củi, giã gạo. Cối gạo thì to, chày 
                  đạy thì lớn, trong khi đó Huệ Năng ở lứa tuổi hai mươi mốt hai 
                  mươi hai, người gầy dáng nhỏ, nên không đủ sức để làm việc, 
                  cho nên ngài mới cột thêm cục đá trên lưng để đủ sức giã gạo. 
                  Ngài làm việc như vậy gần sáu tháng trời mà không thối chí.
                  
 
                  - 
                  
                  Một hôm Tổ xuống nhà bếp, đi ngang qua chỗ Huệ Năng giã gạo, 
                  Tổ bảo:
 
                  - 
                  - 
                  Ngươi vì đạo quên mình như thế, ta biết ngươi căn tánh lanh 
                  lợi, nhưng ngại có người hại ngươi, cho nên ta không thể nói 
                  chuyện với ngươi, ngươi có biết không?
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng kính cẩn thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng con đã biết như thế.
 
                  - 
                  
                  Tổ biết thời cơ truyền Pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn 
                  chúng trình kệ:
 
                  - 
                  - 
                  Chánh Pháp khó hiểu, không nên ghi nhớ lời nói suông của ta. 
                  Các ngươi tùy ý mỗi người thuật một bài kệ, nếu ý ngộ ta sẽ 
                  truyền trao y bát. Lúc đó hội chúng hơn bảy trăm người, ai 
                  cũng tôn sùng Thần Tú làm bực thầy, nên họ đồng nhường phần 
                  trình kệ cho Thần Tú. Thần Tú nghe lời bàn tán của đại chúng 
                  như vậy, nên ông làm một bài kệ. Làm kệ xong, ông lén biên lên 
                  vách chùa phía ngoài hành lang bài kệ như sau:
 
                  - 
                  
                  Thân thị Bồ Ðề thọ
 
                  - 
                  
                  Tâm như minh cảnh đài
 
                  - 
                  
                  Thời thời cần phất thức
 
                  - 
                  
                  Mạc sử nhạ trần ai.
 
                  - 
                  
                  Dịch:
 
                  - 
                  
                  Thân là cội Bồ Ðề
 
                  - 
                  
                  Tâm như đài gương sáng
 
                  - 
                  
                  Luôn luôn phải lau chùi
 
                  - 
                  
                  Chớ để dính bụi bặm.
 
                  - 
                  
                  Sáng ngày, Ngũ Tổ đi kinh hành qua thấy bài kệ, Tổ biết thầnTú 
                  làm, nên khen:
 
                  - 
                  - 
                  Người đời sau nếu y theo bài kệ nầy mà tu hành thì cũng được 
                  thắng quả. Thế là toàn chúng đua nhau đọc tụng.
 
                  - 
                  Ở 
                  nhà bếp, ngài Huệ Năng đang giã gạo, có một ông đạo đi ngang 
                  qua tụng bài kệ ấy. Hỏi ra biết của Thần Tú làm, Huệ Năng bèn 
                  nhờ dẫn đến chỗ biên kệ đảnh lễ, đồng thời nhờ biên giùm một 
                  bài kệ hòa  lại:
 
                  - 
                  
                              Bồ Ðề bổn vô thọ
 
                  - 
                  
                              Minh cảnh diệt phi đài
 
                  - 
                  
                  Bổn lai vô nhất vật
 
                  - 
                  
                              Hà xứ nhạ trần ai.
 
                  - 
                  
                              Dịch:
 
                  - 
                  
                              Bồ Ðề vốn không cội
 
                  - 
                  
                              Gương sáng cũng chẳng đài
 
                  - 
                  
                  Xưa nay không một vật
 
                  - 
                  
                              Chỗ nào dính trần ai.
 
                  - 
                  
                              Ngũ Tổ thấy bài kệ, biết là của Huệ Năng và bài kệ 
                  nầy đã thấy tánh, nhưng không tiện nói ra, sợ e có người hại 
                  Huệ Năng nên Tổ lấy dép bôi đi và nói:
 
                  - 
                  
                              - Ai làm bài kệ nầy cũng chưa thấy tánh. Mấy hôm 
                  sau Ngũ Tổ tìm cơ hội xuống nhà bếp, đến cho Huệ Năng giã gạo 
                  và hỏi:
 
                  - 
                  - 
                  Gạo trắng chưa?
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Bạch Hòa Thượng, gạo đã trắng rồi mà chưa có sàng.
 
                  - 
                  
                  Tổ cầm gậy gỏ lên cần cối ba cái rồi đi về phương trượng. Canh 
                  ba đêm ấy Huệ Năng đi vào tịnh thất của Ngũ Tổ, Tổ giảng Kinh 
                  Kim Canh cho Huệ Năng. Nghe đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ 
                  tâm thì Huệ Năng tỏ ngộ tất cả pháp  bất ly tự tánh, nên quì 
                  xuống bạch rằng:
 
                  - 
                  
                  Rõ được tự tánh gốc thanh tịnh
 
                  - 
                  
                  Rõ được tự tánh gốc chẳng sanh diệt
 
                  - 
                  
                  Rõ được tự tánh gốc hoàn toàn
 
                  - 
                  
                  Rõ được tự tánh gốc không lay chuyển
 
                  - 
                  
                  Rõ được tự tánh gốc sanh các pháp.
 
                  - 
                  
                  Ngũ Tổ biết Huệ Năng tỏ ngộ được bổn tánh nên dạy rằng:
 
                  - 
                  
                  Chẳng biết bổn tâm, học Pháp vô ích, Biết được bổn tâm, thấy 
                  được bổn tánh, mới là Ðại Trượng Phu, là Thiên Nhân sư, là 
                  Phật.
 
                  - 
                  
                  Giữa canh ba đêm đó, Ngài Huệ Năng thọ giới không ai hay, Ngũ 
                  Tổ truyền phú đốn giáo cùng y bát và dạy rằng:
 
                  - 
                  - 
                  Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, bởi chúng sanh 
                  căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới chia ra ba thừa, mười 
                  địa đốn tiệm đó gọi là giáo môn. Như Lai riêng đem chánh Pháp 
                  Nhãn Tạng Vô Thượng chơn thật vi diệu trao cho tổ Ca Diếp, lần 
                  lượt truyền đến đời thứ hai mươi tám là Tổ Ðạt Ma. Tổ Ðạt Ma 
                  sang Trung Quốc truyền nối ngọn đèn chánh pháp đến đời ta, nay 
                  ta đem Ðại Pháp và Y Bát đã thọ trao lại cho ngươi. Ngươi phải 
                  gắng gìn giữ truyền trao đừng để đọạn tuyệt. Bây giờ đây hãy 
                  nghe ta nói bài kệ:
 
                  - 
                  
                  Hữu tình lai hạ chủng
 
                  - 
                  
                  Nhơn địa quả toàn sanh
 
                  - 
                  
                  Vô tình ký vô chủng
 
                  - 
                  
                  Vô tánh diệt vô sanh
 
                  - 
                  
                  Dịch:
 
                  - 
                  
                  Có tình đến gieo giống
 
                  - 
                  
                  Nhơn đất quả lai sanh
 
                  - 
                  
                  Vô tình đã không giống
 
                  - 
                  
                  Không tánh cũng không sanh.
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng thọ Pháp và y bát xong, lễ Tổ và thưa:
 
                  - 
                  - 
                  Pháp thì con đã nghe thầy dạy, còn y bát có nên truyền cho 
                  người sau không?
 
                  - 
                  
                  Ngũ Tổ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Xưa Tổ Ðạt Ma là người nước ngoài, truyền pháp cho Tổ Huệ Khả, 
                  vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừa của thầy trò, nên 
                  lấy y bát truyền để tín nghiệm. Nay tông môn ta thiên hạ đều 
                  rõ, không còn ai không tin, nên y bát dừng ngay ở đời ngươi 
                  đừng truyền nữa. Chánh pháp đến đời ngươi truyền bá càng rộng, 
                  nếu còn truyền y bát sẽ có sự tranh giành. Ðã có sự tranh 
                  giành thì người được truyền y mạng sống rất là nguy hiểm. 
                  Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ hoằng hóa.
 
                  - 
                  
                  Huệ Năng lại hỏi:
 
                  - 
                  - 
                  Nay con phải đi về đâu?
 
                  - 
                  
                  Ngũ Tỗ dạy:
 
                  - 
                  - 
                  Ðến Hoài thì dừng, Hội thì ẩn. Huệ Năng lễ tạ ân thầy rồi ra 
                  đi ngay trong đêm hôm ấy. Ba ngày sau đại chúng mới hay Tổ đã 
                  truyền y Bát cho Huệ Năng. Bốn năm sau khi truyền y bát cho 
                  Huệ Năng, Tổ viên tịch nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai( 
                  Năm 675T.L.) đời nhà Ðường, hưởng thọ 74 tuổi. 
 
                  - 
                  
                  CON ÐƯỜNG HOẰNG PHÁP CỦA LỤC TỔ
 
                  - 
                  
                  Sau khi được truyền y bát, trên đường lánh nạn, Huệ Minh là 
                  một trong những người rượt theo Tổ để dành y bát, cuối cùng 
                  được tổ khai thị và Huệ Minh được giác ngộ. Trên hành trình 
                  truyền đạo, và theo lời dặn của Ngũ Tổ, nên Lục Tổ thường ẩn 
                  trú tại hai ấp Hoài và Tứ Hội.( Quảng Ðông). Nơi đây Tổ sống 
                  với đoàn thợ săn với hình thức của một cư sĩ, ngài thường tùy 
                  nghi mà thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó Tổ đến Thiều Châu 
                  thuộc tỉnh Quảng Ðông, ngài trùng tu lại Chùa Bửu Lâm. Ở đây 
                  không bao lâu, lại có người tìm đến để dành y Bát. Tổ lại ẩn 
                  tránh một thời gian nữa. Suốt mười sáu năm trời ẩn tránh, Tổ 
                  biết cơ duyên hoằng pháp đã đến, ngài đi đến Quảng Châu, nhằm 
                  ngày mồng tám tháng giêng năm Bính Tý( năm 676T.L.), niên hiệu 
                  Nghi Phụng đời nhà Ðường. Tổ vào nghỉ nhờ ngoài hiên Chùa Pháp 
                  Tánh, nơi đây Pháp Sư Ấn Tông và mọi người biết được chân 
                  tướng của ngài, nên mọi người xin được coi y bát. Sau đó Pháp 
                  Sư Ấn Tông xin Lục Tổ nhận làm đệ tử, đồng thời cầu xin chỉ 
                  dạy Thiền Pháp. Bảy ngày sau đó tức là ngày rằm tháng giêng 
                  (năm Bính Tý năm 676T.L) Ấn Tông thỉnh các bậc danh đức đến 
                  thí phát cho Lục Tổ. Ngày mồng tám tháng hai, lập Giới Ðàn 
                  truyền giới Cụ Túc cho Tổ, ngài Luật Sư Trí Quang làm tuyên 
                  Luật Sư.
 
                  - 
                  
                  Theo huyền ký của ngài Cầu Na Bạt Ðà La đời nhà Tống cho biết:
 
                  - 
                  - 
                  Sau nầy sẽ có nhục thân Bồt Tát thọ giới tại đây.
 
                  - 
                  
                  Thời Lương mạc, ngài Tam Tạng Chân Ðế đích thân trồng hai cây 
                  Bồ Ðề, và bảo đại chúng rằng:
 
                  - 
                  - 
                  Sau khoảng 120 năm sẽ có bậc đại sĩ ở dưới cây Bồ Ðề nầy khai 
                  diễn Pháp Vô Thượng, độ chúng sanh vô lượng.
 
                  - 
                  
                  Tổ trụ trì tại Quảng Châu Chùa Pháp Tánh một thời gian, sau đó 
                  Tổ trở lại Chùa Bửu Lâm ở Tào Khê, nơi mà Lục Tổ đã trú trì 
                  trước đây. Ấn Tông cùng mọi người tiển đưa cả ngàn người. Tổ 
                  hoằng pháp ở đây, Tăng và Tục xa gần cùng nhau tới tham vấn 
                  rất đông. Trung bình chư tăng thường trú tại chùa không dưới 
                  ngàn người. Tổ đã dựng lên cờ Ðại Pháp, bốn phương đều trông 
                  thấy hướng về. Kinh Pháp Bảo Ðàn được Tổ diễn giảng và xuất 
                  phát từ đây. 
 
                  - 
                  
                  CUỘC THỬ NGHIỆM GIỮA NGŨ TỔ& LỤC TỔ HUỆ NĂNG. 
 
                  - 
                  
                  Như chúng ta biết ngài Huệ Năng không biết chữ cũng không biết 
                  Phật Pháp, bù lại ngài có một trực giác kỳ diệu, chưa từng 
                  thấy trong giới tu thiền. Tất cả những sự tu tập của ngài Huệ 
                  Năng, khi chưa đến Chùa thì chỉ quy vào âm hưởng của bộ kinh 
                  Kim Cương khi ngài nghe người khác tụng. Khi đến Chùa gặp Ngũ 
                  Tổ và một cuộc vấn đáp đã được diễn ra giữa thầy dạy đạo và 
                  người học đạo. Vấn đáp là một phép dạy độc đáo của Thiền. Lối 
                  vấn đáp nầy đã được in đậm nét vào tất cả giai đoạn tiến triển 
                  của Thiền từ thời Ðức Bổn Sư Thích Ca cho đến những vị Tổ Sư 
                  sau nầy. Thiền là vô tâm, vô niệm, nên lối vấn đáp của Thiền 
                  lúc nào cũng hồn nhiên sống động như nước chảy mây bay, không 
                  chần chờ suy nghĩ. Vì không suy nghĩ nên cuộc đối thoại Thiền 
                  bất thần bừng lên từ nơi sâu thẳm của tâm linh. Cuộc ứng đối 
                  đó giống như hai tấm gương phản chiếu liên miên những ánh sánh 
                  cho nhau, tia sáng nào vừa nhận được là trả lại ngay, không 
                  giữ lại gì hết, nên gương lúc nào cũng trong, lòng gương lúc 
                  nào cũng không, để lúc nào cũng sẳn sàng nhận đâu trả đó, 
                  thích ứng với những diễn biến chung quanh.
 
                  - 
                  
                  Trong trường hợp vấn đáp của Ngũ Tổ và lục Tổ, thoạt tiên 
                  chúng ta thấy Ngũ Tổ giả vờ chê trách nguồn gốc người Lĩnh 
                  Nam: Người Lĩnh Nam không có Phật Tánh, làm sao cầu làm Phật 
                  được. Ngay tức khắc Huệ Năng liền trả đủa bằng một câu của con 
                  người chứng ngộ mới dám khẳng định: Người có Nam Bắc, nhưng 
                  Phật Tánh không có Nam Bắc, tuy thân mọi rợ nầy so với Hòa 
                  Thượng thì có khác, nhưng Phật tánh trong Hoà Thượng và trong 
                  con vẫn không có khác.
 
                  - 
                  
                  Mới nhìn qua chúng ta cứ ngở là Huệ Năng hổn láo đối với một 
                  Vị Hòa Thượng nổi tiếng như Ngũ Tỗ, nhưng kỳ thực đây là niềm 
                  tự tin và hãnh diện về sự chứng ngộ tâm linh của mình và không 
                  hề có một tự ty mặc cảm nào khi mới vừa gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. 
                  Theo tiêu chuẩn nghi lễ, lễ phép ở Tông môn thì cách đối đáp 
                  của Huệ Năng quả thật là vô lễ. Ðiều nầy từ cổ chí kim, chúng 
                  ta chưa thấy một người học trò trẻ măng  mới đến chùa xin tu 
                  mà lại cả gan đối đáp như vậy. Ngôn ngữ nầy chỉ có Ngũ Tổ mới 
                  hiểu nổi con người giác ngộ của Huệ Năng, vì vậy mà sợ sự đố 
                  kỵ của mọi người, nên Tổ chỉ nhận Huệ Năng vào chùa như một 
                  người làm công quả.
 
                  - 
                  
                  Suốt thời gian sáu tháng làm công quả, âm hưởng của Kinh Kim 
                  Cang mà huệ Năng nghe được vẫn tiếp tục theo đuổi và đánh phá, 
                  chấn động vào tâm hồn trong trắng ấy, thêm vào đó là bầu không 
                  khí thiền nung nấu hằng ngày trong thiền viện, tuy nhiên những 
                  yếu tố nầy chỉ là nhân ban đầu để dẫn Huệ Năng đến đích của sự 
                  giác ngộ. Ðộng cơ chính thúc đẩy để đưa Huệ Năng giác ngộ là 
                  bài kệ Kiến Tánh của Giáo Thọ Thần Tú. Bài kệ nầy, đã gây một 
                  sức phản động quyết liệt trong nội tâm của Huệ Năng, vốn xưa 
                  nay chỉ có linh cảm mơ hồ. Tác dụng của bài kệ của Thần Tú làm 
                  hiện rõ tất cả những gì mà Huệ Năng còn hoang mang chưa biết 
                  mình đã biết gì. Ðó là đòn tâm lý trí mạng quật chết chú Tiểu 
                  Huệ Năng để sống lại thành Thiền Tổ Huệ Năng. Công ơn của Thần 
                  Tú đối với Huệ Năng không phải là nhỏ. Thật vậy nếu không có 
                  Thần Tú chắc khó có hoặc không có Huệ Năng. Nếu không có bài 
                  kệ của Thần Tú: 
 
                  - 
                  
                  Thân là cội Bồ Ðề
 
                  - 
                  
                  Tâm như đài gương sáng
 
                  - 
                  
                  Luôn luôn phải lau chùi
 
                  - 
                  
                  Chớ để dính bụi bặm.
 
                  - 
                  
                  Thì không có bài kệ vô tướng của Huệ Năng:
 
                  - 
                  
                  Bồ Ðề vốn không cội
 
                  - 
                  
                              Gương sáng cũng chẳng đài
 
                  - 
                  
                  Xưa nay không một vật
 
                  - 
                  
                  Chỗ nào dính trần ai.
 
                  - 
                  
                  Chính nhờ bài kệ vô tướng nầy đã đem lại cho ngài Huệ Năng y 
                  bát, nhất là cái tâm ấn của Thiền Ðông Ðộ. Cho nên khai thị 
                  cho Huệ Năng, Ngũ Tổ đã có sẳn mảnh đất tâm cày bừa sẳn, và đã 
                  gieo giống Bồ Ðề rồi. Tổ chỉ cần mạnh tay vào then chốt đó , 
                  thế là Huệ Năng thình lình tỉnh ngộ. Có thể nói rằng: Suốt 
                  thời gian sáu tháng, ngoài việc làm công quả ra, còn thì Tổ 
                  chưa có lần dạy đạo cho Huệ Năng. Trong trường hợp nầy Tổ chỉ 
                  giữ một vai trò danh dự là ấn chứng để mà truyền y bát cho hợp 
                  thức hóa mà thôi, vì thế mà Ngũ Tổ mới lén lút kêu Huệ Năng 
                  đêm khuya vào gặp riêng Tổ để ngài truyền y bát và giảng cho 
                  một thời kinh Kim Cang lấy lệ sau đó Tổ đuổi khéo Huệ Năng trở 
                  về lại Lĩnh Nam Việt Nam
 
                  - 
                  
                  LỤC TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
 
                  - 
                  
                  Trước khi xát quyết ngài Huệ Năng là người Việt Nam chúng ta 
                  hãy thử tìm hiểu dòng dõi, quê quán..v..v..Theo tài liệu cho 
                  chúng ta biết:
 
                  - 
                  
                  Lục Tổ họ Lư, mẹ là Lý Thị, cha là Hành Thao. Ðời Võ Ðức 
                  (618-627T.L) nhà Ðường. Cha làm quan ở Phạm Dương, sau đó bị 
                  giáng chức và làm thường dân ở Tân Châu, Lĩnh Nam và sanh Tổ ở 
                  đây. Lúc Tổ mới ba tuổi cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi 
                  con. Vì gia cảnh mẹ góa con côi nên sau đó mới dời về ở Nam 
                  Hải. Tổ lớn lên trong một gia đình rất nghèo túng , do đó mà 
                  mỗi ngày Tổ phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.
                  
 
                  - 
                  
                  Một hôm, vào dịp gánh củi ra chợ bán , có người mua bảo gánh 
                  củi đến nhà. Tổ gánh ngang qua một căn nhà, bổng nghe người 
                  trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Tổ nghe và chợt tỉnh ngộ 
                  liền hỏi khách:
 
                  - 
                  - 
                  Kinh đang đọc đó là kinh gì, xuất phát từ đâu ông có biết 
                  không ?
 
                  - 
                  
                  Khách đáp:
 
                  - 
                  - 
                  Ðó là kinh Kim Cang, Xuất phát từ Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn ở Chùa 
                  Ðông Sơn, tại Huyện Huỳnh Mai. 
 
                  - 
                  
                  Nghe nói xong Tổ tỏ ý muốn tìm đến đó học đạo, nhưng vì gia 
                  cảnh còn mẹ già không ai nuôi dưỡng. Người khách quen nghe nói 
                  như thế, ông xin đài thọ số tiền để Tổ cung cấp nuôi dưỡng mẹ 
                  già. Gặp cơ hội tốt, Tổ về xin phép mẹ xuất gia, mẹ Tổ nghe 
                  nói rất lấy 
 
                  - 
                  
                  hoan hỷ bằng lòng cho xuất gia.
 
                  - 
                  
                  Tổ khăn gói lên đường, trãi qua hơn một tháng mới đến huyện 
                  Huỳnh Mai và đắt Pháp tại đây.
 
                  - 
                  
                  Như tất cả mọi người ai cũng nói và đã biết là tất cả các 
                  sách, kinh lưu truyền đều nói Lục Tổ là người Trung Hoa, Tuy 
                  nhiên theo sự nhận xét và phân tích mới đây cho thấy rằng Lục 
                  Tổ Huệ Năng không phải là người Trung Hoa mà là người Việt 
                  Nam. Sự phân tích đó dựa trên những lý do chính như sau:
 
                  - 
                  
                  1- Vào đời nhà Ðường đặt nền móng đô hộ, lúc bấy giờ Việt Nam, 
                  là An Nam Ðô Hộ Phủ.
 
                  - 
                  
                  2- Tất cả những địa danh như: Tân Châu, Lĩnh Nam, Quảng Ðông, 
                  Quảng Tây, và Nam Hải đều là những phần đất của Việt Nam.
 
                  - 
                  
                  3- Việc sử dụng ngôn ngữ của Lục Tổ.
 
                  - 
                  
                  Theo như ở trong kinh Pháp Bảo Ðàn chứng minh cho chúng ta 
                  thấy Lục Tổ Huệ Năng nói Trung Hoa không rành như trong kinh 
                  có đoạn: 
 
                  - 
                  
                  Vào lúc canh ba, Huệ Năng lãnh được y bát rồi thì mới hỏi: 
                  Năng này gốc gác người Lãnh Nam vốn không biết đi vùng núi 
                  nầy, làm thế nào mà ra vàm sông ?
 
                  - 
                  
                              Ngủ Tổ đáp:
 
                  - 
                    
                            - Con không cần lo, tự ta sẽ đưa con đi.     
                  
 
                  - 
                  
                              Tổ đưa Huệ Năng tới trạm cửu giang, rồi bảo Huệ 
                  Năng lên thuyền, ngài cầm chèo định chèo, nhưng Huệ Năng nói:
                  
 
                  - 
                  - 
                  Xin Hòa Thượng ngồi, hãy để đệ tử chèo mới phải. 
 
                  - 
                    
                         Ngủ Tổ nói: 
 
                  - 
                  - 
                  Ðáng lẽ ta độ cho ngươi
 
                  - 
                    
                         Huệ Năng trả lời:
 
                  - 
                    
                            - Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy. 
                  Chữ Ðộ tuy có một mà chỗ dùng không giống nhau. Huệ Năng này 
                  sinh ở chốn biên thuỳ xa xôi, thành ra tiếng nói không được 
                  đúng. Nhờ thầy truyền pháp rồi nay đã được đắt ngộ rồi thì chỉ 
                  tự mình độ lấy mình thôi.
 
                  - 
                  
                              Chúng ta nhận thấy, những lời ghi chép trên: Chữ 
                  Ðộ có nghĩa là đưa mà cũng có nghĩa là cứu độ. Khi Huệ Năng 
                  trả lời: Lúc mê thì Tổ Sư độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy. Huệ 
                  Năng này sanh ra tại nơi vùng biên giới, tiếng nói không rành 
                  và giọng nói không đúng, nhờ Tổ Sư truyền Pháp nay đã được 
                  sáng tỏ thì chỉ nên mình tự độ lấy mình. Ðoạn nầy mới nghe làm 
                  cho người ta có cảm tưởng giống như Ngài Huệ Năng chơi chữ với 
                  Ngũ Tổ, nhưng thật sự thì không phải như vậy. Chúng ta phải 
                  thấy, đây là giờ phút quan trọng, và ngôn ngữ được sử dụng 
                  trong lúc nầy là ngôn ngữ bí mật của hai Thiền Sư. Ngài Huệ 
                  Năng đã hiểu trọn vẹn thâm ý của Ngủ Tổ: Thầy muốn đưa con trở 
                  về Lĩnh Nam để cứu thoát con khỏi bị lâm nạn tại nơi nầy, vì 
                  con là người ngoại quốc, sống nơi biên địa xa xôi, đã vậy 
                  tiếng nói lại không rành. Nay lại lên ngôi vị Tổ Sư, nhưng 
                  thầy phải đưa con đi vì thầy muốn cứu thoát con, dù con ngôn 
                  ngữ nói không rành nhưng con cũng hiểu được ý của Thầy, nên 
                  khi Thầy muốn đưa con đi và đồng thời muốn cứu thoát con(độ 
                  con), con đã hiểu ý thầy rồi thì con phải tự cứu lấy mình mà 
                  trở về Lĩnh Nam. 
 
                  - 
                  
                              Tất cả những mật ý nói trên chỉ muốn nói lên một 
                  điều duy nhất là: Huệ Năng hiểu lý do tại sao Ngũ Tổ phải bảo 
                  Huệ Năng về lại Lĩnh Nam, vì rất nguy hiểm cho tính mệnh của 
                  người thanh niên trẻ tuổi, một con người được coi như là mọi 
                  rợ mà lại được trao truyền ngôi vị Tổ Sư thống lãnh tất cả môn 
                  đồ của Ðông Sơn Pháp Môn.
 
                  - 
                  
                              Ở điểm nầy chúng ta có thể hiểu chắc chắn rằng: 
                  Nếu vì một lý do nào đó mà không đến trường để học nên không 
                  thể đọc được chữ thì đó cũng là việc thường, nhưng là người 
                  Trung Hoa thì ít ra phải nói được tiếng Trung hoa, nhưng theo 
                  những dữ kiện trong Pháp Bảo Ðàn Kinh cho chúng ta thấy Lục Tổ 
                  Huệ Năng không nói không nói rành tiếng Trung Hoa, từ những dữ 
                  kiện nầy cho ta có kết luận rằng: Lục Tổ Huệ Năng quả thật 
                  không phải là người Trung Hoa. 
 
                  - 
                  
                  Sau mười sáu năm ở ẩn, khi xuất hiện thuyết pháp, Lục Tổ Huệ 
                  Năng hoằng pháp tại những nơi như: Quảng Ðông, Quảng Châu, và 
                  Nam Hải tức Phiên Ngung là kinh đô của nước Nam Việt dưới 
                  triều đại của Vũ Vương tức là Triệu Ðà. Như có lần chúng ta 
                  biết, Lục Tổ sinh trưởng tại Lĩnh Nam, mà Lĩnh Nam là phần đất 
                  của Việt Nam. Từ những chứng tích này chúng ta có thể kết luận 
                  rằng Lục Tổ Huệ Năng là người Việt Nam.        
 
                  - 
                  
                              Quả thật ngài Huệ Năng là người Việt Nam thì chúng 
                  ta hãy thâm tạ những người đã có công trong việc trợ duyên cho 
                  ngài Huệ Năng đắc đạo, để mở rộng dòng Thiền Ðông Ðộ. Những 
                  người đó là:
 
                  - 
                  
                  1- Người khách hàng mua củi đã phát tâm tài trợ khoảng tiền để 
                  chu cấp cho thân mẫu của Lục Tổ.
 
                  - 
                  
                  2- Giáo Thọ Thần Tú, vì nếu không có bài kệ của Thần Tú thì 
                  không có bài kệ vô tướng của Huệ Năng.
 
                  - 
                  
                  3- Ngũ Tổ đã can đảm truyền trao y bát cho một thanh niên 
                  ngoại quốc, với số tuổi còn quá trẻ đã vậy ngôn ngữ lại không 
                  biết gì hết làm người chân truyền cho Ðông Sơn Pháp Môn.
 
                  - 
                             
                  
 
                  - 
                  
                              
                  Tài Liệu Tham Khảo:
 
                  - 
                  
                  - 
                  Tổ Thiền Tôn
 
                  - 
                  
                  - 
                  Bồ Ðề Ðạt Ma
 
                  - 
                  
                  - 
                  Pháp Bảo Ðàn 
 
                  - 
                  
                  - 
                  Lĩnh Nam Chích Quái
 
                 
                
                 |