| 
                  
                     
                    
                    LÝ THƯỜNG KIỆT
                     
                    Nguyễn Mộng Khôi
                     
                    --o0o--
                   
                   
                  - 
                  Nực cười châu chấu đá xe
                  
                  Tưởng chừng chấu ngã, chẳng dè xe nghiêng
                  
                                                      Phong Dao 
                  
                   
                  Sau 
                  chín năm, kể từ khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Một 
                  vĩ nhân của nước Ðại Việt(tên nước Việt Nam bấy giờ) ra đời. 
                  Vĩ nhân đó là Ngô Tuấn. Sau này Ngô Tuấn được vua Lý Thái Tông 
                  tin dùng, nhà vua coi như người em và được mang họ vua, đổi 
                  tên khác là Lý Thường Kiệt.
                  Lý 
                  Thường Kiệt người làng Bác Biên, xã Phúc xá, huyện Gia Lâm. 
                  Sau Ông dời về phường Thái Hòa, bấy giờ là vườn Bách thảo, 
                  quận Ba Ðình, thành phố Hà Nội. Ông sinh năm Kỷ mùi(1019), mất 
                  năm Ất Dậu(1105), hưởng thọ 86 tuổi. 
                  
                              Thân phụ là một võ tướng bị mất khi đang thanh sát 
                  vùng biên giới Hoa Việt, năm ấy Lý Thường Kiệt 13 tuổi, nhưng 
                  được mẹ và người chú hết sức dạy dỗ từ văn chương tới võ nghệ. 
                  Năm 23 tuổi ông được tuyển vào cung làm hoạn quan(eunuch) với 
                  chức Hoàng môn chi hậu; rồi thăng dần đến chức Thái Úy(chức 
                  Thống chế ngày xưa hay Tổng tư lệnh ngày nay) 
                  
                  Suốt 
                  63 năm tận trung báo quốc, ông đã làm được cho dân, cho nước 
                  nhữmg công trình tuyệt vời từ chính trị, văn học, quân sự và 
                  Phật sự...
                  
                  Trong chính trường, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, có 
                  những phương sách đối ngoại, đối nội rất giỏi, là chỗ dựa tin 
                  cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dười thời Hoàng Ðế Lý 
                  Nhân Tông (1072-1127).
                  
                  Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, là tác 
                  giả của Nam Quốc Sơn Hà, áng hùng thư có giá trị thiêng liêng 
                  như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất từ thời tự chủ.
                  
                  Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại tướng, là linh hồn 
                  của những chiến công bình Chiêm, phạt Tống, những chiến công 
                  lớn nhất lịch sử nước nhà trong thế kỷ thứ XI.
                  Danh 
                  sĩ Ðặng Minh Khiêm, đời Hồng Ðức làm một bài thơ vịnh Lý 
                  Thường Kiệt ghi trong Thoát Hiên Vịnh Sử Thi như sau:
                  - Ðệ 
                  huynh chỉ xích thị minh quang,
                  Tài 
                  lược kiêm ưu hữu mão dương.
                  Bắc 
                  phạt, Nam chinh, huân nghiệp trước, 
                  Thù 
                  phi môn ngoại tiểu điêu đương.
                  Giáo 
                  sư Trần Xuân Hãn Dịch:
                  - 
                  Anh em chầu chực chốn đền đài, 
                  Tài 
                  lược gồm hai lại đẹp trai 
                  Ðánh 
                  Bắc, bình Nam huân nghiệp rạng, 
                  Hoạn 
                  thần nhưng khác lũ hầu sai.
                  Và; 
                  trong đạo Phật, ông là một Phật tử có nhiều công đức. Ông xây 
                  chùa Thiên Xứng ở Thanh Hóa. Thiền Sư Pháp bảo, người sống 
                  cùng thời đã ca ngợi: 
                  - 
                  Tông giáo qui sùng
                  Cảnh 
                  phúc thị thực.
                  
                  (Thuận theo và tôn sùng Phật Giáo 
                  Giữ 
                  gìn phúc đức quả là đây)
                  
                  Trong lịch triều hiến chương loại chí, học giả Phan Huy Chú(là 
                  con của Phan Huy Ích, sinh năm 1782-1840. Hai lần đi sứ sang 
                  Tàu đời vua Minh Mạng) đã viết về Lý Thường Kiệt như sau:
                  - 
                  Ông là người giàu mưu lược và có biệt tài làm tướng, từng làm 
                  quan trải thờ đến ba đời Hoàng Ðế( gồm Lý Thái Tông 1028-1054, 
                  Lý Thánh Tông 1054-1072 và Lý Nhân Tông 1072-1127, phá Tống, 
                  bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật 
                  xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy.
                  Lý 
                  Thường Kiệt biết rằng, Nhà Tống đang dòm ngó Ðại Việt, chỉ chờ 
                  cơ hội thuận tiện là đem quân sang đánh để sát nhập nước ta 
                  làm châu quận của nước Tàu(Ðại Việt vẫn chưa quên một ngàn năm 
                  bị Tàu đô hộ trước đó); vì vậy Lý Thường Kiệt muốn đánh Tống 
                  bất ngờ để được lợi thế(Tiên hạ thủ vi cường).
                  
                  Nhưng trước khi đánh Tống(1075) Lý Thường Kiệt phải tấn công 
                  Chiêm Thành. Việc chinh phạt nước Chiêm lần này có ba mục 
                  đích:
                  1- 
                  Không còn bận tâm ở phía Nam để dốc toàn lực phá Tống ở phía 
                  Bắc.
                  2- 
                  Giải quyết vấn đề nhân mãn do mật độ ở Trung châu bắt đầu lên 
                  cao.
                  3- 
                  Tái chiếm ba châu( Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chính, là tỉnh Quảng 
                  Bình, Quảng Trị ngày nay) để đặt ảnh hưởng chính trị của Ðại 
                  Việt, thực hiện chủ quyền của dân tộc ta trên các địa hạt mà 
                  nước Chiêm đã nhượng cho Ðại Việt từ năm Kỷ Dậu(1069) dưới 
                  thời Lý Thánh Tông, nhưng người Chiêm vẫn còn quấy nhiễu để 
                  đòi lại ba châu này.
                  Nhà 
                  Tống đến đời Tống Thần Tông(1068-1078), có Vương An Thạch làm 
                  Tể tướng. Vương là một chánh trị gia có tài, có đầu óc cách 
                  mạng tân tiến. Vương đặt ra nhiều phép cải cách như: hưng nông 
                  điền, thuỷ lợi, quân thâu, bảo giáp, miễn dịch, bảo mã phương 
                  điền... Nếu những kế hoạch này thành công thì nước Tàu sẽ rất 
                  hùng mạnh và là mối lo cho Ðại Việt. Nhưng những cả cách táo 
                  bạo đó đã đụng chạm đến lớp chủ điền, lớp quan lại cùng phe 
                  bảo thủ và họ đang ngấm ngầm bất mãn, bất cộng tác, có cơ nguy 
                  làm lung lay chế độ. Biết như vậy Vương An Thạch muốn toàn dân 
                  nhất trí, toàn dân đoàn kết, hướng dẫn dư luận vào một mục 
                  tiêu đánh Ðại Việt. Vương sai Tri Châu Tiêu Chú ở Phiên 
                  Ngu(Ung Châu) thi hành kế hoạch. Tiêu Chú đến Quế Châu giao 
                  dịch với các Tù trưởng, từ Ðạo Ðạc Ma đến Châu Ðiền Ðống để 
                  nghiên cứu tình hình Ðại Việt. Nhưng lúc này Ðại Việt đã chiến 
                  thắng Chiêm Thành, bờ cõi mở rộng về phương Nam, dân sinh quốc 
                  kế rất thịnh đạt nên Tiêu Chú lo sợ chưa dám phát binh. Vương 
                  An Thạch bèn cử Thẩm Khởi thay thế Tiêu Chú.
                  Thẩm 
                  Khởi thu xếp mọi việc theo ý Vương An Thạch, chuẩn bị quân 
                  lính, vũ khí và tiếp liệu để Nam chinh. Nhưng sau không biết 
                  vì lẽ gì mà Thẩm Khởi thất sủng. Tống triều cử Lưu Gi thay 
                  thế.
                  Lưu 
                  Gi cho người đi thanh tra các khe ngòi, các đồn lũy, sửa soạn 
                  binh khí, làm thuyền bè và cấm không cho người ở châu quận gần 
                  đấy đi lại buôn bán với người Ðại Việt.
                  Bên 
                  Lý triều thấy thái độ bất thân thiện của Lưu Gi, bèn viết thư 
                  sang hỏi Tống triều, thì được biết Lưu Gi giữ thư lại không đệ 
                  về kinh. Nhân cớ đó Lý triều sai Lý Thường Kiệt làm Tổng Tư 
                  Lệnh và Tôn Ðản làm phụ tá, đem 10 vạn quân, chia làm 2 đạo, 
                  thủy bộ cùng tiến đánh Trung Quốc, lấy cớ rằng nhà Tống do 
                  Thừa tướng Vương An Thạch đặt ra phép cải cách mới làm khổ 
                  trăm họ. Vậy quân Ðại Việt sang đánh để cứu vớt nhân dân Trung 
                  Quốc...
                  Một 
                  danh tướng Nhật Bản, dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi 
                  nghiên cứu về chiến lược đánh Tống đã khen ngợi là: 
                  
                  - Sự 
                  tấn công bất ngờ của Lý Thường Kiệt đã tạo thành lịch sử chiến 
                  tranh(Ly Thuong Kiet’s surprise attack made war history ).
                  
                  Ông 
                  viết tiếp:
                  - 
                  Trước nguy cơ ngoại bang xâm lấn không thể tránh được, Lý 
                  Thường Kiệt tấn công địch trước. Ðây là một chiến lược căn bản 
                  nhằm phá vỡ ý chí xâm lược của địch quân. (When the danger of 
                  foreign invasion could not be voided. Ly Thuong Kiet advocated 
                  attacking the enemy first. This was an original strategy aimed 
                  at thwarting the enemy’s aaggressive will)
                  Năm 
                  Ất Mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu và Liêm 
                  Châu(thuộc tỉnh Quảng đông) giết hại hơn 8000 người. Ðạo quân 
                  của Tôn Ðản sang đánh Ung châu (tức là thành Nam Ninh, Quảng 
                  Tây). Quan Ðô Giám là Trương Thủ Tiết đem binh lại cứu, bị Lý 
                  Thường Kiệt đón đánh ở Côn Lôn quan(gần Nam Ninh), chém tướng 
                  Trương Thủ Tiết ở trận tiền.
                  Tôn 
                  Ðản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Ðam 
                  quyết chí tử thủ. Ðến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô 
                  Ðam bắt gia đình tất cả 36 người chết trước, rồi tự đốt theo, 
                  người trong thành theo gương quan tri châu, không ai chịu hàng 
                  cả. Quân Tôn Ðản vào thành giết hại gần 58,000 người.
                  Tổng 
                  số thiệt hại nhân mạng về phía Trung Hoa lên tới 10 vạn, quân 
                  Việt đại thắng, rồi rút về nước, mang theo một số tù binh và 
                  của cải.
                  Vua 
                  Tống được tin nầy thì vô cùng tức giận, bèn sai Quách Quì là 
                  Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, cùng với 9 danh tướng khởi 
                  binh 10 vạn. Quân Tống cũng hội với quân Chiêm Thành và Chân 
                  Lạp để cùng tấn công Ðại Việt.
                  
                  Tháng chạp năm Bính Thìn(1076), quân Tống vào địa hạt nước ta. 
                  Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Lý, Tống đã xảy ra ở sông Như Nguyệt 
                  (làng Như Nguyệt, Bắc ninh, tức là sông Cầu, ngoại ô thành phố 
                  Hà Nội bây giờ). Quân Tống bị thua, chết hơn 1000 người. Quách 
                  Quì tiến quân về phía Tây đến đóng ở bờ sông Phú Lương(một 
                  khúc ở phía Tây sông Như Nguyệt).
                  Lý 
                  Thường Kiệt đem binh thuyền lên đón đánh không cho quân Tống 
                  sang sông. Quân Tống bèn chặt gỗ làm máy bắn đá. Những viên đá 
                  lớn như trái bưởi bay sang như mưa, khiến thuyền của quân Lý 
                  thủng nát nhiều, quân sĩ chết mấy ngàn người.
                  Sau 
                  trận này, khí thế quân Tống lên cao, trong khi tinh thần quân 
                  ta bắt đầu xút giảm. Lý Thường Kiệt bèn vận dụng đòn tâm lý, 
                  nửa đêm cho người tâm phúc vào đền Trương Hát, Trương Hống(đền 
                  này ở phía Nam sông Như Nguyệt nay là huyện Yên Phong, tỉnh 
                  Bắc Ninh), giả làm Thần Linh thét lên:
                  - 
                  Nam quốc sơn hà Nam Ðế cư,
                  Tiệt 
                  nhiên định phận tại thiên thư 
                  Như 
                  hà nghịch lỗ tai xâm phạm, 
                  Nhữ 
                  đẳng hành khan thủ bại hư.
                  Học 
                  giả Nguyễn Ðồng Chi dịch:            
                  - 
                  Nước Nam Việt có vua Nam Việt, 
                  Trên 
                  sách trời chia biệt rành rành.
                  Cớ 
                  sao giặc dám hoành hành?
                  Rồi 
                  đây bây sẽ tan tành cho coi.
                  Ông 
                  Ðặng Bá cảnh dịch:
                  - 
                  Vua Nam ngự trị đất phương Nam, 
                  Trời 
                  đã phân chia rõ địa bàn. 
                  Nếu 
                  kẻ âm mưu mong lấn chiếm, 
                  Cuối 
                  cùng rồi tướng bại quân tan.
                  Bài 
                  hùng thi này truyền rất nhanh. Dân chúng và quân lính đều tin 
                  tưởng là sẽ được Thần linh phù hộ, vì đền Trương Hát, Trương 
                  Hống nổi tiếng linh thiêng từ xưa. Trương Hát và em là Trương 
                  Hống vốn là danh tướng của Việt vương Triệu Quang 
                  Phục(549-571). Triệu Quang Phục có công đánh đuổi nhà Lương 
                  xâm chiếm nước ta. Sau hơn 20 năm trị vì, Triệu Quang Phục lại 
                  bị Lý Phật Tử đánh bại, phải nhảy xuống sông tự vận và anh em 
                  Trương Hát, Trương Hống cũng bị Phật Tử sát hại. 
                  
                  Hơn 
                  bốn thế kỷ sau, đời Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn(950-965), đi 
                  đánh giặc ở Tây Long. Tương truyền anh em Trương Hát Trương 
                  Hống hiển thánh, giúp vua Ngô phá được giặc. Nam Tấn Vương 
                  truy phong cho hai anh em là Ðại Vương Giang Ðô Hộ Quốc Thần 
                  Vương và Tiểu Vương Giang Ðô Hộ Quốc Thần Vương. Từ đó ngôi 
                  đền này được dân địa phương sùng kính.
                  Bốn 
                  câu thơ này làm phấn khởi tinh thần quân Ðại Việt, phần vì 
                  quân Lý tin có Thần linh giúp, phần Lý Thường Kiệt đã dựa vào 
                  thuyết Thiên mệnh của chính phái Tống Nho do Chu Hy của nhà 
                  Tống chủ xướng. Thuyết này đang được quảng bá ở Trung Hoa và ở 
                  Ðại Việt bấy giờ. Với thuyết Thiên mệnh thì mọi sự, mọi việc 
                  đều do Trời sắp xếp, đều do số mệnh đã định sẵn. Cá nhân hay 
                  tập thể được sinh ra chỉ để thi hành. Ở Trung quốc, thuyết này 
                  được nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh chọn làm ý thức hệ. Ở Việt 
                  Nam, các nhà vua cùng thời cũng dựa vào học thuyết đó trong 
                  việc trị quốc. Những nhà Nho uyên bác như Nguyễn Du, Nguyễn 
                  Gia Thiều... đều tin tưởng ở mệnh Trời:
                  - 
                  Ngẫm hay muôn sự tại Trời( Kiều- Nguyễn Du)
                  - 
                  Quyền tạo hoá, Trời tranh tất cả( Cung Oán-Nguyễn Gia Thiều)
                  Vì 
                  vậy, quân Tống xâm lăng Ðại Việt thì chắc sẽ bị đánh bại là 
                  bởi Thiên Thư là sách của Trời, là ý của Trời đã xác định biên 
                  giới rành rành, nên ý của con người không thể thay đổi được 
                  Thiên mệnh.
                  Nhờ 
                  Lý Thường Kiệt đưa thuyết Thiên mệnh đúng hoàn cảnh và đúng 
                  lúc nên bài hùng thi này có hai tác dụng tương phản là giảm ý 
                  chí xâm lăng của địch(địch vận) và tăng tinh thần quyết chiến 
                  của ta(tuyên vận). Ðó là một trong những lý do chính yếu mà 
                  đoàn quân của Quách Quì bị khựng lại ở bờ sông Phú Lương.
                  Ở 
                  mặt trận phía Nam, quân Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị đánh 
                  tan một cách dễ dàng, vì chủ lực của quân Chiêm đã bị phá tan 
                  trước khi phạt Tống. Hai toán quân đó phải rút lui không giúp 
                  được quân Tống.
                  Thế 
                  của quân Ðại Việt và quân Tống không phân thắng bại. Lý triều 
                  e đánh lâu không lợi. Nếu kéo dài cuộc chiến chỉ thêm hao tổn 
                  nhân lực và tài lực quốc gia mà cuộc hành quân lúc này của nhà 
                  Tống chỉ do vấn đề thể diện.
                  Lý 
                  triều liền cử sứ bộ sang điều đình, hoãn chiến. Thật đúng điều 
                  mong ước của nhà Tống. Nay gặp cơ hội thuận tiện, bởi quân 
                  Tống lúc này cũng bị tổn thất quá nửa vì chiến tranh và không 
                  hợp thủy thổ nên mang bệnh mà chết. Tống Thần Tông liền chấp 
                  thuận ngay lời thương nghị của Nhà Lý rồi cho rút binh, nhưng 
                  khi rút về họ chiếm giữ mấy châu phía Bắc Ðại Việt là:
                  - 
                  Châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng ngày nay)
                  - 
                  Châu Tư Lang( tức Hạ Lang, Thượng Lang, tỉnh Cao Bằng).
                  - 
                  Châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn)
                  Năm 
                  Mậu Ngọ (1078), vua Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với Tống 
                  triều. Sứ thần Ðại Việt là Ðào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã 
                  thuần thục sang cống vua nhà Tống và đòi lại ba châu huyện 
                  trên.
                  Tống 
                  triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho 
                  Tống những dân, quân các châu Khâm, Liêm, Ung do Lý quân bắt 
                  ba năm trước, tất cả có 221 người. Trước khi cho về nước, Lý 
                  triều cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ 
                  Thiên Tử Binh. Ðàn ông trên 20 tuổi chữ Ðại Nam Triều, và vào 
                  cánh tay trái của đàn bà, con gái hai chữ Quan Khách.
                  Hành 
                  động sâm chữ vào trán, vào cánh tay tù nhân rồi cho về nước là 
                  điều Lý triều muốn làm nhục nhà Tống.
                  
                  Trong lịch sử ngoại giao Hoa Việt, từ thời kỳ tự chủ đến ngày 
                  nay, chưa có triều đại nào giám coi thường người Trung Hoa như 
                  Triều Lý. Xưa kia, năm 970 Ðinh Tiên Hoàng sai con là Ðinh 
                  Liễn mang phẩm vật sang cống nhà Tống. Năm 981 vua Lê Ðại 
                  Hành, sau khi đánh tan quân Tống ở Chi Lăng, nhà vua trao trả 
                  hai viên tướng và một số tù binh rồi xin theo lệ triều cống. 
                  Thời nhà Trần, sau ba lần đại phá quân Nguyên, vua Trần Nhân 
                  Tông(1288) sai Ðỗ Thiện Thứ sang nhà Nguyên giảng hòa và theo 
                  lệ triều cống như xưa. Năm sau Nhân Tông sai quân đưa bọn 
                  tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Vua Lê Thái 
                  Tổ, vua Quang Trung, sau những lần chiến thắng vẻ vang cũng 
                  trao trả tù binh về nước mà chưa bao giờ xỉ nhục, thích chữ 
                  lên trán quân Tàu.
                  Nhà 
                  Tống nhận được bọn tù nhân và 5 con voi rồi rút quân khỏi 3 
                  châu phía Bắc chỉ giữ lại mấy huyện ở biên giới. Ðất Quảng 
                  Nguyên có mỏ vàng cũng phải bỏ lại. Dân Tàu tiếc của, hát mỉa 
                  mai vua Tống:
                  - 
                  Nhân tham Giao chỉ tượng
                  
                  Khước thất Quảng Kim Nguyên.
                  Ông 
                  Ðặng Bá Cảnh dịch:
                  - 
                  Tham chi Giao Chỉ năm voi,
                  
                  Quảng Nguyên sao để mất toi kho vàng.
                  Mùa 
                  hạ năm Giáp Tý (1084), Lý triều lại phái Binh Bộ Thị Lang Lê 
                  Văn Thịnh(vị thủ khoa đầu tiên của nước ta) sang yêu cầu Tống 
                  triều phân chia lại danh giới và trả nốt mấy huyện mà nhà Tống 
                  còn giữ lại. Lý triều đã áp dụng chính sách đòi dần để tình 
                  thế hai nước vừa sung đột bớt găng. Nếu yêu sách quá nhiều 
                  trong một buổi có thể nhà Tống sẽ không chịu vì như thế sẽ làm 
                  mất thể diện. Lý triều tiến dần, quả nhiên việc thương thuyết 
                  đem lại được như ý muốn. Chúng ta khâm phục việc ngoại giao 
                  của nhà Lý bấy giờ, lúc cương, lúc nhu, Nhưng bao giờ cũng giữ 
                  được cái thế kiêu hùng của kẻ chiến thắng.
                  Ðời 
                  vua Lý Nhân Tông tức Thái Tử Càn Ðức lên ngôi mới 7 tuổi. Quan 
                  Thái Sư là Lý Ðạo Thành làm phụ chính, nhưng bên trong mẹ là 
                  Lan Thái Phi buông mành nghe việc triều chính.
                  Ý 
                  Lan Thái Phi là một nhân vật đặc biệt của thời đại, bên cạnh 
                  Lý Thường Kiệt và Lý Ðại Thành, hai vị văn võ có uy tín và 
                  thao lược nhất bấy giờ. Nhưng Lý Ðạo Thành không chủ trương 
                  xâm lăng nước ngoài, chỉ có Thái Phi và Lý Thường Kiệt có một 
                  tầm nhìn xa cho tương lai của đất nước, nên cương quyết thi 
                  hành chiến lược Bình Chiêm, Phạt Tống. Có thể nói nếu không có 
                  Lan Thái Phi thì chưa chắc Lý Thường Kiệt đã tạo được những 
                  chiến công oanh liệt cho tổ quốc. Vậy, thân thế của Lan Thái 
                  Phi thế nào?
                  Bấy 
                  giờ, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai, lấy làm 
                  lo lắng nên hay đi cầu tự ở các đền chùa. Một hôm ngài ngự giá 
                  về chùa làng Thổ Lỗi cho phép dân chúng tự do chiêm bái long 
                  nhan. Dân chúng già trẻ, trai gái đi xem nhà vua đông như chảy 
                  hội. Trong khi đạo ngự đi qua, một cô gái hái dâu, đang ngồi 
                  tựa gốc cây lan như không chú ý tới nhà vua. Nhà vua ngạc 
                  nhiên, liền đòi đến hầu thì thấy cô gái đó tuy quê mùa, nhưng 
                  có nhan sắc đoan trang, cử chỉ đường hoàng, nói năng thanh 
                  nhã, ngài liền vời về cung. Thiếu nữ ấy tên là Yến, tục danh 
                  là cô Cám, thôn nữ làng Thô Lỗi (là phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc 
                  Ninh bấy giờ), về kinh nhà vua sai Sùng Tín Ðại Trưởng lão dạy 
                  Yến cô nương học tập. Nhờ sự thông minh, chẳng bao lâu Yến cô 
                  nương làu thông kinh sử và được phong là Lan phu nhân(lấy tên 
                  cung Lan, nơi phu nhân luyện tập văn bài và có ý gợi lại kỷ 
                  niệm xưa khi nhà vua gặp Yến cô nương lần đầu, khi nàng đang 
                  ngồi tựa gốc lan).
                  Rồi 
                  phu nhân sinh ra Hoàng tử, đặt tên là Càn Ðức từ đó được phong 
                  làm Thái Phi.
                  Về 
                  chính trị, Lan Thái Phi làm giám quốc rất đắc lực trong việc 
                  trị dân. Năm 1069 Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt đem quân đi 
                  đánh Chiêm Thành. Trận ấy Ðại Việt thua, phải rút quân về 
                  nước. Khi đoàn quân chiến bại trở về tới châu Cư Liên thấy dân 
                  chúng đều ca tụng bà Thái phi trị nước rất giỏi, dân no nước 
                  mạnh và giữ kỷ cương như thời cực thịnh của vua cha. Thánh 
                  Tông bảo với các tướng sĩ tùy tùng rằng:
                  - 
                  Người đàn bà trị nước còn được như thế mà mình đi đánh Chiêm 
                  Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!. 
                  
                  Ngài 
                  cùng Lý Thường Kiệt đem quân trở lại đánh, bắt được vua Chiêm 
                  là Chế Củ. Chế Củ phải xin dâng ba châu Ðịa Lý. Ma Linh và Bố 
                  Chánh để chuộc tội.
                  Khi 
                  về già, bà Thái Phi gây được nhiều công đức như xuất tiền kho 
                  để chuộc con gái nhà nghèo bị cầm bán, rồi gả chồng vào những 
                  nơi tử tế. Chẩn cấp cho dân chúng khi bị thiên tai. Cho người 
                  xây được 70 ngôi chùa ở Kinh Bắc (Bắc Ninh).
                  Cũng 
                  như Thái Phi Lan, suốt quãng đời còn lại, Lý Thường Kiệt, 
                  chuyên tâm về đạo Phật.
                  Năm 
                  Ðinh Tỵ 1077, ông được bổ làm Tổng trấn Thanh Hoa (thời Thiệu 
                  Trị đổi tên là Thanh Hóa vì kỵ tên húy Hoàng Thái Hậu). Một 
                  hôm có Sùng Tín Ðại Trưởng Lão từ Thăng Long vào chơi, Lý 
                  Thường Kiệt nhờ ngài tìm đất để dựng chùa, trưởng lão chọn 
                  được khí đất tốt nằm phía Nam núi Ngưỡng Sơn, nay thuộc xã Hà 
                  Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ðích thân Lý Thường Kiệt 
                  trông coi việc xây cất. Sau bốn năm(1085-1089) thì hoàn thành, 
                  Lý Thường Kiệt đặt tên là chùa Linh Xứng. Tới đầu thế kỷ XX, 
                  chùa bị xụp đổ hoàn toàn. Chỉ còn tấm bia bằng đá, khắc bài 
                  Ngưỡng Sơn Linh Xứng Tự Bi Minh(bài minh khắc trên bia để tại 
                  chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn), do ngài Giác Tính Hải Chiếu Ðại 
                  Sư(người sống cùng thòi với Lý Thường Kiệt) soạn bài văn bia 
                  sau khi Lý Thường Kiệt mất. Bài văn bia mô tả việc xây cất 
                  chùa:
                  Ðoạn 
                  một, Thế là cùng nhau phát hết những bụi cỏ rậm, bạt hết những 
                  tảng đá to; Thầy phong thủy thì xét hướng, thợ lành nghề thì 
                  vẽ kiểu, quan thì góp tiền, sĩ dân khắp nơi cùng nhau kéo tới; 
                  Bấy giờ, ai kém sức thì bào hoặc gọt, ai giỏi nghề thì hoặc 
                  dựng hoặc xây. Chùa Phật rộng thênh thang nằm ở giữa, còn 
                  phòng chay rộng rãi thì ở hai bên. Phía sau chùa có tháp Chiêu 
                  An cao chót vót những chín tầng. Chùa mở cửa bốn bên và cửa 
                  nào cũng có song tiện, phía trong lại có rèm the. Tiếng gió 
                  rung chuông bạc, quyện với tiếng chim rừng. Nắng soi tháp báu, 
                  sắc vàng điệp lung linh. Quanh lan can trồng đầy hoa cỏ và 
                  đúng là cảnh thức tỉnh hồn mê, xua tan mọi nỗi niền tục lụy.
                  Ðoạn 
                  thứ hai của văn bia là kể những công lao và chức tước của Lý 
                  Thường Kiệt như việc đánh Chiêm phạt Tống cùng hết lòng phò tá 
                  ba đời Hoàng đế và so sánh ông với Y Doãn, Hoắc Quang là những 
                  đại công thần của nhà Thương, nhà Hán bên Tàu. 
                  
                  Ðoạn 
                  thứ ba:
                  - 
                  Thái Úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng về Tam 
                  Thừa... Thái úy không ngừng nâng đỡ Phật giáo, nhân lúc rảnh 
                  việc triều đình.
                  Sự 
                  nghiệp phi thường và công đức của Lý Thường Kiệt được tóm tắt 
                  trong phần cuối của bia văn mà Ðại sư Giác Tính Hải Chiếu 
                  viết:
                  - 
                  Việt hữu Lý công,                  
                  Cổ 
                  nhân chuẩn thức               
                  Theo 
                  đúng thể thức người xưa.
                  Mục 
                  quận ký ninh,                 
                  
                  Chưởng sư tất khác.               
                  Xuất 
                  quân thì tất thắng.
                  Danh 
                  dương hàm hạ              
                  
                  Thanh chấn hà vực.                
                  Tông 
                  giáo qui sùng,                 
                  Cảnh 
                  phúc thị thực                  
                  Dịch 
                  Nghĩa:
                  - 
                  Nước Việt có tướng công họ Lý,
                  Theo 
                  đúng thể thức người xưa.
                  Trị 
                  dân thì dân được yên,
                  Xuất 
                  quân thì tất thắng.
                  Tên 
                  tuổi vang lừng khắp cõi, 
                  
                  Tiếng thơm nức bốn phương.
                  
                  Thuận theo và tôn sùng Phật giáo, 
                  Giữ 
                  gìn phúc đức quả là đây.
                   
                  
                  Sách Tham Khảo
                  
                  - Việt Nam Sử Lược
                  
                  - Việt Sử Toàn Thư 
                  
                  
                  - Lý Thường Kiệt
                  
                  - Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam
                  
                  - Danh Nhân Tự Ðiển
                  
                  - Lý Thường Kiệt’s Surprise 
                  Attack  |