- 
                    Lời Tiên Đoán Của A Tư Đà
 
                    
                  
                  
                     
                    - 
                    Nhất Quán
 
                    
                  
                  
                     
                    - --o0o--
 
                    
                  
                  - 
                  
                  Sự xuất hiện đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thế giới loài 
                  người là một nhân duyên lớn và cũng là một vinh hiển cho con 
                  người và cuộc đời. Đồng thời một điềm lành cho hết thảy chúng 
                  sanh trong Tam Thiên đại Thiên Thế Giới. Ngài là kết tinh của 
                  muôn ngàn hương hoa từ bi và trí tuệ, là hiện thân của chân 
                  lý. Nếu cuộc đời không đau khổ tối tăm, thì đức Phật đã không 
                  xuất hiện ở cõi đời nầy. Ngài ra đời vì mục đích trọng đại là 
                  Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến, cho nên dù chúng 
                  ta có Phật Tử hay không, thiết tưởng cũng nên cần biết sơ lượt 
                  về lịch sử những diễn tiến lớn của cuộc đời Ngài.
 
                  - 
                  
                              A- Lời Tiên Đóan Của Ma Ha Na Ma & A Tư Đà
 
                  - 
                  
                  Theo lịch sử cho biết Ðức Phật giáng sinh vào ngày 15 tháng 4 
                  năm 624 BC tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ khoảng 
                  15 cây số, nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, phía 
                  Tây Nam xứ Népal và phía Ðông Rapti. Song thân Ngài là Quốc 
                  vương Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da. Thuộc dòng dõi Thích Ca, 
                  Vua Tịnh Phạn trị vì một vương quốc nằm ở ven sườn dãy núi Hy 
                  Mã Lạp Sơn, nằm phía Ðông Bắc Ấn Ðộ, thủ phủ là Ca Tỳ La Vệ, 
                  nay là Népal. 
 
                  - 
                  
                  Trước khi hạ sanh Thái Tử, một hôm trong thành Ca Tỳ La Vệ có 
                  lễ hội Tinh Tú, vua tôi cùng nhau cúng bái. Hoàng Hậu Ma Da 
                  sau khi dâng hương hoa trong nội điện và ra khỏi ngọ môn bố 
                  thí thức ăn, đồ mặc cho dân chúng, bà trở về cung an giấc, 
                  mộng thấy một tượng vương trắng sáu ngà từ trên hư không 
                  xuống, lấy ngà khai hông bên phải mà chui vào. Các vị tiên tri 
                  đều cho rằng Hoàng Hậu sẽ hạ sanh một quý tử tài đức song 
                  toàn. Nghe điều này, Vua Tịnh Phạn rất vui mừng, vì từ nay 
                  ngôi báu đã có người truyền nối.
 
                  - 
                  
                  Ðến thời khai hoa nở nhụy, theo tục lệ xứ Ca Tỳ La Vệ thời bấy 
                  giờ, Hoàng Hậu phải trở về quê cha là trưởng giả Anjana ở nước 
                  Câu Ly để an dưỡng, chờ ngày lâm bồn. Trên quãng đường đi, 
                  Hoàng Hậu Ma Da vào vườn Lâm Tỳ Ni thưởng ngoạn mùa hoa đang 
                  đua nở. Bên tàng cây vô ưu che rợp mát, sắc màu tươi sáng, 
                  hương thoảng nhẹ bay, Hoàng Hậu đã hạ sanh Thái tử. Tin lành 
                  Thái tử chào đời nhanh chóng được loan truyền trong dân chúng. 
                  Tất cả thần dân trong vương quốc đều vui mừng không xiết kể.
                  
 
                  - 
                  
                  Ngày Ðản sanh Thái tử, khắp thành Ca Tỳ La Vệ cảnh vật đều vui 
                  vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, sông ngòi 
                  mương giếng trong đầy, chim chóc reo vang, hào quang tỏa khắp. 
                  Ðó là ngày hội của toàn vương quốc. Dân chúng khắp nơi tổ chức 
                  ăn mừng và kéo về kinh đô Ca Tỳ La Vệ để vui mừng với hoàng 
                  gia. Lẫn trong đám đông, có nhiều đạo sĩ tu hành trên núi cao, 
                  cũng đi về dự lễ và xem tướng cho Thái Tử. Một trong các đạo 
                  sĩ có đạo sĩ tên A Tư Ðà, là người ẩn tu trên núi Hy Mã Lạp 
                  Sơn, được mọi người kính nể nhất, đã vì những thụy tướng đời 
                  trước và các pháp chưa từng có của Thái Tử nên vị tiên nầy đã 
                  chào Thái Tử với thái độ rất mực cung kính. Sau đó vị tiên nầy 
                  cười và rồi lại khóc. Ðược hỏi lý do ông cười rồi lại khóc, 
                  thì đạo sĩ trả lời: 
 
                  - 
                  
                  - Ông cười là mừng vì Thái Tử có 32 tướng tốt, những hiện 
                  tượng hy hữu, và các pháp chưa từng thấy, nhất định tương lai 
                  sẽ tu chứng Phật quả, và với lòng từ thương xót chúng sanh mà 
                  truyền bá chánh pháp trên thế gian này. Ông khóc là vì ông 
                  không có được phước báo để thừa nghe giáo pháp đạo giải thóat 
                  sau nầy. 
 
                  - 
                  
                  Bên cạnh lời tiên đóan của nhà tiên tri A Tư Đà, chúng ta còn 
                  thấy lời tiên đoán của 
                  
                  Ma Ha Na Ma là vị Quốc Sư Bà La Môn nói với Vua Tịnh Phạn và 
                  Ma Gia Phu Nhân:
 
                  - 
                  
                              - Căn cứ theo tiên thánh, thì các luận tướng 
                  truyền lại cho biết,  Thái Tử nếu không xuất gia tu học, ở lại 
                  nước trị vì thì sẽ là Vua  Chuyển Luân Thánh Vương. Vị Chuyển 
                  Luân Thánh Vương nầy sẽ có tự tại công đức đầy đủ. Nếu gặp 
                  thời nắng hạn tùy niệm thì mưa, nếu ở trong quốc nội có những 
                  kẻ giận tức, chúng sanh ác dối hung hiểm, lòng đầy sân hận, do 
                  đức oai của Chuyển Luân Thánh Vương nên trong nước nhân dân 
                  cùng nhau hoan hỷ. Chuyển Luân Thánh Vương thọ mạng lâu dài, 
                  không có hoạnh tử, ít bệnh, ít não thân thể đoan nghiêm, thế 
                  gian không ai sánh bằng, tất cả nhân dân đều yêu kính vua như 
                  con một, và Vua Chuyển Luân Thánh Vương yêu mến nhân dân như 
                  con đỏ. Một việc hiếm có khác là Vua Chuyển Luân Thánh Vương ở 
                  nhân gian oai đức của Chuyển Luân Thánh Vương như thế là đại 
                  thủ quả báo thắng nghiệp, tâm tôi sinh lạ là vì từ đời xưa, 
                  tất cả chuyển Luân Thánh Vương không có những tướng kỳ đặc như 
                  thế, như Cam Giá Nhất Chủng Sinh Vương, Ni Câu La Vương, Kiều 
                  Lâu La Vương, Cù Cù La Vương hoặc là phụ vương Sư Tử Giáp 
                  Vương cho đến thân ta không có những tướng hy hữu như vậy.
 
                  - 
                  
                  Những lời tiên đóan của các nhà tiên tri Ma Ha Na Ma và A Tư 
                  Đà nói, theo thuật ngữ trong kinh Phật Bản Hạnh Tập cho biết 
                  các Thụy Tướng Đời Trước, và Các Pháp Chưa Từng Thấy của bậc 
                  tòan giác được tóm tắt như sau:
 
                  - 
                  
                  I- Các Thụy Tướng Đời Trước:
 
                  - 
                  
                  01- Thị Hiện Bảy Bước:
 
                  - 
                  
                  Khi Bồ Tát sanh rồi, không cần có người nâng đỡ, liền đi bốn 
                  phương, mỗi phương đi bảy bước, mỗi bước đi của Bồ Tát đều mọc 
                  một bông sen lớn. Trước tiên Bồ Tát đi về phương Đông bảy bước 
                  xong rồi ngửa mặt nhìn bốn phương không như những tiếng tiểu 
                  nhi khác, mắt chưa từng chớp, miệng tự nói ra bài kệ chính 
                  ngữ:
 
                  - 
                  
                              - Trong thế gian nầy ta là tối thắng, ta từ nay 
                  sinh phần đã hết. 
 
                  - 
                  
                              Ðây là việc ly kỳ của Bồ Tát khắp nơi chưa từng 
                  có. Tất cả các phương Tây, Nam, Bắc đức Bồ Tát cũng đi bảy 
                  bước tương tự như
                  
                  
                  thế.
 
                  - 
                  
                              02- Bảy Trợ Đạo Bồ Đề:
 
                  - 
                  
                  Khi Bồ Tát sanh rồi, không cần có người nâng đỡ, liền đi bốn 
                  phương, mỗi phương đi bảy bước. Đức Bồ Tát được thành Phật đạo 
                  rồi được bảy trợ đạo Bồ Ðề phân pháp, và Bồ Tát tự nói rằng:
 
                  - 
                  
                              - Ta đoạn dứt sinh tử là tối hậu biên. Ta ở thế 
                  gian tối vi thù thắng. Như Lai được thành đạo rồi tất cả thế 
                  gian, chư thiên và nhân đều tôn trọng cung kính thừa sự.
                  
 
                  - 
                  
                              II- Các Pháp Chưa 
                  Từng 
                  Có
 
                  - 
                  
                  01- Lúc đức Bồ Tát hạ sinh rồi, họ hàng quyến thuộc chạy đi 
                  tìm nước khắp các nơi nhưng không thấy, chính ngay lúc ấy ở 
                  ngay trước mặt thân mẫu của Bồ Tát, tự nhiên hiện ra hai giếng 
                  nước: Một giếng nước nóng, và một giếng nước lạnh. Thân mẫu 
                  của Bồ Tát lấy nước hai giếng ấy tùy ý thọ dụng. Trong khi đó 
                  trên hư không cũng có hai dòng nước rót xuống: Một lạnh, một 
                  nóng, để tắm thân đức Bồ Tát. 
 
                  - 
                  
                              02- Bồ Tát lúc sơ sinh, vì không phải ở nơi hòang 
                  cung, cho nên chư thiên mang giường vàng để Bồ Tát xử dụng. 
                  Mặc dầu tuy có thân nhân, nhưng việc tắm thân mình của Bồ Tát 
                  đều do các chư thiên nâng đỡ.
 
                  - 
                  
                  03- Bồ Tát lúc mới sinh phóng đại quang minh che lấp cả quang 
                  minh khác.
 
                  - 
                  
                  04- Bồ Tát lúc mới sinh thân phóng quang minh, che lấp ánh 
                  sáng mặt trời cũng như sao ban ngày. 
 
                  - 
                  
                  05- Bồ Tát lúc mới sinh tất cả những cây cối, tất cả cỏ thuốc, 
                  tùy thời đua nở. 
 
                  - 
                  
                  06- Bồ Tát lúc mới sinh, chư thiên cõi thượng giới đem cái dù 
                  trắng, cán bằng vàng dòng, lớn như vành bánh xe đến để che 
                  chở. 
 
                  - 
                  
                  07- Bồ Tát khi mới sinh, trên hư không trung tất cả các chư 
                  thiên đều cầm bạch phất, lấy các thứ báu làm bạch phất trên Bồ 
                  tát.
 
                  - 
                  
                              08- Bồ Tát lúc mới sinh, trong hư không thanh tịnh 
                  không có mây khói, không có bụi trần, chỉ nghe tiếng sấm.
 
                  - 
                  
                              09- Bồ Tát lúc mới sinh ở trên không trung, trời 
                  không có mây, chỉ có chút mưa nước thơm thanh tịnh, đủ tám 
                  công đức, khiến cho tất cả chúng sanh đều được khoái lạc.
 
                  - 
                  
                              10- Bồ Tát lúc mới sinh trong hư không gió thổi vi 
                  diệu, thanh mát không não, tất cả tám phương thanh tịnh quang 
                  sáng, không có mây khói trần ai chướng uế.
 
                  - 
                  
                              11- Bồ Tát lúc mới sinh trên không trung không có 
                  ai làm mà tự nhiên phát ra tiếng phạm nhiệm mầu.
 
                  - 
                  
                              12- Bồ Tát lúc mới sinh, trên không trung tự nhiên 
                  xuất phát tiếng âm nhạc chư thiên và những ca hát, mưa các thứ 
                  hoa, tuy phơi ngòai mặt trời mà không khô héo.
 
                  - 
                  
                              13- Bồ Tát lúc mới sinh 
                  có năm trăm ngọc nữ chư thiên mang các thiên hoa và dầu xông, 
                  hương ở cõi trời, những thứ áo nhiệm mầu, những chuổi ngọc 
                  báu, những lọai âm thanh vi diệu của chư thiên tới trước thân 
                  mẫu Bồ Tát mà an ủi hỏi han phát lời nói rằng:
 
                  - 
                  - 
                  Lành sinh Bồ Tát, thánh mẫu có mỏi mệt chăng?
 
                  - 
                  
                              14- Bồ Tát lúc mới sinh, đại địa đủ mười tám 
                  tướng, sáu thứ chấn động, tất cả các chúng sinh đều được khoái 
                  lạc, ngay trong khi ấy, không có một chúng sanh nào sinh dục 
                  tâm, không tức giận, không ngu si, không kiêu mạn, không sợ, 
                  không một chúng sanh nào tạo nghiệp ác. Tất cả bệnh tật đều 
                  được tiêu trừ, đói thì được ăn, khát thì được uống, tất cả no 
                  đủ không thiếu thốn. Những chúng sanh hôn mê đều được tỉnh 
                  táo, kẻ rồ được chỉnh, kẻ mù được trông, kẻ điếc được nghe, kẻ 
                  không hoàn cụ đều được đầy đủ, kẻ nghèo được của, kẻ ở lao tù 
                  và những cầm thú bị giam cầm thì được giải thoát, chúng sinh 
                  trong địa ngục đều được nghỉ ngơi, các loài súc sanh thì khỏi 
                  sợ hãi, các loài ngạ quỷ đều được sung túc. 
 
                  - 
                  
                  15- Bồ Tát lúc mới sinh, đứng ngay trên mặt đất không cần 
                  người nâng đỡ, liền đi bảy buớc, mỗi lốt chân đều sinh hoa 
                  sen, tất cả bốn phương chính mắt xem coi và không chớp, không 
                  kinh, không sợ, đứng chính mắt chúng đông, lời nói biện bác 
                  trong sạch, tự cú viên mãn, không giống như những
                  
                  
                  hài nhi khác, ngửa coi hông hữu của mẹ mà nói rằng: 
                  
 
                  - 
                  - 
                  Ở trong thế gian ta là tối thắng, ta sẽ cứu gỡ tất cả chúng 
                  sanh cội gốc phiền não sinh tử. Ta từ ngày nay không phải chịu 
                  thai mẫu nhân nữa, đây là tối hậu biên thân của ta.
 
                  - 
                  
                              16- Bồ Tát lúc mới sinh, đứng ở dưới đất kia, bởi 
                  thân đồng tử thanh tịnh ở trên hư không hai dòng nước một nóng 
                  một lạnh lại đem giường vàng để cho đồng tử ngồi tắm gội thân 
                  đồng tử. Ðồng Tử sinh rồi thân phóng quang minh, ngăn che mặt 
                  trời, thượng giới chư thiên mang lọng trắng, cán bằng vàng to 
                  như vành bánh xe đứng trên không trung, có các chư thiên tay 
                  cầm bạch phất cán làm bằng các thứ báu phất trên đồng tử, trên 
                  không trung tất cả âm nhạc, không đánh tự kêu. Lại thấy vô 
                  lượng, vô biên những tiếng hát ngâm, nơi 
                  nơi đều mưa hoa hương tràn đầy khắp cả mặt đất.
 
                  - 
                  
                  17- Bồ Tát lúc mới sinh trên không trung tất cả chư thiên đều 
                  mang vô lượng hoa Ưu Bát La, hoa Bát Ðầu Ma, hoa Câu Vật Ðầu, 
                  hoa Phân Ðàn Lợi như thế thảy thảy tạp hoa, lại đem các thứ 
                  hương nhiệm mầu, lại đem các thứ tràng hoa màn báu rải trên Bồ 
                  Tát, rải rồi lại rải cứ tiếp tục mãi.
 
                  - 
                  
                  18- Khi Bồ Tát thành đạo Phật rồi được bốn thứ toàn bằng liên 
                  hoa, nâng đỡ Như Lai. 
 
                  - 
                  
                              19- Khi Bồ Tát thành đạo rồi không có một người 
                  nào luận pháp thắng được Như Lai.
 
                  - 
                  
                              20- Khi Bồ Tát thành đạo Phật rồi ở bên chúng 
                  Thanh Văn, đệ tử tự tại được tối thượng cúng dàng, tiếng khen 
                  tối thượng.  
 
                  - 
                  
                              21- Khi Bồ Tát thành Phật đạo rồi, có các chúng 
                  sanh chưa được tín giải sẽ được tín giải, đã tín giải rồi lại 
                  được tăng trưởng.
 
                  - 
                  
                  22- Khi Bồ Tát thành đạo Phật rồi, dùng không tức giận mà được 
                  giải thoát lìa dục nhiêu ích chẳng mệt cần khổ mà được tự 
                  tại.      
 
                  - 
                  
                  23- Khi Bồ Tát thành đạo rồi, vì các thế gian, lấy trí tuệ 
                  hiện đại tham kiến, thanh tịnh các thông, thế gian không tỷ 
                  dụ. Như Lai là thượng thủ. 
 
                  - 
                  
                  III- Các Quyến Thuộc Tùy Tùng           
 
                  - 
                  
                  Khi Bồ Tát giáng sinh, thì ngay trong ngày, giờ hôm đó trong 
                  họ dòng Thích cũng có năm trăm đồng tử cùng sinh, nhưng Bồ Tát 
                  sinh thân là đứng đầu.
 
                  - 
                  
                  Ngoài ra còn có:
 
                  - 
                  - 
                  Lại có năm trăm con gái họ Thích cùng sinh một ngày. Gia Du Ðà 
                  La là đứng đầu.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm nô bộc họ Thích cùng 
                  sinh một ngày, Tịnh Phạn Vương Cung Sa Nặc là đứng đầu.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm nàng hầu họ Thích cùng 
                  sinh một ngày, Tịnh Phạn Vương cung để thị vệ Thái Tử.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm tiên bạch mã câu cùng 
                  sanh một ngày, con Kiền Trắc là dẫn đầu.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm đại tượng vương, sắc 
                  trắng như tuyết, đầu có sáu ngà ở vương cung môn tự nhiên xuất 
                  hiện.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm diệu hảo viên, ngòi 
                  giếng hồ ao, rất nhiều hoa quả hiện lên ở Thành Ca Tỳ La Vệ 
                  vòng quanh tứ diện đều là lực oai đức của Thái Tử.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm đại thương khách chất 
                  chứa góp tiền tài, trân bảo rất nhiều đem theo lại thành Ca Tỳ 
                  La.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm trăm tàn lọng, năm trăm bình 
                  vàng đều là năm trăm túc tán, các vua sai sứ đưa lại dâng lên 
                  vua Tịnh Phạn mà nói rằng:
 
                  - 
                  - 
                  Những vật dụng nầy dâng hiến lên đại vương để khánh hạ Thái 
                  Tử.
 
                  - 
                  - 
                  Khi Bồ Tát giáng sinh thì có năm ngàn các Bà La Môn, và dòng 
                  Sa Ðế Lợi đại phú trưởng giả đều đem con gái mình dâng lên vua 
                  tịnh Phạn, khi vua Tịnh Phạn cần dùng đến đều được đầy đủ.
 
                  - 
                  
                              IV- Cuộc Đón Rước Vô Tiền Khóang Hậu
 
                  - 
                  
                              Khi được tin hòang hậu Ma Da vừa hạ sanh Thái Tử, 
                  Vua Tịnh Phạn liền sắc lệnh làm đẹp thành Ca Tỳ La Vệ. Cho 
                  người sái tảo gai góc, cát sỏi đất đá phân uế, mô đất mây móc 
                  sâu không thơm khiến cho thanh khiết, thành Ca Tỳ La tất cả 
                  đều trang nghiêm cũng như Thành Càn Thát Bà không khác. Trong 
                  thành có những trò chơi chẳng hạn như: Tất cả những đội lân, 
                  hoặc hát hoặc múa khéo làm việc chuyển hoá, hoặc làm trò chơi, 
                  hoặc trang nghiêm thân, hoặc làm phụ nữ, như thế những biến 
                  hoá sở năng, tất cả đều lại tụ tập. Cũng có người nhảy lên hư 
                  không hoặc rung chuông, hoặc đánh trống, hoặc đi guốc giép, 
                  hoặc leo đầu sào, hoặc quăn lại cũng như quay vòng hoặc đi ở 
                  trên giây ở hư không, hoặc đánh cờ, hoặc nhảy đao vô lượng vô 
                  biên những trò chơi như thế tất cả cũng đều tụ họp lại để làm 
                  trò giúp vui trong việc tiếp đón Thái Tử.
 
                  - 
                  
                  Trong đòan nghinh đón Thái Tử về hòang cung, chúng ta còn 
                  thấy:
 
                  - 
                  - 
                  Hai muôn ngàn hương tượng hàm thiết bằng vàng, yên vàng, mặc 
                  giáp hoàng kim, tất cả trang sức thuần vàng, lại lồng lưới 
                  vàng ở sau Bồ Tát lần lượt mà đi.
 
                  - 
                  - 
                  Hai muôn bảo xa, dùng bốn ngựa kéo, phan lọng trang nghiêm, 
                  lưới vàng giăng che ở trên theo sau Bồ Tát lần lượt mà đi.
 
                  - 
                  - 
                  Bốn muôn bộ binh tráng sĩ đều khoẻ mạnh, đều địch nổi ngàn 
                  người và trượng phu có gân sức mạnh, hay phá được oán dịch, 
                  thân mặc áo giáp, tay cầm cung đao, hoặc cầm vòng sắc, hoặc 
                  cầm giáo dài như thế ở sau Bồ Tát lần lượt mà đi.
 
                  - 
                  
                  Bên cạnh nhân dân vương triều Ca Tỳ La Vệ, trong khi cung đón 
                  Thái Tử về hoàng cung, chúng ta còn thấy chư vị ở cảnh giới 
                  siêu hình hiện làm dân Thành Ca Tỳ La Vệ để cùng đi cung 
                  nghinh Thái Tử như:
 
                  - 
                  - 
                  Có vô lượng vô biên sắc giới tối đại oai đức chư thiên chúng ở 
                  bên hữu Bồ Tát mà đi, lại có vô lượng vô biên Dục Giới tối đại 
                  đức chư thiên chúng ở bên trái Bồ Tát mà đi.
 
                  - 
                  - 
                  Có vô lượng vô biên Long Vương, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, 
                  Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Cưu Bàn Trà, La Sát, Tỳ 
                  Xa Già xuất hiện nửa hình tay cầm các thứ hoa đầy trong hư 
                  không theo Bồ Tát mà đi.
 
                  - 
                  - 
                  Có vô lượng vô số vô biên ức trăm ngàn muôn chư thiên, thân 
                  vương hoan hỷ nhảy nhót không thể tả xiết, cao tiếng nói to, 
                  hoặc múa hoặc hát âm thanh lạ, hoặc múa áo siêm, hoặc múa tay 
                  chân làm các hý nhạc, hoặc mang hương bột, hương bôi, tràng 
                  hoa chuỗi ngọc, hoa Mạn Ðà La, và các thứ hoa đều nâng trên 
                  tay ở trên Bồ Tát trong khoảng không trung đi rải trên Bồ Tát, 
                  tan rồi lại rải tất cả chư thiên bởi lực oai đức của bồ tát 
                  không nghe không hỏi, tất cả mọi người tuy thấy thiên sắc, 
                  cũng không kinh không thán, cũng không phóng dật.
 
                  - 
                  
                  Khi bấy giờ Bồ Tát vào thành, tất cả chư thiên quét rửa đường 
                  xá, lại năm ngàn ngọc nữ chư thiên đều tay cầm bình vàng đựng 
                  đầy nước thơm để sái trên mặt đất, có vị thì
                  cầm chổi trời vi diệu đi trước Bồ 
                  Tát vừa đi vừa quét. Có vị thì cầm các lư hương báu trời, đốt 
                  các thứ hương vi diệu cúng dàng trước Bồ Tát theo đường mà đi. 
                  Có vị thì cầm bình vàng đựng đầy hương vi diệu. Có vị thì cầm 
                  quạt lá cây Ba La trời. Có vị thì cầm đuôi Không Tước Vương 
                  dùng làm phất trần. Có vị tay cầm chuông vàng, thường thường 
                  rung động thanh cao xướng to tiếng cát tường 
                  
 
                  - 
                  
                  Lúc bấy giờ Hộ Thế Tứ Thiên Vương, cũng đều biến thân làm Bà 
                  La Môn trẻ tuổi, đoan chính đẹp đẽ, tóc trên đầu như ốc xoáy, 
                  khiêng bảo xa của Bồ Tát mà đi. Vua Thiên Ðế Thích ẩn mình hoá 
                  làm đồng niên con của Bà La Môn, đoan chính, tóc như ốc xoáy, 
                  thân mặc áo vàng, tay trái cầm bình tắm vàng, tay phải cầm ghế 
                  báu, ở trước Bồ Tát ngăn người mà đi miệng lớn tiếng nói:
 
                  - 
                  - 
                  Các người phải tránh đường đi, tối thắng chúng sanh nay sẽ vào 
                  thành.
 
                  - 
                  
                  Bây giờ Sắc Giới Ðại Phạm Thiên Vương nói kệ đời xưa khen Bồ 
                  tát rằng:
 
                  - 
                  - 
                  Trên trời dưới trời không ai bằng Phật
 
                  - 
                  
                  Mười Phương thế giới cũng như thế
 
                  - 
                  
                  Thế gian có gì ta thấy hết
 
                  - 
                  
                  Tất cả lại không ai bằng Phật.
 
                  - 
                  
                  Khi đòan rước xe hoa vừa đến hòang thành thì tất cả quyến 
                  thuộc họ Thích đem bốn chủng binh: Xa binh, mã binh, tượng 
                  binh, bộ binh vây quanh Bồ Tát hoặc phía trước, hoặc phía sau, 
                  hoặc phía trái hoặc bên phải theo Bồ Tát cùng đi, đông đầy 
                  chật ních thành Ca Tỳ La Vệ.
 
                  - 
                  
                  Vua Tịnh Phạn cũng cho lực đại vương, oai đức đại vương đánh 
                  vô lượng trống lớn trống nhỏ, thổi vô lượng kèn, các thứ khác 
                  nhau, âm thanh tạp diệp, làm cho vui Bồ Tát dẫn đường đi vào 
                  thành Ca Tỳ La. Khi được biết Thái Tử sắp vào Thành Ca Tỳ La 
                  Vệ các người trong dòng họ Thích, năm trăm quan đại thần đều 
                  làm quyến thuộc của Bồ Tát, họ tạo lập năm trăm Tịnh Xá để Bồ 
                  Tát ngồi. Khi Bồ tát mới nhập thành họ đều đứng trước của nhà 
                  lấy tâm hoan hỷ, chấp tay cung kính mà nói:
 
                  - 
                  - 
                  Nguyện thiên trung thiên vào tịnh xá tôi, nguyên đại thiên 
                  thiền sư vào tịnh xá tôi, nguyện thanh kim sắc thanh tịnh vào 
                  tịnh xá tôi, nguyện thị nhất thiết hoan hỷ tâm vào tịnh xá 
                  tôi, nguyện đức tối tôn vô đẳng đẳng vào tịnh xá tôi.
 
                  - 
                  
                  Vua Tịnh Phạn thấy vậy vì những người đó, năm trăm quyến 
                  thuộc, sinh tâm lân mẫn, lần lượt đưa bồ tát vào từng tịnh xá 
                  xong xuôi, sau đó mới đưa Bồ Tát về cung.
 
                  - 
                  
                  B- Thóat Khỏi Những Phiền Lụy Của Kiếp Người
 
                  - 
                  
                  Lời tiên tri 
                  
                  của Quốc Vương Ma Ha Na Ma, và nhà 
                  tiên tri A Tư Đà làm Vua 
                  Tịnh Phạn lo lắng rồi một ngày nào đó Thái Tử sẽ xuất gia đi 
                  tu. Quả thật lời tiên đóan sau đó hai mươi chín năm 
                  Vương Triều Ca Tỳ La Vệ mới thấy. Rõ 
                  ràng nhất trong một buổi lễ hạ điền, giữa lúc mọi người mải mê 
                  xem lễ hội, Thái tử lúc ấy tuy còn nhỏ, đã lặng lẽ đến bên cội 
                  cây gioi xếp bằng tĩnh tọa. Càng yêu thương quý trọng con, Vua 
                  Tịnh Phạn lại càng lo sợ Thái tử sẽ không nối nghiệp ngai 
                  vàng, mà sẽ xuất gia tìm đạo như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư 
                  Đà. Càng lớn lên, Thái tử càng lộ vẻ trầm tư về cuộc sống. Bởi 
                  thế, vua cùng triều thần sắp đặt nhiều kế hoạch để giữ Thái tử 
                  ở lại với ngai vàng. Vua Tịnh Phạn đã cho xây ba cung điện 
                  nguy nga, tráng lệ cho Thái tử thay đổi nơi ở hợp với thời 
                  tiết quanh năm của Ấn Ðộ. Hàng trăm cung phi mỹ nữ giỏi đàn ca 
                  hát múa được tuyển chọn để túc trực hầu hạ Thái tử. 
                  
 
                  - 
                  
                  Muốn ngăn chặn tất cả những hình ảnh của cuộc sống trầm thống 
                  khổ đau mà kiếp người phải đeo mang không lọt vào mắt, vào tai 
                  Thái tử. Vì muốn cho đứa con yêu không có thời gian để nghĩ 
                  đến việc xuất gia; khi Thái tử vừa tròn 16 tuổi, Vua Tịnh Phạn 
                  vội tiến hành lễ thành hôn cho Thái Tử với Công Chúa một nước 
                  láng giềng là Da Du Ðà La con Vua Thiện Giác, một trang quốc 
                  sắc thiên hương, với hy vọng hương ấm tình yêu thương đôi lứa 
                  sẽ buộc chặt đôi chân của Thái tử ở lại với ngai vàng. Nhưng 
                  được một thời gian do vì lòng thương người vô hạn vô biên, 
                  Thái tử lại rơi vào tình trạng trầm tư lo lắng, luôn cảm thấy 
                  lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn thắc mắc. Ðể giải tỏa 
                  những băng khoăn thắc mắc, Vua Tịnh Phạn cho Thái Tử dạo chơi 
                  ngòai bốn cửa thành. Được phép vua cha, Thái Tử lần đầu tiên 
                  được ra khỏi cung vàng điện ngọc và tiếp xúc với thế giới bên 
                  ngoài. Lần lượt ra bốn cửa thành của hoàng cung, Thái Tử chứng 
                  kiến những sự thật đen tối của cuộc đời hết sức đáng sợ:
                  
 
                  - 
                  
                  - Một cụ già chân mỏi, gối dùn 
 
                  - 
                  
                  - Một người bệnh hoạn đau quằn quại nằm bên vệ đường 
                  
 
                  - 
                  
                  - Một thây ma hôi thối và 
 
                  - 
                  
                  - Một đạo sĩ ly dục nghiêm trang với bước đi thanh thóat.
                  
 
                  - 
                  
                  Tất cả những gì tai nghe mắt thấy, đã làm cho tâm tư Thái Tử 
                  dao động đến cực độ. Ngài càng nhận chân rằng tất cả những lạc 
                  thú, hạnh phúc mà mình đang thọ hưởng đều mang tính giả tạm vô 
                  thường. Cộng với lần tiếp chuyện cùng vị đạo sĩ ung dung, mà 
                  thoáng hiện đằng sau con người này một con đường giải thoát, 
                  Thái tử Tất Đạt Đa quyết định thoát khỏi ngục vàng, tìm ra một 
                  lối thoát, một cuộc sống chân thật có ý nghĩa và cao đẹp hơn. 
                  Một con đường dẫn tới giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi 
                  khổ đau và bất hạnh của đời người và hướng đến an lạc. Và rồi, 
                  với cõi lòng nặng trĩu vì thương chúng sanh chìm đắm trong bể 
                  khổ; một đêm, sau khi đến trước phòng nhìn lần chót người vợ 
                  và hài nhi yêu dấu đang say nồng trong giấc ngủ, Ngài cùng nô 
                  bộc Xa Nặc dắt con tuấn mã Kiền Trắc vượt thành ra đi. Ra đi, 
                  Ngài từ bỏ tất cả những người thân yêu, ngôi báu, vương quyền, 
                  cả cuộc sống nhung lụa tràn đầy hạnh phúc. Trong đó có tình 
                  yêu thương của phụ hoàng, di mẫu, vợ đẹp, con ngoan rất nồng 
                  nàn, nhưng trong Thái tử, tấm lòng xót thương nhân loại đang 
                  chịu mọi nỗi bất hạnh trên cuộc đời lại còn da diết vượt trội 
                  hơn nhiều. Quả thật, quyết định ra đi tìm đạo của Thái Tử là 
                  một sự từ bỏ hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử 
                  loài người. Một sự ra đi không tiền khoáng hậu. Năm ấy, nếu 
                  theo Nam truyền Phật giáo Thái tử vừa tròn 19 tuổi, nhưng nếu 
                  theo Bắc Truyền Phật Giáo thì Thái tử xuất gia năm 29 tuổi.
 
                  - 
                  
                  Sau khi cùng với 
                  Xa Nặc 
                  
                  đến bên kia bờ sông Anoma, Thái tử dừng lại, cạo bỏ râu tóc, 
                  trao y phục và đồ trang sức cho Xa Nặc; và bảo người nô bộc 
                  trung thành ra về tạ lỗi cùng phụ hoàng. Còn lại một mình, 
                  Thái tử ra đi với bộ áo màu vàng giản dị của người tu sĩ, sống 
                  cuộc sống không nhà của người xuất gia, không nơi cố định. 
                  Trong thời gian đi tìm đạo, một cây cao bóng mát, hoặc một 
                  hang đá vắng vẻ, một cánh rừng u tịch, một làng mạc đìu hiu 
                  đều có thể là nơi che mưa đỡ nắng, nghỉ qua đêm của Ngài. Ngài 
                  đi trong nắng cháy, đi trong sương gió, xiêm y từ tốn chỉ là 
                  những mảnh vụn ráp lại, tài sản giờ đây duy nhất chỉ là một 
                  bình bát để khất thực độ nhật. Thái tử Tất Đạt Đa dành hết 
                  thời gian cho sự tìm cầu thiền định hầu tìm ra sự thật tối 
                  hậu. Và rồi Thái tử Tất Đạt Đa trên đường đi tầm đạo cũng đã 
                  tới thụ giáo với các vị Thầy danh tiếng, nhưng vẫn không thỏa 
                  mãn, và cuối cùng Ngài đến Uruvela, một thị trấn của Senàni và 
                  cùng với năm anh em ông Kiều Trần Như, Bạt Ðề, Ðề Bà, Ma Ha 
                  Nam và Ác Bệ, bắt đầu một cuộc tu khổ hạnh kéo dài đến 6 năm 
                  và dẫn đến kết quả là thân thể Ngài gầy đi như một bộ xương 
                  khô, đôi mắt sâu hoắm, không còn đi đứng được nữa. Qua những 
                  ngày tháng thực nghiệm, Ngài thấy rằng chân lý tối hậu giải 
                  thoát an lạc, diệt trừ khổ đau không thể cầu được ở bên ngoài, 
                  ở bất kỳ một bậc đạo sư nào, cũng không phải qua pháp môn hành 
                  xác, mà sự chứng ngộ ấy cần phải được thể hiện ở chính trong 
                  nội tâm của mỗi người và không thể dựa vào một tha lực nào 
                  khác. Ngài lấy lại sức nhờ uống bát sữa do một thôn nữ tên là 
                  Su Dà Ta dâng cúng, sau đó xuống tắm ở dòng sông Ni Liên 
                  Thiền. Năm người bạn đồng tu cho rằng Ngài đã thối chí, quay 
                  về cuộc sống dục lạc tiện nghi, họ bèn rời bỏ Ngài đi tu nơi 
                  khác. Còn lại một mình, Ngài đến ngồi dưới gốc cây tất bát la, 
                  sau này khi Ngài thành đạo thì cây tất bát la được gọi là cây 
                  bồ đề. Ngồi dưới gốc cây tất bát la với tâm định tĩnh, chánh 
                  niệm, tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền 
                  và lần lượt nhập lên tứ thiền, sau đó hướng tâm đến tam minh. 
                  Với trực giác, Ngài thấy rõ nguyên nhân của khổ đau. Chính sự 
                  tập khởi của 12 nhân duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn.
 
                  - 
                  
                  - Ở canh một, Ngài chứng Túc Mệnh Minh, thấy rõ vô lượng kiếp 
                  quá khứ của mình. 
 
                  - 
                  
                  - Sang canh hai, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh, thấy rõ vô lượng 
                  kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và nghiệp quả, 
                  thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh. 
 
                  - 
                  
                  - Qua canh ba, Ngài như thật quán chiếu thấy khổ đau, nguyên 
                  nhân của khổ đau, sự đoạn tận của khổ đau, và con đường đưa 
                  đến đoạn tận khổ đau, và đã chứng Lậu Tận Minh. 
 
                  - 
                  
                  Sau cùng, Ngài chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh 
                  giác, là vị Phật đầu tiên trong hiện kiếp, lúc ấy sao Mai vừa 
                  mọc; và danh hiệu Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni được thế gian tôn 
                  xưng từ đấy, và một tôn giáo mới trực tiếp đóng góp vào việc 
                  cứu nhân độ thế thời bấy giờ xuất hiện, đó là Đạo Phật.
 
                  - 
                  
                  C- Bài Học Cho Nhân Loại
 
                  - 
                  
                  Ðức Phật là một con người vĩ đại xuất hiện trong thế giới 
                  thường nhân, với trí tuệ siêu việt được thể hiện qua ngôn ngữ, 
                  văn tự thường tình đã gây âm vang chấn động trong lịch sử tôn 
                  giáo và triết học thời bấy giờ. Cho đến nay, gần ba thiên niên 
                  kỷ trôi qua, tiến trình phát triển của con người đã bao lần 
                  thay đổi, vô số những dữ kiện ghi chép về Đức Phật được chép 
                  vào trang lịch sử, trong đó, cuộc đời hoằng pháp của Ðức Phật 
                  là bức thông điệp muôn thuở cho con người khảo nghiệm, nghiên 
                  cứu, thực hành. Ðức Phật chỉ là một con người, nhưng là con 
                  người kết tinh của vô vàn tinh hoa tuyệt mỹ của nhân loại. Vì 
                  thế, đứng ở góc độ nào, người ta vẫn thấy được hiện thân của 
                  Ngài. Ðó là hiện thân của chân lý, của trí tuệ và từ bi. Qua 
                  cái nhìn nhất quán của chân lý và trí tuệ chúng ta mới có thể 
                  thấy Ngài qua các khía cạnh:
 
                  - 
                  
                  - Sau khi thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề, và ngài đã khai sáng 
                  ra Đạo Phật. Là giáo chủ của một tôn giáo Thế Tôn Ngài hướng 
                  dẫn cho tất cả mọi người biết, Ngài cũng là một người như bao 
                  nhiêu con người, tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ ấy 
                  truyền dạy lại cho con người. Ngài cũng xác định, Ngài không 
                  phải là Thượng đế, thiên sứ hay thần linh ở một thế giới xa 
                  xăm nào xuất hiện giữa cuộc đời. Ðức Phật dạy:
 
                  - 
                  
                  - Nếu ai hiểu một cách chân chính về Ngài thì hãy hiểu rằng, 
                  Ngài là một vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh 
                  phúc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, 
                  vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. 
                  
 
                  - 
                  
                  Chân lý được Thế Tôn chứng ngộ, do đó, cũng ở ngay trong thế 
                  giới hiện hữu này. Chân lý đó là những quy luật vận hành của 
                  vũ trụ nhân sinh. Nó tồn tại khách quan trong mọi sự sống, vì 
                  vậy Ðức Phật dù xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, nó vẫn 
                  luôn vận hành như vậy. Ðịnh lý này cao thượng, siêu lý luận, 
                  vi diệu; chỉ có người trí mới hiểu thấu. 
 
                  - 
                  
                  - Với ý nghĩa đó, chúng ta biết rằng Ðức Phật là người thấy 
                  được chân lý mà không phải tạo dựng ra chân lý. Ngài cực lực 
                  phản đối những luận điệu cho rằng Ngài là người sáng tạo ra 
                  một học thuyết mới. 
 
                  - 
                  
                  - Qua quá trình thực nghiệm của Đức Phật, cho chúng ta nhận 
                  thức được rằng: Sống trong sự hưởng thụ dục lạc cũng không có 
                  hạnh phúc chân thật, nhưng ép xác khổ hạnh cũng chẳng được an 
                  vui. Do đó khi từ bỏ hai cực đoan này, thực hành Bát thánh 
                  đạo, đức Thế Tôn tìm được an lạc trên con đường này. Và đây 
                  cũng là Trung đạo đưa đến sự chứng ngộ tối thượng.
 
                  - 
                  
                  - Việc từ bỏ hai đạo sĩ nổi danh và năm người bạn đồng tu để 
                  tỉnh tọa bốn mươi chín ngày đêm, là bài pháp thân giáo sinh 
                  động, thể hiện sự tự tu, tự chứng ngộ của bậc Ðạo Sư. Đây là 
                  hành trang duy nhất giúp chúng ta tích cực tiến bước trên lộ 
                  trình giải thoát giác ngộ. Ngài luôn dạy chúng ta đừng giao 
                  phó thân mạng, tư tưởng, lý tưởng, mục đích sống cho bất cứ 
                  ai, chủ thuyết nào, ý hệ nào dù chúng đã trở thành truyền 
                  thống, tập tục; vì chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp, tạo nên 
                  khổ đau hay hạnh phúc. Từ kinh nghiệm tu chứng bản thân, Ðức 
                  Phật dạy các đệ tử hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy 
                  tự mình nương tựa nơi chính mình, chớ nương tựa một gì khác. 
                  Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương 
                  tựa, chớ có nương tựa một gì khác. Bởi vì đầy là kinh nghiệm 
                  sau bốn mươi chín ngày đêm tư duy, ngài đã trở thành bậc chánh 
                  đẳng chánh giác, tinh thần nầy cho chúng ta thấy: Tự mình thắp 
                  đuốc lên mà đi. Theo tinh thần nầy cũng có nghĩa là tự mình 
                  khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, khơi dậy hạt giống Phật nằm tiềm ẩn 
                  bên trong mỗi con người. Bởi vì, tất cả chúng sinh đều có Phật 
                  tính, nói như thế có nghĩa là ai cũng có khả năng thành Phật. 
                  Tiến trình đạt đến quả vị Phật là tiến trình chiến đấu với tự 
                  thân, chiến đấu với vô minh và ái dục. Ðức Phật tuyên bố: Biển 
                  có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại, nhưng 
                  khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái 
                  dục. Ngài đã đoạn trừ được vô minh và ái dục, nên Ngài là bậc 
                  tối tôn ở đời. Ngài thân dù ở trong muôn loài, nhưng tâm đã 
                  cao thượng, vượt lên trên tất cả muôn loài.
 
                  - 
                  
                  D- Kết Luận
 
                  - 
                  
                  Lời tiên đóan của các nhà tiên tri Ma Ha Na Ma và A Tư Đà, sau 
                  đó hai mươi chín năm đã trở thành sự thật, xét về phương diện 
                  lịch sử  của Ðức Phật là lịch sử của một con người có thật, 
                  nhờ tu tập bản thân, đã trở thành một con người hoàn thiện, 
                  một bậc thánh giữa thế gian. Bằng cuộc đời của Ngài, bằng 
                  những lời dạy của Ngài được kết tập lại trong ba tạng kinh 
                  điển, Ðức Phật đã khai thị cho loài người biết rằng, bất cứ 
                  một người nào, với sự nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên 
                  đỉnh cao của giác ngộ và giải thoát. Có thể nói, không một tôn 
                  giáo nào, không một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt 
                  niềm tin vào con người như là đạo Phật. Tính nhân bản tuyệt 
                  vời của đạo Phật chính là chỗ đó. Cuộc đời của Ðức Phật là cả 
                  một bài thuyết pháp hùng hồn trác tuyệt, dù cho có dùng hàng 
                  vạn ngôn từ mỹ dụ cũng không thể nào diễn đạt cho hết ý nghĩa 
                  thiêng liêng. Ðời sống của Ngài là một biểu hiện sống động cho 
                  giáo lý của Ngài. Ngài nói và thực hành với kết quả mỹ mãn, 
                  tương ứng với những gì Ngài thuyết giảng. Ðời sống Ðức Ðiều 
                  Ngự là cả một bằng chứng hiển nhiên cho giáo pháp vượt thời 
                  gian, không gian, hiện tại lạc trú của Ngài. Ðó không phải là 
                  những tín điều mặc khải, càng không phải là những lời dạy 
                  suông, những ý niệm hoang tưởng, những lý thuyết xây dựng trên 
                  mây, trên khói.
 
                  - 
                  
                   
 
                  - 
                  
                  Tài Liệu Tham Khảo:
 
                  - 
                  
                  - Kinh Phật Bản Hạnh Tập
 
                  - 
                  
                  - Đức Phật & Phật Pháp
 
                  - 
                  
                  - Kinh Đại Bảo Tích
 
                  - 
                  
                  - Phật Học Phổ Thông
 
                 
                
                 |