Tứ Chánh Cần
Bạch Y Thư Sinh
--o0o--
 
Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng tinh tấn, có khả năng trợ duyên cho người có lòng tìm tu học hỏi, là những nấc thang vững chãi đưa những ai có tâm hồn hướng thượng, hướng thiện đi trên con đường chánh đạo. Bốn phép tinh tấn đó là:
            01- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
            02- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác đã phát sinh.
            03- Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
            04- Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Nói về Chánh Cần hay cũng còn gọi là Tinh Tấn. Trong Bát Chánh Ðạo, Chánh Tinh Tấn là ngăn ngừa không cho phát sanh những tư tưởng bất thiện chưa phát sanh, và tiêu trừ những tư tưởng bất thiện đã phát sanh, khai triển những tư tưởng thiện chưa phát sanh, và làm cho tư tưởng thiện đã phát sanh rồi càng nẩy nở thêm. Tinh Tấn là một trong thất Giác Chi. Tinh tấn là tác động của Bốn Chánh cần. Tinh Tấn là một trong năm năng lực tinh thần và một trong năm khả năng kiểm soát tâm. Tinh tấn là đáo bỉ ngạn một mình đảm đang nhiều nhiệm vụ khác nhau. Tinh Tấn hiệp với Trí Tuệ Ba La Mật thành một năng lực vô cùng trọng yếu có thể hoàn tất mọi việc.
Bốn pháp siêng năng trên được chia thành hai thái cực thiện và ác. Chúng ta thử chia thành hai môi trường để minh định về thiện và ác:
a- Theo Quan Niệm Của Thế Gian
Ðứng trên lập trường của thế gian để nói về thiện và ác thực là một việc khó để phân biệt. Bởi vì sự việc thiện và ác ở đây không phải nói thiện mà sự việc nghiễm nhiên là thiện, mà nói ác sự việc nghiễm nhiên trở thành ác. Phải biết rằng thiện và ác nó tùy thuộc rất lớn vào mỗi hoàn cảnh của xã hội, phong tục tập quán để xử lý về thiện và ác. Bởi vì, rất có thể gọi là thiện ở xã hội nầy, quốc gia nầy, nhưng nó lại là ác ở xã hội khác, ở quốc gia khác. Hoặc ngược lại, được gọi là ác ở xã hội nầy, quốc gia nầy, nhưng nó lại là thiện ở xã hội khác, ở quốc gia khác. Như vậy theo quan điểm của thế gian, thiện và ác tất cả đều tùy thuộc vào phong tục, tập quán của từng xã hội để phân định, cho nên trong lúc nhứt thời chúng ta không thể xác định được cái nầy là thiện hay cái kia là ác. Hay làm như thế nầy là thiện, làm như thế khác là ác.
b- Theo Quan Ðiểm Của Phật Giáo
Theo quan điểm của Phật Giáo, được gọi là ác, là những điều gì có thể làm tổn hại cho mình và cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Những sự kiện nầy bao giờ cũng nghịch với lòng từ bi, trí tuệ và chân lý. Trái lại những điều được gọi là lành, là những điều có lợi, có ích cho mình và cho người, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng sự kiện nầy bao giờ cũng phù hp với lòng từ bi và bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
            Từ hai định nghĩa nầy, theo quan điểm Phật Giáo không phải đợi đến khi phát lộ bằng hành động, mới gọi là thiện hay ác, mà ngay trong ý nghĩ cũng đã phân biệt được thiện hay ác rồi. Theo đạo Phật, mỗi một con người có ba nơi phát sanh ra tư tưởng hoặc hành động lành hay dữ đó là: Thân, miệng, ý.
a- Nói Về Thân Có Ba
- Sát sanh
- Trộm cắp
- Tà hạnh
Nói Về Miệng Có Bốn
- Nói dối
- Nói Lời Trau Chuốt
- Nói Lưỡi Hai Chiều
- Nói Lời Ác Khẩu.
Nói Về Ý Có Ba
- Tham
- Sân
- Si
Như thế mỗi một cử chỉ, mỗi một lời nói, hay mỗi một ý nghĩ, mỗi một hành động đều có thể là lành hay dữ. Do đó đức Phật dạy chúng ta phải ngăn ngừa những điều dữ, hay thực hiện những điều lành, ngay khi chúng còn ở trong ý thức, đó là lý do có mặt của bốn chánh cần.
            01- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
            Nếu là Tâm chưa được thuần thục, thì chắc chắn đầy dẫy những mộng tưởng điên đảo, từ lời nói, cho đến việc làm không lương thiện. Biết vậy cho nên chúng ta phải ráng giữ gìn, đừng cho nói khởi lên và hiện ra hành động. Tiêu biểu một vài trường hợp như:
            a- Chúng ta muốn đi câu cá để giải trí, nhưng chúng ta lại nghĩ:
- Chúng ta là đệ tử Phật, đã thọ tam quy, giữ năm giới rồi. Nếu đi câu cá làm thú vui cho bản thân là phạm vào giới thứ nhất giới sát sanh. Phạm vào giới sát sanh sẽ bị hai nghiệp báo: Một là chết yểu, hai là sống cuộc sống bệnh hoạn. Vì nghĩ đến nghiệp quả nguy hiểm cho nên chúng ta không đi câu cá nữa.
            b- Trong cuộc sống hằng ngày, buôn bán là một nghề có thể kiếm lời để sinh sống. Tuy nhiên vì thấy người tiêu thụ quá đông, cho nên chúng ta khởi tâm tham, muốn cho có lời nhiều, nên có ý định mua đầy bán lưng, hoặc là tráo chác hàng giả để lấy vô hàng thiệt. Chúng ta liền xét lại rằng:
- Chúng ta là đệ tử Phật, đã thọ tam quy, giữ năm giới rồi. Hành động tráo trở là một tội tham lam trộm cắp, nghiệp quả của gian tham trộm cắp là nghèo đói, tật nguyền. Vì nghĩ đến nghiệp báo nguy hiểm như vậy cho nên chúng ta không thi hành mưu kế đen tối nữa.
            02- Tinh tấn diệt trừ những điều ác đã phát sinh.
            Trong đời sống của chúng ta, nhất là khi chưa hiểu Phật pháp, và không tu hành, chúng ta đã phạm rất nhiều tội ác. Những tội ác nầy làm cho tâm của chúng ta càng ngày càng tối tăm, lu mờ như một tấm gương bỏ lâu ngày, không ai chùi rửa, không thể soi được nữa. Ngày nay đã hiểu phật pháp, chúng ta đã nhận thấy cái nguy hại của những điều ác thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Ðiều ác không ở đâu xa chúng phát lộ ngay trong: Thân, miệng, ý của chúng ta. Vậy trừ tội ác là tự mình ngăn chận không cho thân, miệng, ý của chúng ta tiếp tục tạo nghiệp dữ nữa. Muốn thực hiện được điều nầy, chúng ta phải vận dụng những nghị lực, cố gắng thật nhiều, phải luôn luôn siêng năng tinh cần. Ðể ngăn ngừa những tội lỗi đã tạo, người Phật Tử chúng ta phải luôn luôn nhớ nghĩ như vậy:
- Sát sinh là điều ác đã gây tội lỗi cho mình thì chắc chắn phải trả nợ máu cho chúng sanh không sớm thì muộn, nghiệp quả không tránh khỏi.
            - Trộm cắp làm khổ cho người bị nghèo đói, rách rưới buồn rầu đau khổ không thể kể xiết. Một ngày nào đó của do chúng ta tạo ra, oan gia trái chủ đó sẽ giựt lại, rất có thể không phải chỉ đủ cho những của chúngta đã trộm cắp mà có thể còn nhiều hơn những gì mà chúng ta đã gây đau khổ cho họ.
            - Tà hạnh là điều không hợp với luân lý, đạo đức và thường gây sự rối ren trong gia đình của mình, và tạo sự đổ v hạnh phúc của người khác. Chúng ta có thể phá gia cang người khác, thì người khác cũng có thể phá nát gia cang của mình.
- Giận hờn tức tối, lửa sân nổi lên làm mất hết tình cảm, thiện chí giữa chúng ta và những người chung quanh, bao nhiều việc làm tốt đẹp đều bị một phút sân hận làm hư hỏng, bao nhiêu rừng công đức đều tiêu hao chỉ trong một giây phút sân hận.
Chúng ta xét như vậy, nếu tội ác chưa phát sanh, thì chúng ta phải tích cực ngăn chận đừng để nó phát sanh, nếu đã trót lỡ sanh, thì bất cứ tội nào cũng vậy, chúng ta phải cương quyết đoạn trừ tận gốc rễ, đừng cho nó đâm chồi nẩy nhánh nữa. Cùng trong lúc đó, chúng ta phải huân tập các hột giống lành để thay thế vào tạng thức, thì lần hồi chúng ta sẽ trở thành người thuần thiện.
03- Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
Nhiều khi chúng ta có những ý định hay đẹp muốn giúp ích người nầy nâng đỡ người khác, nhưng vì tánh lười biếng, giải đãi, hay thiếu nghị lực, cho nên chúng ta không thực hiện, hoặc chưa thực hiện những ý định tốt đẹp ấy. Như thế dù có thiện chí bao nhiêu, cũng không đem lại lợi ích gì cho ta và cho người chung quanh. Muốn tạo những thiện nghiệp, những việc làm như:
- Nói lời hoà nhã với mọi người trong mọi trường hợp,
- Bố thí cho người nghèo túng,
- Giúp đỡ cho người những công ăn việc làm,...
Những việc tốt đẹp như vậy, nếu trong tâm đã có nghĩ đến thì chúng ta đừng chần chờ, mà trái lại phải hăng hái thực hiện bằng cụ thể hành động ngay. Cho nên mỗi khi chúng ta mống khởi trong tâm, những điều tốt thì đừng nên chần chờ, giải đãi, mà chúng ta phải luôn thúc đẩy, biến những ý nghĩ tốt thành những hành động, đừng để vô thường đến trong lúc chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của mình, thì lúc đó chính là lúc mà chúng ta ân hận là mình chưa gây tạo được cho mình những nhân lành gì cả. Vậy chúng ta phải luôn hăng hái làm phát triển những điều lành để tu tạo phước đức mai sau.
            04- Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Những điều lành khi đã phát lộ ra hành động rồi chúng ta đừng cho thế là vừa, là đủ, mà chúng ta cần phải cố gắng làm thêm nữa. Nghĩa là khi chúng ta làm một điều gì được mọi người ưa chuộng, chúng ta thấy có lợi về hai phương diện, một mặt ngăn chận điều ác không cho tác hại, một mặt làm điều thiện có lợi cho mình và cho người khác. Chẳng hạn như khi chúng ta thọ giới không sát sanh và thực hành theo giới ấy, là chúng ta vừa ngăn chận sự giết hại người và vật, mà vừa chuộc người phóng sanh nữa. Hiện nay trên thế giới nếu ai cũng giữ giới không sát sanh thì có lẽ thế giới nầy sẽ an lạc và hòa bình. Các giới khác cũng vậy, nghĩa là một mặt vừa chấm dứt được các điều ác, một mặt vừa thực hành các điều thiện, rồi cứ như thế mà siêng năng tinh cần luôn luôn mới được. Chúng ta phải tập làm điều thiện cho thật thuần thục, cho thành thói quen, cho đến khi nhập tâm, nghĩa là mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi việc làm điều thiện cả mới được.
Nói tóm lại, Tứ Chánh Cần, là bốn pháp siêng năng chân chánh, giữ vững nghị lực trong công cuộc diệt trừ tội ác, và phát triển điều thiện. Tinh cần là kiên trì cố gắng, quyết tâm thành đạt mục tiêu cuối cùng. Phải hiểu rằng tinh cần ở đây không phải là năng lực vật chất, mặc dầu sức mạnh vật chất cũng là một điểm lợi. Nhưng tinh cần ở đây là năng lực tinh thần, sức khoẻ tâm linh, là sự nỗ lực không ngừng, tình trạng chuyên cần, tích cực hoạt động của tâm nhằm vào mục đích phục vụ kẻ khác. Do đó mà chúng ta phải luôn luôn cố gắng và luôn luôn tự tin như trong Kinh Niết Bàn Phật dạy:
- Các người Tỳ Kheo! Ngày thời siêng năng tu tập các pháp lành, chớ bỏ sai thời, đầu đêm cuối đêm cũng đừng luống bỏ. Giữa đêm tụng kinh, do mình làm chừng đỗi đừng vì nhân duyên ngủ nghỉ, luống qua một đời, không được chút gì. Phải nhớ lửa Vô Thường đốt các thế gian, hãy sớm cầu tự độ, đừng nên ngủ nghỉ.
Các giặc phiền não, thường rình giết người lắm kẻ oan gia. Ðâu nên ngủ nghỉ mà không tự mình ngộ vậy. Rắn độc phiền não, còn ngủ trong tâm ngươi, ví như rắn hổ mun, còn ngủ trong nhà người, người phải lấy cái móc trì giới mau trừ nó đi, rắn ngủ đã chạy khỏi, mới nên ngủ yên. Nếu nó chưa chạy khỏi mà ngủ yên là người không biết xấu hổ vậy.
Những yếu tố tinh cần nầy nó bao gồm tất cả những quy điều căn bản thiết yếu, đạo đức luân lý của xã hội và tôn giáo. Cho nên mỗi khi tâm chúng ta mống lên một ý nghĩ sai quấy, muốn thực hiện một điều ác gì, chúng ta phải tìm những lý do chính đáng, tưởng nghĩ đến hậu quả, và tai hại của nó, để dập tắt ngay những ý nghĩ bất chính, và ngăn ngừa không để cho nó phát sinh trong hành động. Cũng vậy nếu là những ý nghĩ tốt đẹp, thì chúng ta cũng phải biết những phước báo tốt đẹp để làm cho nó phát triển càng mạnh thêm để mang niềm vui, và hạnh phúc đến cho xã hội, cho nhân loại.
Trong chiều hướng nầy, Chúng ta là người mà có tâm hồn lương thiện, sợ nhất là giặc phiền não, si mê, len lỏi vào tâm của chúng ta để cướp mất những của báu công đức, cho nên chúng ta phải luôn luôn cẩn thận giữ gìn, như người nhà giàu gi của, ngăn tường, đóng ngõ, khoá chặt cửa để tránh những kẻ gian lén vào nhà trộm cắp. Sự ngăn chận giữ gìn không cho điều ác phát khởi nầy không phải chỉ hạn cuộc trong thời gian nhất định nào đó, mà trái lại phải tiếp tục gìn giữ luôn luôn trong từng sát na, từng giây phút, từng ngày tháng, từng năm nầy sang năm khác, cho đến chừng nào tâm của chúng ta an nhiên thuần thục, không nghĩ đến điều ác nữa mới thôi. Vì thế mà công cuộc ngăn chận nầy, nó đòi hỏi một sự siêng năng, tinh tấn dẻo dai, bền bĩ, mới có hy vọng thành tựu được như ý.
Quả thật như vậy, nếu suốt đời, chúng ta luôn luôn làm theo đúng bốn phép siêng năng nầy là chúng ta có thể ngăn ngừa không cho những điều ác phát sanh, diệt trừ những điều ác đã lỡ sanh, thúc đẩy thực hiện những điều lành vừa móng trong tâm, và tiếp tục thực hiện nhiều hơn nữa những điều lành đã thực hiện được. Nếu chúng ta tinh tấn tu tập, và làm được như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được địa vị Thánh Hiền.
Ðối với người học Phật với tâm chuyên nhất tinh cần, thì trong cơn nguy biến chúng ta sẽ đứng vững, không cần cầu xin để được bảo bọc. Chúng ta có đủ nghị lực, đủ quả cảm, để vượt qua mọi trở ngại. Ngay cả trong đau khổ chúng ta cũng không có thái độ khấn vái trông chờ ai cứu độ, vì các đức tánh tinh cần đã đủ tâm trí và can đảm để chế ngự nó. Vì thế chúng ta không nên sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay cầu mong một tha lực nào đến cứu vãn, mà phải luôn luôn kiên trì phấn đấu liên tục cho đến kỳ cùng, để tự giải thoát cho chính chúng ta như trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật dạy:
- Những người tu đạo. ví như một người chiến đấu với vạn người. Khi mặc áo giáp ra cửa thành, trong tâm khiếp sợ, hoặc nửa đường thối lui, hoặc chết tại trận, hoặc thắng trận mà về. Sa môn học đạo cần phải kiên quyết giữ gìn tâm ý, tinh tế dũng nhuệ, chẳng sợ gì hết, phá diệt các ma, mau chứng đưc đạo quả.
Người đời thường nói:
- Thất bại là mẹ đẻ của thành công.
Quả thật, khó khăn nặng nhọc chỉ làm rùn chí kẻ yếu kém suy nhược, chướng ngại chỉ làm sờn lòng người thiếu nghị lực, nhưng đối với người học Phật, có thực tập hạnh tinh cần thì thất bại, chướng ngại nghịch cảnh chỉ có thể làm cho chúng ta tăng thêm nghi lực, và ý chí phấn đấu. Nguy biến chỉ thêm can đảm cho chúng ta. Chúng ta có thể tự mình vạch lối đi của mình để xuyên qua mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại, nhắm thẳng mục tiêu cuối cùng, và không có gì làm cho chúng ta chùng bước trong đường hướng dùng đức tánh tinh cần để phục vụ nhân sinh. Chúng ta dùng tinh tấn để tạo an lành cho kẻ khác, thay vì tập trung nỗ lực vào trong lối sống hẹp hòi trong cuộc sống thanh tu để thành tựu mục tiêu giải thoát của chúng ta. Nhưng chúng ta lại hướng mi c gng v con đường hot động rng ln, mong to hnh phúc đại đồng cho toàn th chúng sanh chung hưởng. Không h biết mt, biết chán, chúng ta luôn luôn tích cc to tình trng an lành cho tt c, không chút n ý v li, không trông mong mt đặc ân nào.
Khi mà chúng ta siêng năng tinh tn, và sng trong mt xã hi xô b như trong đời ác năm trược ny, rt có th b các món phin não làm ri lon như là:
- Tham dc,
- Gin d
- Ngu si,
- Khinh d,
- Ganh ghét,
- Him hn,
Nếu có th xy ra thì chúng ta phi thường nghĩ như vy:
- Chúng ta không mun não hi các chúng sanh cho nên tinh tn, thy vì mun phân bit tt c các chúng sanh mà tu tinh tn, vì mun biết tt c chúng sanh chết đây, sanh kia nên tinh tn, vì mun biết tht pháp ca các đức Pht nên tinh tn, vì mun biết các pháp bình đẳng để làm phưong tin khéo léo nên tinh tn, vì mun biết đại trí hu và phưong tin khéo léo ca các đức Pht nên tu tinh tn, vì mun biết tt c Pht Pháp để rng vì chúng sanh phân bit nên tu tinh tn.
Mc đích ca chúng ta trước tiên là t sa để sng hài hoà vi người thân và nhng người chung quanh. Xa hơn na s tu hc là ct bước lên cho được bến b gii thoát, vì vy mà c hai phương din tâm ý và hình dung, người hiu đạo không ging trn tc. Người có tâm hn hướng thượng phi ni tiếp và làm rng r cho được giòng ging thánh hin, nhiếp phc được qun ma, báo đền được bn ân và cu độ được ba cõi. Nếu không sng theo chí nguyn y thì chúng ta ch là nhng người ch biết nói trên phương din lý thuyết, cho nên hành động và ngôn ng đều hoang sơ, hoàn toàn cô ph tm lòng ca thy t. Tuy nhiên nếu chúng ta chưa làm được thì nên khi nim an i rng:
- Hin ti thân th đầy đủ, khe mnh, tâm thn minh mn, như vy chúng ta vn có đầy đủ phước báo. Ðây chn chn là do nhân trong quá kh ta đã gieo rc nhân lành cho nên hôm nay mi được qu báo tt đẹp ny.
Nghĩ như vy cho nên chúng ta phi biết trân quý thì gi, n lc tinh tiến trên đường tu hc thì mt ngày kia đạo qu có th s viên thành. Bên cnh đó đôi khi có nhng li khuyên nh ca bn bè đó là nhng li nói ngay thng. Li nói ngay thng thường thì không êm tai, nhưng nếu chúng ta có kh năng ghi khc vào tâm khm, chúng ta có kh năng tiếp nhn được chánh kiến thì chúng ta s có th ra tâm, vun đức, rèn luyn tinh thn, thì chúng ta s có kh năng chm dt mi huyên náo, lao xao vô ích. Nếu chúng ta có ch tâm hc đạo, mun tham cu nhng tinh yếu ca đạo hc để t ng ch chân nguyên, thì phi tham hc rng rãi vi các bc đi trước nhiu kinh nghim, và sng gn gũi vi các bc thin tri thc. Nhng đức tánh ca các chánh cn tuy rng nói thì nghe rt d, nhưng thc hành chc hn là không d. Vì vy mun đạt cho được thì phi khn thiết dng tâm mi mong thc hin được và nm vng được ct ty bên trong và t t bước lên nc thang khai ng.
Tt c các chánh cn đều là con đường phá hy được nhng lười mi, đam mê tham vng, để hin bày cái thy là tt c các pháp trong ta và ngoài ta đều không có bn cht chân thc, Tt c đều gi danh, do tâm biến hin. Khi y ta không còn đem tâm chy theo vi cnh. Tâm không chy theo cnh, thì cnh làm sao có th ràng buc được tâm. Chúng ta c để cho các pháp t nhiên din biến trong t tánh chân thc ca chúng mà không còn b kt vào cái ý nim thường ti và đon dit. Lúc y tai ca chúng ta tuy còn nghe, mt ca chúng ta tuy còn thy, tuy thanh sc vn xy ra mà tâm ca chúng ta vn thn nhiên và bình thường. Có được cái thy y ri thì dù ngi yên hay hành động chúng ta cũng thong dong. Có như thế thì chúng ta mới không bõ công đi tìm cầu họ hỏi, vì bây giờ chúng ta đã có khả năng bắt đầu đền đáp được bốn ân, và cứu độ được ba cõi.
Nếu kiếp nầy chúng ta cũng hiểu biết, thực hành, và tu tập như vậy. Kiếp khác cũng tiếp tục như vậy, không bị thối chuyển thì quả vị toàn giác là cái nhất định có thể mong cầu. Lúc bấy giờ ta sẽ đóng vai trò người khách quý lui tới trong ba cõi, khi vào khi ra đều có thể làm khuôn phép cho tất cả mọi người. Các pháp tinh cần rất là huyền diệu, nếu tâm chí chúng ta quyết liệt, chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Nhưng nếu điều kiện, căn cơ của chúng ta chưa cho phép chúng ta thực hiện những gì được coi là các thiện pháp mà chúng ta đã thấy, nghe, thì cũng không vì vậy mà chán nản, mà chúng ta phải tinh cần vượt qua, chúng ta phải để tâm học hỏi giáo pháp, nghiên tầm kinh điển, nắm cho được cái tinh yếu của giáo điển nhiều hơn nữa trước là để áp dụng cho tự thân, sau là để có thể giảng dạy truyền bá cho các thế hệ tương lai mà báo đáp một phần nào, để tu tạo phước duyên, để báo đền ơn đức của Phật. Ðừng để thời giờ uổng phí, mà hãy lấy công hạnh tu học và truyền dạy làm lẽ sống của đời mình. Một khi đã biết hành xử và di đứng trong uy nghi thì ta đã có thể xứng đáng được gọi là pháp khí của tăng thân rồi. Hãy nhìn thử những dây sắn và dây bìm quấn theo thân cây tùng cây bách mà leo lên:
- Có khi chúng leo lên cả ngàn sải.
Nói dây sắn dây bìm quấn theo thân cây tùng, cây bách để sống. Ở một khía cạnh khác muốn ám chỉ cho những tâm hồn tùy thuộc, không tự đứng vững. Tuy nhiên trong trường hợp nầy là muốn nói, nếu chúng ta muốn thoát khỏi những phiền lụy của kiếp người, trong lúc chúng ta chưa tự thăng tiến thì chúng ta phải nương tựa vào lý tưởng cao đẹp của các bậc đại nhân thì ta mới có thể trở nên người hữu dụng mà làm lợi ích cho thế gian. Nương tựa vào các bậc thánh hiền, chúng ta phải hết lòng thực tập việc trì trai giữ giới, đừng khinh thường một chi tiết nào của giới luật và uy nghi mà phạm hạnh, những lỗi lầm và thiếu sót. Nếu thực tập nghiêm chỉnh được phép trì trai giữ giới thì từ đời nầy sang đời khác nhân quả tốt lành sẽ được tiếp nối một cách nhiệm mầu.
Chúng ta không có quyền để cho tháng ngày đi qua luống uổng, phải trân quý thời gian và hết lòng mong mỏi tiến lên trên con đường của sự nghiệp giác ngộ. Ðừng lạm dụng lý do và hoàn cảnh, đừng cô phụ bốn ơn, đừng chạy theo danh lợi nhiều để rồi tâm tư bị tài lợi bít lấp. Người xưa đã khích lệ:
- Người kia là đấng trượng phu thì tại sao ta lại không?
Ðừng nên có mặc cảm tự ti mà chùn bước và chịu thua. Nếu chúng ta không có thái độ của bậc trượng phu thì thật uổng phí cho cuộc đời của một người biết nghe pháp, của những người học đạo, rốt cuộc tháng ngày trôi qua nhanh mà chúng ta không làm được ích lợi gì cho bản thân và cho ai cả.
Sau khi nghe bốn chánh cần mong rằng đại chúng nên phát tâm cho dõng mãnh, ôm hoài bão cho thật cao xa, khi hành xử thì mô phỏng các bậc cao nhân, đừng đi theo lề lối của những người hư thân mất nết. Ngay trong đời nầy, chúng ta phải tự nắm lấy vận mệnh của chúng ta, đừng giao phó vận mệnh của chúng ta cho ai hết. Hãy học chấm dứt tà ý, an định tâm tư, đừng chạy theo trần cảnh. Tâm chúng ta vốn là tư tại, đối tượng đích thực của chân tâm, là Niết Bàn, chỉ vì lâu ngày bế tắc cho nên ta không thấy rõ được đó thôi.
Người đời cũng như trong đạo, mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp trong đời mình, thì phải luôn luôn gia công gắng sức, nhất là những người có tâm hồn hướng thượng, hướng thiện, mà cái quả là xuất trần, cái cứu kính là an vui vĩnh cửu thì sự gia công, sức cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo dai vượt bực mới thành tựu được.
Hơn ai cả, đức Phật hiểu rõ sự quan trọng của sự tinh tấn, nên đã dạy bảo chúng ta trước khi đi sâu vào Ðạo, phải chuẫn bị những phương tiện cần thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm. Quyết tâm xa lánh điều dữ và thực hiện những điều lành. Ðó là ý nghĩa của Tứ Chánh Cần mà chúng ta đã học và đang thực tập.
-- o0o --