| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  CHUYỆN SỐ MỆNH
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  (Một câu chuyện lý thú ngộ nghĩnh)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Hòa thượng Thích Thiện Siêu
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                - 
                   
 
                - 
                GIỚI THIỆU CHUYỆN
 
                - 
                Sáng nay một đạo hữu 
                đem sách này trao tôi, nhờ đọc xem có tham phá Phật pháp không. 
                Sau khi đọc hết tôi nhận thấy trừ vài chi tiết, phần chủ yếu của 
                sách chẳng có chi trái nghịch Phật pháp, theo những nhận định 
                dưới đây:
 
                - 
                1. Sách đi từ thuyết 
                Số mệnh an bài, bất khả di dịch và vô căn cứ, đưa dần đến thuyết 
                Nghiệp báo phát xuất từ vọng tâm chúng sanh và có thể cải biến. 
                (Tất cả các pháp chỉ do vọng niệm mà có sai biệt, nếu rời vọng 
                niệm đi thì không có tất cả cảnh giới - Luận Khởi Tín). Nếu do 
                thuyết số mệnh người ta thường yên trí rằng giàu hay nghèo, sang 
                hay hèn, sướng hay khổ, thông hay dốt, thọ hay yểu đều do số 
                định, thì với thuyết Nghiệp báo cũng cho người ta sự yên trí 
                tương tự: khi gặp lành người ta liền bảo tại trước kia đã ở 
                hiền, khi gặp dữ người ta liền bảo vì kiếp xưa đã vụng đường tu. 
                Nhưng xét kỹ nội dung thuyết Nghiệp báo đã không giống với 
                thuyết Số mệnh ở chỗ có thể thay đổi tùy theo ý muốn của con 
                người vì số mệnh, hay đúng hơn phải nói là nghiệp báo không phải 
                ở đâu ngoài năng lực con người. Mỗi người chính là kẻ thụ hưởng 
                mà cũng chính là chủ nhân sáng tạo ra đời mình, ra số mệnh mình. 
                Số mệnh (cũng gọi là định mệnh) không phải là một tự nhiên mà là 
                một chế tạo của nhân duyên tâm hành.
 
                - 
                2. Sách phân tách rõ 
                ràng, khúc chiết các điều thiện đã được thi thố xưa nay, nhờ đó 
                ta có được một nhận định chân xác về tính chất các điều thiện tự 
                làm hoặc ở người khác làm, để có thể giúp ta bớt phần thắc mắc 
                đối với lý nhân quả báo ứng lắm lúc như vô căn cứ, mâu thuẫn. 
                Tại sao có người được thiên hạ cho là hiền lành lại hay lâm tai 
                họa trắc trở, còn kẻ bạo ngược hung tàn lại thường gặp điều tốt 
                đẹp thuận lợi?
 
                - 
                3. Sách chỉ cách 
                lường công xét tội, đem điều lành trừ tính điều ác để cầu tiến 
                bộ, làm cho điều lành nhiều hơn điều ác hầu đó biến cải nghiệp 
                cũ, ảnh hưởng thụ quả mới theo ý chí cố gắng của mình.
 
                - 
                4. Sách trình bày bốn 
                mục, toàn là lời tự thuật để khuyến giáo gia đình của ông Liễu 
                Phàm (người tỉnh Giang Tô, đời Minh, đậu tiến sĩ), song xét ra 
                tính chất vẫn là lời khuyên nhủ chung cho tất cả mọi người trên 
                đường hướng thiện với chủ tâm cải tiến cuộc đời mỗi ngày mỗi 
                xứng đáng hoàn hảo.
 
                - 
                Đạo hữu lại hỏi: Theo 
                Thuyết nghiệp báo, người ta có thể thay đổi vận mệnh tùy ý muốn, 
                song trên thực tế ai cũng cảm thấy mọi người như tuồng phải sống 
                theo dòng đời đã định sẵn, không tài nào cưỡng chống. Như thế mà 
                nói không phải do số mệnh định sao chịu vậy, số bắt phong trần 
                phải phong trần, thì là gì?
 
                - 
                Tôi đáp: Nghiệp có 
                định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp là nghiệp đã quy 
                hướng vào một chiều chờ thọ kết quả, hay đã thành quả, như do 
                bao nhiêu tiền nghiệp nhất định mà một chúng sanh phải sinh làm 
                người, và đã sinh ra làm người thì không thể biến đổi thành hình 
                thú hay tướng mạo phi thiên. Trong khi làm người vẫn mang trong 
                mình bao nhiêu nghiệp nhân chờ hưởng thụ quả báo hoặc giàu 
                nghèo, thông dốt, thọ yểu v.v... Trong những nghiệp nhân này lại 
                cũng có định và bất định. Nếu là nghiệp bất định, thì có thể cải 
                đổi tùy theo nặng nhẹ, cạn sâu, nếu là nghiệp định thì thật khó 
                lòng cải biến. Do đó dù trên nguyên tắc nghiệp báo có thể biến 
                cải, song lắm lúc người ta phải nhắm mắt xuôi theo như theo một 
                quyền năng khắc nghiệt khó cải chống. Nói khó cải bởi vì ít 
                người có được một tâm hạnh sáng suốt, quyết liệt, sâu xa, bền bỉ 
                tương xứng hoặc mạnh hơn nghiệp nhân đã đầy đủ sức để cải tạo 
                nó, vì lẽ đó không làm sao hòng biến cải những hành nghiệp đã 
                thành cố định? Chính trên phương diện này, khiến người ta khó 
                thể không lầm nhận nghiệp báo chẳng khác gì số mệnh là bao 
                nhiêu! Và nếu luận đến biệt nghiệp và cộng nghiệp thì còn có 
                thêm những lý lẽ để giải đáp cho câu hỏi trên.
 
                - 
                Đạo hữu lại hỏi: Thế 
                thì sách này có thể dịch in ra để phổ biến cho nhiều người cùng 
                đọc được không?
 
                - 
                Tôi đáp: cứ như ý 
                kiến vừa trình bày, sách này không ngại phổ biến cho nhiều người 
                cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ 
                Chánh pháp, mạnh dạn tiến trên đường hành thiện đúng với nhận 
                định chính xác luật nhân quả báo ứng hiển nhiên.
 
                - 
                Đạo hữu lại thiết tha 
                mong tôi chuyển ra Việt văn. Tôi chấp nhận. Với nội dung khuyến 
                thiện trên, tôi tin rằng những trang tiếp sau sẽ đem lại cho bạn 
                đọc nhiều lý thú.
 
                - 
                Phật lịch 2506 - 
                1962.
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                CHUYỆN SỐ MỆNH
 
                - 
                1. Cái Học Lập Mạng:
 
                - 
                Tôi bị mồ côi cha từ 
                nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học nghề 
                làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại 
                luyện tập một nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện 
                của cha mày khi trước.
 
                - 
                Sau đó, có một hôm 
                tôi đến lễ ch?#7915; Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng đẹp, 
                dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem lòng kính mộ. Cụ nói với 
                tôi: "Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đã 
                đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi trình 
                bày lý do và hỏi thăm tên họ quê quán của Cụ.
 
                - 
                Cụ bảo: Ta họ Khổng, 
                người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lý số trong sách 
                Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.
 
                - 
                Tôi liền dẫn Cụ về 
                nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đãi Cụ rất hậu, và 
                yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, thì quả nhiên từ 
                những việc mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi 
                nảy sanh ý muốn đọc sách, và đem chuyện bàn với người anh cô cậu 
                là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay có Úc Hải Cốc tiên sinh 
                đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới 
                đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học trò của thầy Úc Hải 
                Cốc.
 
                - 
                Khổng tiên sinh chấm 
                số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu thứ 
                71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi 
                đều có tên đậu đúng như lời đoán.
 
                - 
                Cụ lại đoán cả việc 
                lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy, năm 
                nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm 
                nào được bổ Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba 
                năm rưỡi lại nên cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu 
                ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người không con. Các lời 
                đoán này tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm mỗi 
                lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào 
                đều đúng như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều này làm tôi hơi 
                nghi là tiên sinh đoán tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số 
                91 thạch 5 đấu gạo thì được bổ Cống sinh, nhưng cập kỳ tôi mới 
                tiêu hết số gạo 71 thạch, đã được Đồ Tôn sư phê chuẩn cho tôi bổ 
                Cống sinh, nên tôi nghi điều này tiên sinh đoán sai, không ngờ 
                sau đó tôi bị quan đại lý Dương Công bác khước, phải kéo dài 
                thời gian mãi đến nãm Đinh mão mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển 
                văn thi của tôi tại khoa trường, khen rằng: Năm thiên sách này 
                chính là năm thiên tấu nghị lên triều đình, người có tài văn bài 
                thế này há lại để vùi lấp mãi ở chỗ song môn sao? Rồi ông trình 
                văn bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống 
                sinh. Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian này cộng với số 
                gạo 71 thạch khi trước thì vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai; 
                do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm 
                có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không còn để ý mong cầu một 
                điều gì.
 
                - 
                Sau khi bổ Cống sinh 
                tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu lại 
                kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư 
                gì cả. Qua năm Kỷ tỵ dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám, 
                tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi 
                chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề 
                nhắm. Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cõi đời sở dĩ không làm được 
                Thánh Hiền chỉ vì bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba 
                ngày mà không thấy khởi lên một niệm nào, là tại làm sao? Tôi 
                trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh chấm số, cho 
                biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có móng lòng 
                mơ tưởng điều gì cũng vô ích, vì vậy tôi không cần nghĩ tưởng 
                điều gì. Thiền sư cười: Lâu nay tôi đãi ông như bậc hào kiệt, 
                không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay! Tôi giựt mình, hỏi 
                Thiền sư cho biết lý do, Thiền sư dạy: những người chưa được 
                "không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng. 
                Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được 
                người cực thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay 
                trước số mệnh không chuyển đổi được tí gì, như thế, há không 
                phải phàm phu thì là gì? Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có 
                thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phước 
                chính ta tìm lấy. Đó là điều sách vở đã dạy đành rành. Kinh Phổ 
                Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con 
                gái, được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng 
                ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ-tát lại 
                khi cuống người đời mà nói ra câu ấy hay sao! Tôi hỏi tiếp: Thầy 
                Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều chính 
                nơi tâm mình có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa 
                thời có thể ra sức mong cầu, còn như công danh phú quí là đều 
                ngoài năng lực mình, làm sao mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy 
                Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe 
                ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước điền, 
                không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay 
                nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công 
                danh phú quý, hễ trong đạt được thì ngoài đạt được, nên càng 
                thấy rõ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu. Người nào không 
                chịu khó ngó lui mình để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi tìm 
                cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách tìm cầu thế nào chăng nữa, kết 
                quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu này hoài 
                công vô ích. Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong 
                phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo 
                tìm cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt thòi cả 
                hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa 
                cũng hỏng.
 
                - 
                Thiền sư lại hỏi tôi 
                về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi 
                điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông còn có 
                hy vọng thi đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: 
                Không thể. Người khoa giáp phải là người có phước tướng, còn tôi 
                chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền 
                tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ, 
                có khi còn cậy mình tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ gì làm nấy, 
                nói năng khinh suất dối trá, chẳng nể vì ai. Đấy toàn là những 
                tướng của kẻ bạc phước, làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả 
                lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong thì đâu 
                có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi 
                không con là phải; phàm khí tiết ôn hòa mới nuôi dưỡng muôn vật, 
                thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải; 
                phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà 
                xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hảo huyền, chẳng hề hy 
                sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa kể tôi 
                còn có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh, 
                tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết 
                tật xấu của tôi thì hẳn còn nhiều nữa...
 
                - 
                Thiền sư nói: Không 
                riêng gì một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian này 
                thảy đều nằm trong lý nhân quả. Những người có được sản nghiệp 
                trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng 
                đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là 
                người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết 
                đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó. Thế mà người đời 
                không nhận rõ lẽ này, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật 
                trời đất bất quá chỉ gia thêm những điều mình đã tạo sẵn, chứ 
                trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu. 
                Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có công đức trăm đời 
                thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp gìn giữ; người nào 
                có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, 
                hai đời kế tiếp gìn giữ, còn người nào tuyệt nhiên không con, ấy 
                là người chỉ có công đức mỏng manh vậy. Nay ông đã biết chỗ 
                khuyết điểm của mình, ông hãy tận tình gột bỏ cái tướng không 
                phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải 
                lo tích đức, phải mở lòng bao dung, phải giữ niệm hòa ái, phải 
                yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đã 
                chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đã sinh, được 
                vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lý đó.
 
                - 
                Cái thân xác thịt còn 
                có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lý này lại không cảm thông 
                cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm 
                ương nghiệt, mình có thể tránh, mình làm ương nghiệt không thể 
                nào tránh. kinh Thi nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng 
                chính là nói tự mình cầu được nhiều phước. Trước đây Khổng tiên 
                sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con, đó là 
                điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông 
                mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, mình 
                gây ra phước, há mình không được hưởng thụ hay sao?
 
                - 
                Dịch là bộ kinh mưu 
                tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử - hạng người 
                biết phản tĩnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai 
                tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, thì đâu có thể nói đến chuyện mưu 
                tính sưu các ty hung? Mở đầu kinh Dịch còn có câu: Nhà nào chứa 
                điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện chi gia tất hữu dư 
                khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?
 
                - 
                Tôi tin lời Thiền sư 
                nói, nên thành tâm bái lãnh. Tôi liền đến trước Phật đài tận 
                tình phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của mình, và dâng một sớ 
                bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba 
                ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của trời đất tổ tông.
 
                - 
                Thiền sư đưa bảng 
                "Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có công việc 
                thiện ghi vào, còn làm ra mấy việc ác thì thối trừ và gắng 
                chuyên trì chú Chuẩn-đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu 
                nghiệm.
 
                - 
                Thiền sư lại dạy 
                tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không 
                hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của 
                cách họa phù không chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà 
                thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải dũ 
                sạch muôn mối duyên lự trong lòng, tâm đừng khởi lên mảy may 
                tưởng nghĩ nào cả. Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một 
                chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp hơ bút họa viết, 
                không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành 
                linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng 
                phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn 
                tưởng khởi mới có cảm cách.
 
                - 
                Khi thầy Mạnh Tử luận 
                đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực tế ta 
                thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy 
                Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó 
                đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ 
                từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác 
                giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi 
                việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống 
                lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch 
                xảy ra trên suốt cả đời người.
 
                - 
                Đến như câu "Tu thân 
                dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy 
                điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
 
                - 
                Hễ tu được nhân đức 
                thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) 
                tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dày, 
                tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng 
                suông cầu cho được thế này thế kia mà được kết quả thế này, thế 
                kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng 
                để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất 
                động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
 
                - 
                Nay Ông chưa được 
                "không tâm", Ông hãy trì niệm chú Chuẩn-đề, cần niệm mãi không 
                gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, trì niệm đến khi nào được 
                thuần thục, trong trì niệm mà không trì niệm, trong không trì 
                niệm mà trì niệm, thì bây giờ được tâm không lay động, mà có sự 
                ứng nghiệm rõ ràng.
 
                - 
                Sau khi được Thiền sư 
                chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm, 
                vì từ đây đã hiểu cái lý nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn 
                để mình rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày 
                gìn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. 
                Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ 
                nay tôi đã biết lo gìn lòng giữ ý, cẩn thận từng khắc từng giờ, 
                dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, lòng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai 
                quấy, mắc tội với trời đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá 
                phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.
 
                - 
                Bước sang nãm sau, bộ 
                Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu 
                ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên 
                đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần này không 
                ứng nghiệm; và Tiên sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà 
                tôi đã đậu Cử nhân trong kì Hương thí mùa thu!
 
                - 
                Tuy nhiên tôi tự xét 
                việc hạnh nghĩa mình làm chưa thuần thục, sai sót còn nhiều. 
                Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi 
                cứu giúp người mà tâm còn do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành 
                mà miệng có nói ác, hoặc khi tỉnh thì tháo vác mà khi say lại 
                phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ với công, thì thấy 
                hẳn có nhiều ngày mình sống uổng! Tôi phát nguyện từ năm Kỷ Tỵ 
                và mãi đến năm Kỷ mão, suốt 10 năm, mới hoàn thành ba ngàn việc 
                thiện! Khi rời Lý Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, 
                tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh 
                thìn có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới thỉnh các Hòa thượng Thánh 
                Không, Huệ Không đến Đồng tháp Thiền đường chứng minh cho lễ hồi 
                hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành 
                khác để cầu sinh con, và đến năm Tân ttôi 
                đã may mắn hạ sinh một quý tử.
 
                - 
                Mỗi lần làm một việc 
                gì, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ 
                làm được việc gì thì lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một 
                khoanh tròn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng 
                sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh. Sang tháng tám năm 
                Quí mùi, tính lại đủ số ba ngàn điều lành, sau khi đã khấu trừ 
                các điều ác. Tôi lại thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không 
                đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát 
                nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu thì đậu Tiến sĩ, quả 
                nhiên năm Bính tuất tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Đê.
 
                - 
                Trong lúc làm Tri 
                huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là Trị 
                Tâm Thiền (sách sửa lòng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao 
                lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm 
                được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rõ ràng vào 
                sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Đào 
                thắp hương cáo với trời đất (1). Vợ tôi thấy đã lâu mà chẳng làm 
                được bao nhiêu việc lành, mới châu mày buồn bã nói: Trước Ông ở 
                nhà có tôi giúp sức, nên Ông đã làm đủ ba ngàn điều lành theo sở 
                nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công 
                đường chẳng có việc gì để làm, thì biết bao giờ Ông mới làm đủ 
                số ấy.
                
                
 
                - 
                Đêm đó, mộng thấy một 
                Thần nhân, tôi mới than thở về lý do khó là đủ các điều lành 
                minh đã hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế 
                cho dân của Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. 
                Nghe lời Thần nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ mình có làm việc đó 
                thật. Vì khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Đê, mỗi mẫu phải 
                đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi 
                đã khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào. 
                Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có 
                thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như 
                Thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi đem chuyện nằm mộng ra hỏi 
                có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, 
                thì một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi 
                giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng 
                một số tiền lương, nhờ Thiền sư đem về Ngũ Đài trai Tăng một vạn 
                vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
 
                - 
                Khổng tiên sinh trước 
                kia đoán tôi đến nãm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm đó chẳng 
                có gì xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay thì 
                tuổi tôi đã 69 rồi. Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, 
                mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. 
                Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết chắc rằng, 
                họa phúc đều phải cầu ngay nơi mình, đó mới thật đúng ý của 
                Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời, thì 
                đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
 
                - 
                Hiện tại số mệnh mỗi 
                người thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy 
                tưởng như gặp điều không vừa ý, đang khi được thuận lợi hãy 
                tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hãy tưởng 
                là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hãy tưởng khi bị 
                khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hãy tưởng như mình ở 
                hạng thấp hèn, đang khi có chút học vấn uyên thâm hãy tưởng mình 
                còn thiển cận. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế 
                tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ mà tìm cách 
                bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài 
                thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác chính mình. 
                Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu 
                một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho 
                mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không 
                tiến bộ.
 
                - 
                Hạng người thông minh 
                tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng 
                lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình 
                trệ, an phận dật dờ gặp chãng hay chớ mà thôi!
 
                - 
                Cái thuyết lý an thân 
                lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật là chí 
                tình, chí lý, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành 
                sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                2. Hối Cải Lỗi Lầm
 
                - 
                Những quan đại phu 
                thời Xuân Thu, thường quan sát sự nói năng hành động của mọi 
                người để đoán định điều họa phúc của họ, phần nhiều đúng nghiệm 
                cả. Những điều này đều có ghi trong các bộ Tả truyện, Quốc ngữ, 
                hãy đọc đến tất thấy. Hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều 
                manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân. Nếu một người 
                thiên hẳn về phúc hậu họ thường gặp phước, một người thiên hẳn 
                về khắc bạc họ thường mang họa. Song người phàm mắt tục ít ai 
                thấy rõ điều này, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó 
                lường!
 
                - 
                Hễ người nào đem tâm 
                thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân 
                lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. 
                Cứ xem ở điều lành điều ác của họ làm, người ta cũng biết trước 
                việc đó. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn 
                cải quá, trước khi nói tơi việc làm lành.
 
                - 
                Theo pháp cải quá, 
                đầu tiên phải có tâm biết hổ thẹn, nghĩ rằng ta cũng là bậc 
                trượng phu nam tử như cổ Thánh tiên Hiền, thế sao các ngài làm 
                thầy cả thiên hạ, được muôn đời tôn thờ, còn ta lại cứ lẹt đẹp 
                thấp hèn một đời ngói bể, cứ lo say đắm dục tình, thầm lén làm 
                điều bất nghĩa, còn cho là không ai biết, Vễnh mặt ngạo nghễ 
                không chút thẹn thùng, đến đổi mỗi ngày mỗi sa đọa xuống hàng 
                cầm thú mà không tự biết, thật chẳng còn chi hổ nhục cho bằng! 
                Thầy Mạnh Tử nói: Điều lớn lao khẩn yếu nhất đối với con người 
                là tâm biết hổ. Vì rằng hễ người nào giữ được tâm đó thì trở nên 
                Thánh Hiền, kẻ nào bỏ mất tâm đó thì chẳng khác chi cầm thú. Cho 
                biết tâm hổ thẹn là động cơ chính trong việc cải quá tự tâm.
 
                - 
                Thứ hai, phải có tâm 
                sợ hãi. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên 
                mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có 
                phạm tội lỗi nhỏ nào, người đời đều không thấy, Thánh thần đâu 
                có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì 
                giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ 
                hãi.
 
                - 
                Chẳng những thế thôi, 
                ngay lúc nhàn cư, thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu 
                những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế 
                nào, oan trường vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống 
                chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, 
                như vậy há không đáng cẩn thận sao?
 
                - 
                Vả lại, khi còn hơi 
                thở, dù có gây ác tày trời vẫn còn mong hối cải, nên lắm người 
                một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm 
                thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an 
                lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm 
                năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, tối 
                kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, 
                miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Trần thế vô thường, 
                mạng người chẳng mất, khi hơi thở ra không vào, dù muốn hối cải 
                chẳng kịp nào. Kẻ làm ác đã phải mang tiếng ác suốt trăm ngàn 
                năm trên dương thế, không con hiền cháu thảo nào rửa sạch, lại 
                phải chịu ngục báo trầm luân muôn vạn đời, dù Thánh hiền, Phật, 
                Bồ-tát cũng khó lòng cứu vớt. Như thế là không kiêng sợ được ư?
 
                - 
                Thứ ba, phát tâm dõng 
                mãnh: những người không ăn năn hồi quá, phần nhiều là những 
                người dần dà có tánh thụt lui. Biết vậy, ta cần phải dũng mãnh 
                hăng hái, đừng nên do dự, đừng nên chần chờ, hãy xem tội nhỏ như 
                bị mũi nhọn châm làm thúi thịt, mau mau khoét vất, sợ tội lớn 
                như bị rắn độc cắn tay, mau mau cắt bỏ, không được trì trễ phút 
                nào. Càng trễ càng nguy, càng mau càng có lợi.
 
                - 
                Những người có đủ ba 
                thứ tâm nói trên, dù có tội lỗi đến đâu vẫn cải đổi được như 
                băng sương gặp ánh mặt trời làm sao không tan biến. Nhưng nên 
                biết có những tội lỗi được cải đổi do việc làm thực sự, có những 
                tội lỗi được cải đổi do triệt ngộ đạo lý, có những tội lỗi được 
                cải đổi do tận tâm. Công phu không đồng nên hiệu quả cũng khác. 
                Chẳng hạn ngày trước sát sanh nay sẽ răn dè đừng giết, ngày 
                trước nóng giận nay phải răn dè đừng nóng... đó là cách hối lỗi 
                do việc làm thực sự. Lối này chỉ mới là lối cưỡng chế bên ngoài, 
                khó lòng sạch tội, vì bệnh căn còn chất chứa trong lòng, thì tội 
                dù diệt bên Đông lại mọc bên Tây, nên lối cải quá này chưa phải 
                là hoàn hảo cứu cánh. Vậy muốn dứt lỗi triệt để, trước khi cưỡng 
                chế sự việc phải thấu rõ đạo lý. Như muốn chừa bỏ tội sát sanh 
                trước hãy rõ lẽ này:
                
                
 
                - 
                Trời đất vốn hiếu 
                sinh, muôn loài đều tiếc mạng, giết vật để nuôi mình, làm sao 
                yên lòng được. Vật bị giết đã đành phải chịu cắt xẻ, nếu đau đớn 
                tận xương tủy, ảo não muôn phần, mà ta ăn vào dù béo bổ ngon bùi 
                đến đâu hễ nuốt khỏi cổ liền trở thành đồ hôi thối rồi tiêu ma, 
                chi bằng rau dưa vẫn no bụng, còn tránh khỏi cái tội sát sanh 
                làm tổn phước mình không ít.
 
                - 
                Vả chăng, phàm là 
                loài huyết khí đều có tính linh tri, đã có tính linh tri thì 
                cùng ta không khác (vật ngã nhất thể). Ví bằng không thực hành 
                nổi những điều chí đức khiến chúng nó kính ta, thân ta, thì cũng 
                chớ nên mỗi ngày sát phạt sinh linh, khiến chúng nó mãi oán ta 
                thù ta đời kiếp! Người nào đã nghĩ được như thế thì dẫu muốn 
                giết vật ăn thịt, cũng thấy thương tâm chẳng ham ăn nữa.
 
                - 
                Lại nếu muốn trừ bỏ 
                tật hay nóng giận thì trước hãy suy nghĩ: Người có chỗ hư hỏng 
                không bằng ta là người đáng thương, còn người trái lẽ xâm phạm 
                ta, lỗi ấy thuộc về họ, chớ ta can dự gì mà nổi cơn giận dữ. 
                Huống hồ trong thiên hạ không đáng hào kiệt nào là người nặng 
                tánh tự thị, cũng không bậc học thức nào là người hay oán trách 
                tha nhân, vì họ biết rõ việc mình làm không thành là bởi đức tu 
                của mình chưa thấu đáo, cho cảm ứng chưa tới nơi, họ luôn luôn 
                phản tĩnh, nên đối với họ dù gặp những điều hủy báng, cũng xem 
                như cơ hội tốt để mà luyện tâm đức, mà luôn luôn hoan hỷ đón 
                nhận không hề phẫn nộ. Khi nghe lời hủy báng mà không phẫn nộ 
                thì dù ngọn lửa bài báng cao ngất trời xanh cũng tự nhiên tắt 
                biến như phóng lửa đốt hư không. Trái lại hễ nghe lời dèm chê 
                vội nóng giận thì dù có khôn ngoan xảo biện đến đâu, cũng chỉ 
                như tằm xuân kéo kén, càng kéo lại càng buộc chặt mình. Nóng 
                giận, chẳng những vô ích mà còn gây nên tai hại đến thế.
 
                - 
                Ngoài các tính nóng 
                giận còn bao nhiêu tính xấu khác đều có thể suy biết, và hễ rõ 
                thấu lẽ này thì tội lỗi nào cũng trừ diệt được.
 
                - 
                Thế nào là tội từ tâm 
                cải? Tội lỗi vô vàn đều do tâm tạo, tâm không vọng động thì tội 
                lỗi dựa vào đâu phát sinh? kẻ học thức không cần phải phanh tìm 
                từng bệnh hiếu sắc, hiếu danh, hiếu tài, hiếu nộ, nhưng chỉ cần 
                nhất tâm hành thiện, giữ gìn chánh niệm tự khắc tiêu tan như 
                vầng thái dương chiếu giữa hư không, mọi thứ ma mị đều bặt dấu. 
                Tội lỗi do tâm tạo tất cũng do tâm cải đổi, như muốn chặt cây 
                độc, chỉ chặt ngay gốc nó, chớ cần chi phải tỉa từng nhánh lá 
                nhọc công lâu lắc.
 
                - 
                Đại để cách đối trị 
                tâm bệnh hay nhất là giữ lòng cho thanh tịnh. Hễ tâm vừa móng 
                động liền giáo biết, biết tất liền tiêu. Hoặc nó không tiêu, hãy 
                quán xét lý lẽ nói trên để trừ đoạn, nếu cũng không trừ được, 
                thì lại lấy sự để cấm chỉ. Trước lo tu tâm sau lo khởi công hạnh 
                sự. Như thế mới là lối sửa chữa tội lỗi đắc sách nhất.
 
                - 
                Khi phát nguyện cải 
                quá cần phải nhờ thiện hữu đề huề, cầu Hiền Thánh chứng tri. 
                Nhất tâm sám hối ngày đêm không giải đãi, trải qua một thất (bảy 
                ngày), hai thất, cho đến một tháng, ba tháng, tất sẽ có hiệu 
                nghiệm rõ ràng, hoặc tự thấy tâm thần thoải mái, trí tuệ mở 
                mang, hoặc đang trong chỗ phiền toái rối ren mà gặp đâu thông 
                suốt đó, hoặc gặp oán cừu mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy 
                khạc nhổ vật đen, mộng thấy được các bậc Thần, Thánh, Tiên, Hiền 
                đề huề tiếp dẫn, hoặc mộng thấy bay đi giữa hư không, mộng thấy 
                tràng phan bảo cái đưa rước, tóm lại là gặp được các chuyện tốt 
                lành nhờ lỗi tiêu, tội diệt hiện ra. Tuy nhiên, không được cố 
                chấp lấy đó để tự cao tự đại, lãng quên bề tiến hóa.
 
                - 
                Xưa ông Cừ Bá Ngọc, 
                đang lúc 20 tuổi đã biết xét tội lỗi lúc thiếu thời để lo chừa 
                bỏ, đến lúc 21 tuổi vẫn thấy rõ lỗi trước chưa sạch, đến 22 tuổi 
                lại thấy lúc 21 tuổi còn như kẻ ở trong mộng. Cứ mỗi năm lại mỗi 
                năm, ông không ngớt cải đổi, đến lúc 50 tuổi ông còn thấy gì sai 
                quấy lúc 49 tuổi. Cái lối cải quá của người xưa như thế thật 
                đáng phục thay! Chúng ta hiện mang thân phàm tục, tội ác dập 
                dồn, thế mà ít ai xét thấy, đó phải chãng là vì tâm còn thô và 
                mắt bị lòa? Dù thấy không thấy mặc lòng, hễ đã tạo tội ác sâu 
                dày tất không tránh khỏi những điều bất hảo, hoặc tâm thần hôn 
                muội, chưa nhớ đã quên, hoặc thường sinh phiền não dẫu không 
                việc gì xúc động, hoặc gặp người quân tử thì hoảng sợ mặt đỏ hồn 
                tiêu, hoặc chẳng ưa nghe lời hay lẽ phải, hoặc giúp người mà lại 
                bị người oán, hoặc mộng thấy điên đảo, đến nỗi nói cuồng thất 
                chí... đó toàn là các tướng quái nghiệt của tội ác hiện ra, 
                người nào gặp cảnh như thế này cố gắng dõng mãnh cải quá tự tân, 
                may ra mới khỏi điều mê hoặc.
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                3. Chứa Đức Làm Lành
 
                - 
                Kinh Dịch nói: Nhà 
                nào chứa lành sẽ có dư phúc. Xưa nhà họ Nhan trước khi muốn gả 
                con gái cho Thúc Lương Ngột đã không quên tra xét công việc chứa 
                đức của Tổ tông nhà ấy để suy xét con cháu về sau chắc chắn hưng 
                xương. Đức Khổng Tử có lời khen vua Thuấn là đại hiếu rằng: Ông 
                Thuấn mà tế Tổ tông thì Tổ tông chứng hưởng, phước để con cháu 
                thì con cháu được trông nhờ.
 
                - 
                Ông Thiếu sư Dương 
                Vinh người đất Kiên Ninh, nhà đã nhiều đời sống với nghề đưa đò, 
                có một lần xảy ra cơn mưa lụt nước ngập tràn phá hại dân cư, 
                nhiều người bị trôi theo dòng nước. Trong lúc đó, mọi kẻ khác lo 
                bơi thuyền vớt của, riêng ông cố và ông nội của Thiếu sư lại lo 
                tìm vớt người, chẳng chút để tâm tới tài vật, người chung quanh 
                thấy thế chê là ngu, nhưng từ ngày thân phụ Thiếu sư ra đời, nhà 
                ông dần dần thịnh vượng. Có một Thần nhân gia hình Đạo sĩ đến 
                nói với ông rằng: Tổ phụ nhà người có âm đức, con cháu sẽ nên 
                quý hiển. Quả thật sau sinh Thiếu sư, mới 20 tuổi đã đậu đại 
                khoa, làm quan tới chức tam công, và cả ông cố, ông nội và thân 
                phụ của Thiếu sư đều được phong chức quan lớn. Ai cũng biết dòng 
                dõi nhà này đến nay vẫn phát nhiều người hiền tài xuất chúng.
 
                - 
                Ông Dương Tự Trưng, 
                người huyện Cần, lúc đầu được làm huyện Lại, giữ lòng nhân hậu, 
                xử đoán công minh, nhân một lần ông gặp quan Tri huyện đánh khảo 
                một tên tù máu tuôn lai láng mà vẫn chưa đã giận. Dương Tự Trưng 
                mới quỳ gối khuyên giải, ông Tri huyện trả lời: Những kẻ làm 
                điều vượt pháp trái lẽ thế này, khiến ai không giận được. Dương 
                Tự Trưng cúi đầu nói: quan trên đã bỏ rơi pháp luật, khiến dân 
                lý tán lâu ngày rồi, nay giả sử quan huyện xét thấy người kia 
                quả có tội phạm, động lòng thương xót buồn bã, thế mà xử trị sợ 
                còn chưa được công minh, huống lại nổi giận đùng đùng, làm sao 
                công minh được. Nghe câu ấy quan huyện liền dịu lòng thôi giận.
 
                - 
                Dương Tự Trưng tuy 
                nhà rất nghèo, nhưng ai tặng biếu gì cũng không nhận. Hễ gặp tù 
                nhân thiếu thốn ông thường tìm cách giúp đỡ. Một lần nọ có vài 
                người tù đang đói đến xin, gặp lúc nhà ông thiếu gạo, nếu giúp 
                cho tù thì người nhà phải nhịn đói, còn để cho người nhà ăn thì 
                cảnh tù đói đáng thương, ông mới thương lượng với vợ. Vợ ông 
                hỏi: Các người tù ấy đâu đến? Ông đáp: Từ Hàng Châu đến. Nhận 
                thấy họ đi xa đói khát, mặt mày xanh xao hốc hác đáng thương, vợ 
                chồng ông liền đem phần gạo của mình nấu cháo cho họ ăn. Về sau 
                hai vợ chống sinh được hai trai, một tên Thủ Trần, một tên Thủ 
                Chí. Cả hai đều làm quan tới chức Lại bộ tả hữu thị lang. Cháu 
                trưởng làm Hình bộ thị lang, cháu thứ làm chức Liêm hiến tỉnh Tứ 
                Xuyên, toàn là những vị triều thần tên tuổi còn để tiếng đời 
                nay.
 
                - 
                Khoảng niên hiệu 
                Chánh Thống đời Minh, có Đặng Mậu Thất nổi loạn tại tỉnh Phúc 
                Kiến, sĩ dân trong xứ theo rất đông, triều đình cử quan Ngự sử 
                Trương Giai dùng mưu bắt giặc, sau ông này lại ủy quan Bố chánh 
                họ Tạ làm chức Đô sự tìm giết đảng giặc. Tạ xét trong sổ hễ thấy 
                người nào nghi không thực sự oan phạm, thì âm thầm trao cho một 
                lá cờ nhỏ vải trắng, dặn khi nào quân binh đi đến thì cắm cờ ấy 
                ra trước cửa, đồng thời ra lệnh cho quân lính không ai được giết 
                càn, nhờ đó hàng vạn người sống sót khỏi bị chết oan. Về sau con 
                của Tạ là Thiên, thi đỗ Trạng nguyên, làm Tể tướng, cháu Tạ tên 
                Phỉ, thi đỗ Thám hoa.
 
                - 
                Nhà họ Lâm ở huyện 
                Phố Điển, nhiều đời trước trong nhà có một là lão ưa làm việc 
                thiện. Bà thường lấy bột gạo làm thành từng vắt để bố thí. Hễ ai 
                đến xin là cho, không hề tỏ vẻ buồn chán. Có một vị Đạo nhơn 
                hằng ngày đến xin sáu, bảy vắt, bà lão vẫn vui lòng cho, suốt ba 
                năm liền như thế. Vị Đạo nhân biết bà ta thật có lòng thành, mới 
                bảo rằng: Tôi ăn của bà suốt ba năm, bây giờ biết lấy gì báo 
                đáp, thôi tôi chỉ cho bà biết ở sau phủ bà ở có chỗ đất tốt, bà 
                hãy dặn con cháu say này đem bà đến đó, chôn, tất con cháu sẽ 
                phát tước lộc lớn. Về sau con cháu y lời dặn chôn bà. Quả thật 
                đời thứ nhất có tới chín người đỗ đạt, và tiếp tục nhiều đời nhà 
                này trở thành một nhà thế kiệt trâm anh, đến đỗi tại tỉnh Phúc 
                Kiến có câu ca dao: Thiếu mặt người họ Lâm thì bảng vàng không 
                nở.
 
                - 
                Tóm lại những điều 
                trên, tuy thi hành với nhiều lối, nhưng rốt lại đồng là việc 
                thiện. Những việc thiện này nếu gia tâm xem xét kỹ sẽ thấy có 
                chân có giả, có thẳng có công, có âm có dương, có thị có phi, có 
                thiên có chánh, có nửa có toàn, có lớn có nhỏ, có khó có dễ. Nếu 
                làm lành mà không thấu đạt lý lẽ này, nhiều khi khổ công nhọc 
                trí, chẳng đem lại lợi ích gì.
 
                - 
                Việc lành có chân có 
                giả là thế nào? Xưa có mấy Nho sinh đến hỏi Trưởng lão Trung 
                Phong Hòa thượng rằng: Nhà Phật dạy điều thiện ác báo ứng như 
                bóng theo hình, nhưng tại sao hiện thấy có những người làm lành 
                mà con cháu không phát đạt, còn những người làm ác mà gia đình 
                thịnh vượng, thế Phật nói nhân quả chẳng có bằng cớ gì xác đáng? 
                Hòa thượng Trung Phong trả lời: Vì phàm tình chưa sạch, chánh 
                nhãn chưa bày, người đời thường nhận lầm thiện ra ác, ác ra 
                thiện, ít ai biết tự trách điều thị phi điên đảo của mình. Mấy 
                Nho sinh nói: Thiện là thiện, ác là ác, làm sao tương phản được? 
                Hòa thượng bảo họ chỉ cho xem ít việc. Một người nói: đánh mắng 
                người là ác, kính trọng người là thiện. Hòa thượng nói: không 
                hẳn như thế. Một người khác nói tiếp: Tham tài vọng phú là ác, 
                liêm khiết thủ thường là thiện. Hòa thượng vẫn nói: Không hẳn 
                như thế. Mấy Nho sinh lần nữa nói đủ tướng trạng thiện ác. Hòa 
                thượng vẫn một mực: Không hẳn thế. Nhân đó mấy Nho sinh cầu ngài 
                chỉ dạy. Ngài dạy: giúp ích người gọi là thiện, chỉ vì ích mình 
                gọi là ác. Vì giúp ích người cho nên dù có đánh mắng cũng vẫn là 
                thiện, trái lại chỉ vì ích mình nên dù có kính trọng người cũng 
                vẫn là ác (1). Vì vậy người làm thiện đem lại ích lợi cho người 
                là công, mà công tức là chân, còn vì lợi mình ấy là tư, mà tư 
                tức là giả. Lại việc thiện tự lòng phát ra là chân, tập theo 
                thói cũ là giả, không trước tướng mà làm chân, trước tướng mà 
                làm giả...
 
                - 
                Việc lành có thẳng có 
                cong là thế nào? Thế thường thấy kẻ mềm mỏng lừ đừ không khí 
                khái quật cường, ai cũng hoan hỉ cho là người lành, nhưng Thánh 
                nhân lại ưa hạng người có chí khí cao xa, hoặc an phận thủ kỹ, 
                vì hạng này dễ khai hóa, còn hạng trên tuy được mọi người khen 
                tặng, xét kỹ họ chỉ là giặc của nền đạo đức tiến bộ. Thiện ác 
                của người đời tương phản với thiện ác của Thánh nhân như thế, đủ 
                thấy những điều thiện ác thủ xả theo chỗ nhận xét của thế thường 
                làm sao không bị sai lạc! Vậy nên người nào muốn tích tập thiện 
                căn, quyết không thể bằng vào các điều thiện ác bề ngoài mắt 
                thấy tai nghe, nhưng cốt ở chỗ ẩn nhiệm của tâm tư, lo vun bồi 
                gột rửa. Nếu quả thật thuần có lòng cứu người giúp đời ấy là 
                thẳng, còn hễ xen vào mảy may mị thế là cong, thuần một lòng yên 
                người là thẳng, hễ xen chút ghét giận là cong, thuần một lòng 
                kính người là thẳng, còn xen vào ý nghĩ cốt làm đẹp lòng người 
                là cong....
 
                - 
                Việc lành có Âm có 
                Dương là thế nào? Phàm làm việc lành mà người ngoài biết được là 
                dương thiện, làm việc lành mà người ngoài không biết được là âm 
                đức. Âm đức được phúc báo, dương thiện hưởng danh thơm. Nhưng 
                danh thơm thường khi là điều đáng húy kì 
                xưa nay biết bao nhiêu người vì háo danh thành thử bị danh làm 
                hại, lâm vào cảnh tai họa, ngược lại những người không tội lỗi 
                mà cứ bị thiên hạ chê oan, thì lắm lúc con cháu họ được phát 
                đạt. Cái lẽ âm dương như thế, phải để tâm nhiều mới hiểu hết.
 
                - 
                Việc làm có thị có 
                phi là thế nào? Nước Lỗ có lệ hễ người nào bỏ tiền chuộc người 
                nước Lỗ khỏi tay các chư hầu địch thì được lãnh lại số tiền tại 
                quan phủ. Tử Cống giàu có, bỏ tiền ra chuộc được nhiều người 
                song không chịu lãnh lại số tiền vì ông thầm nghĩ mình chỉ làm 
                việc nghĩa mà thôi. Đức Khổng Tử nghe được chê Tử Cống là sai, 
                vì đại phàm bậc Thánh nhân làm gì cũng cốt hy vọng cải tiến thói 
                đời thế tục, giúp cho ai nấy làm theo, chớ không phải cốt để 
                thỏa chí riêng mình. Hiện nay trong nước Lỗ người giàu ít, người 
                nghèo đông, nếu cho rằng kẻ nào chuộc người rồi còn trở lại lãnh 
                tiền ở quan phủ là không liêm chính, thì chắc từ này không còn 
                mấy ai dám nghĩ tới việc chuộc người khỏi tay địch nữa! Thầy Tử 
                Lộ vớt người bị đắm, được người ta tạ ơn một con trâu. Đức Khổng 
                Tử nghe được mừng rằng: Từ này nước Lỗ sẽ có nhiều người để ý 
                vớt kẻ chết chìm.
 
                - 
                Cứ lấy mắt thường 
                tình mà xem, việc Tử Cống không nhận tiền bồi thường là cao quí, 
                Tử Lộ nhận trâu là thấp hèn, nhưng Đức Khổng Tử lại khen Tử Lộ 
                mà chê Tử Cống. Cho biết khi làm lành không nên kể sự trạng 
                trước mắt mà nên kể ảnh hưởng lan truyền sâu xa, không nên kể 
                một thời mà nên kể đến lâu dài, không nên kể một thân mình mà 
                nên kể cả thiên hạ. Những việc đang làm tuy là thiện nhưng nếu 
                lưu tệ tại người thì đó là tợ thiện chớ không phải chơn thiện, 
                những việc đang làm tuy như bất thiện mà lưu ích giúp người thì 
                nó in tuồng phi thiện mà thật ra là thiện. Cứ thế suy rộng ra 
                những điều nghĩa phi nghĩa, lễ phi lễ, tín phi tín, từ phi từ, 
                đều không ngoài cách thức đó.
 
                - 
                Việc lành có thiên có 
                chánh thế nào? Xưa ông Lã Công là người đức độ, cả nước đều kính 
                ngưởng ông như Thái Sơn Bắc Đẩu, sau khi từ chức Tể tướng về ở 
                quê nhà, một hôm có người say rượu đến mắng ông dữ dội, ông vẫn 
                thản nhiên và bảo người nhà đóng cửa lại, không nên cạnh tranh 
                với kẻ say. Năm sau người ấy vì say phạm tội sát nhân bị bắt bỏ 
                ngục. Lã Công biết được ân hận lắm: Cơ chi năm trước nó đến mắng 
                ta, ta cho nó vài hèo rồi bắt tống giam quách để trị, chắc nó 
                được tránh khỏi mối đại họa hôm nay. Nhưng lúc đó chỉ nghĩ việc 
                bảo tồn tâm nhân hậu, không ngờ đó là cách dưỡng ác cho nó, nên 
                nỗi ngày nay nó mới ra người phạm trọng tội (1). Đây là một việc 
                chứng tỏ trong tâm lành mà hành sự ra ngoài ác. Lại có khi đem 
                tâm ác mà hành sự ra ngoài lành, như có nhà nọ rất giàu, gặp năm 
                đói khó, đem lúa ra chợ bán, bị dân nghèo cướp ngay giữa chợ, 
                nhà nọ cáo quan, quan bỏ qua không xử, dân nghèo được thế làm 
                già, nhà ấy rình bắt ít tên làm khổ nhục, bấy giờ cả bọn mới 
                chịu yên, nếu không thì đã loạn cả chợ. Cho hay thiện là chánh 
                mà ác là thiện, điều ấy ai cũng biết, nhưng ít người để ý tới có 
                khi tâm lành mà hành sự lại ác, thì việc lành đó là thiên trong 
                chánh chớ không phải chánh trong chánh, có khi tâm ác mà hành sự 
                lại lành, thì việc lành đó lại là chánh trong thiên chớ không 
                phải thiên trong thiên.
 
                - 
                Việc lành có nửa, có 
                toàn là thế nào? Kinh Dịch có câu: không chứa lành không đủ để 
                nên danh, không chứa ác không đủ để diệt thân. Kinh Thi nói: Tội 
                nhà Thương như xâu tiền đầy. Chứa lành chứa ác như chứa vật vào 
                kho, hễ siêng chứa thì đầy, nhát chứa thì lưng, sư đã quá rõ 
                ràng vậy. Xưa có người đàn bà vào Chùa, muốn cúng mà nghèo, chỉ 
                được có hai tiền đem cúng, vị Trú trì thân hành làm lễ kỳ 
                nguyện, sau bà ấy được đưa vào chỗ sang giàu, lại đem vài ngàn 
                lượng vàng vào chùa cúng, lần này vị trú trì sai đồ chúng làm 
                lễ. Bà ta lấy làm ngạc nhiên hỏi: Ngày trước tôi chỉ cúng có hai 
                tiền mà ngài thân hành lễ sám, nay tôi cúng tới đôi ngàn lượng 
                vàng sao ngài lại không thân hành lễ sám cho tôi? Vị trú trì 
                đáp: ngày trước vật tuy đạm bạc mà lòng rất chân thành, phi lão 
                Tăng lễ sám không đủ để báo đức bà, nay vật tuy hậu song tâm 
                cúng dường không thiết tha bằng trước, nên người thay lão Tăng 
                làm lễ cũng đủ rồi. Ấy, ngàn vàng là nửa là lưng, mà hai tiền là 
                toàn là đầy vậy.
 
                - 
                Lại, Tiên Chung Ly 
                khi trao dạy phép luyện đơn cho Lã Tổ có dặn rằng: Khi đơn luyện 
                thành có thể đem chấm trên tiền thì tiền biến ra vàng, giúp cho 
                người nghèo khổ tiêu dùng được. Lã Tổ hỏi: cuối cùng nó có biến 
                mất không? Chung Ly đáp: Sau năm trăm năm nó biến lại tiền như 
                cũ. Lã Tổ nói: như thế thì hại cho người ở đời sau khoảng năm 
                trăm năm, tôi thề không làm điều đó. Chung Ly khen: Pháp tu tiên 
                cần phải chứa đủ ba ngàn công hạnh, nay ngươi nói được câu đó 
                thì ba ngàn công hạnh ngươi đã đủ rồi. Đây lại một cách xét việc 
                lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
 
                - 
                Lại làm lành mà tâm 
                không chấp trước thì mỗi việc đều được viên mãn, trái lại tuy 
                làm suốt đời mà việc lành cũng chỉ có được một nửa. Ví như đem 
                của giúp người mà trong không thấy mình giúp, ngoài không thấy 
                người nhận, trung gian không thấy vật đem giúp thì được gọi là 
                bố thí tam luân không tịch hay nhất tâm thanh tịnh. Bố thí như 
                vậy, dù một Lon gạo cũng có thể gây vô lượng phước, một đồng bạc 
                có thể tiêu ngàn kiếp tội. Nhược bằng tâm khư khư chấp trước, 
                thời tuy bố thì từng thoi vàng, phước đức cũng chỉ có được một 
                nửa. Đây lại một cách xét việc lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
 
                - 
                Việc lành có lớn có 
                nhỏ là thế nào? Xưa có ông Vệ Trọng Đạt làm quan Hàng Lâm, nhân 
                một hôm mộng thấy Minh Quan bắt về âm phủ, Phủ quan sai lại dịch 
                đem trình hai bản ghi thiện ác, thấy bản ghi ác chất một đống 
                to, còn bản ghi thiện chỉ bằng chiếc đũa, nhưng đem cân thì một 
                đống to lại nhẹ, mà bằng chiếc đũa lại nặng. Trọng Đạt ngạc 
                nhiên nói: Tôi chưa đầy 40 tuổi, có đâu đã làm nhiều ác đến thế. 
                Minh Quan đáp: một niệm bất chính là ác rồi, không đợi phải hành 
                phạm. Trọng Đạt bèn chỉ cuốn giấy và hỏi: Trong cuốn giấy bằng 
                chiếc đũa kia ghi gì? Minh Quan đáp: Triều đình hưng đại công 
                làm cái cầu đá ở Tam Sơn, người đã dám thượng sớ can ngăn việc 
                ấy. Cuốn giấy này là bản sớ của ngươi. Trọng Đạt nói: Tôi tuy có 
                sớ can nhưng triều đình bác bỏ, chẳng bổ ích gì thực sự, làm sao 
                nó có hiệu lực thế kia? Minh Quan nói: triều đình không cứ mặc 
                dù, song một niệm lành của ngươi đã làm cho muôn dân cảm mến, 
                giả sử triều đình khi ấy chấp cứ, thời việc tốt của ngươi càng 
                lớn lao hơn nữa. Cho hay hễ chí để vào thiên hạ quốc gia thời 
                việc lành tuy nhỏ mà lớn, nếu chí để vào bản thân thời việc lành 
                tuy nhiều vẫn ít, (việc ác cũng thế).
 
                - 
                Việc lành có khó có 
                dễ là thế nào? Tiên Nho thường nói: muốn khắc kỷ phải bắt đầu 
                khó. Đức Khổng Tử khi luận cập điều nhân cũng nói trước phải khó 
                khăn, nghĩa là phải trừ khử tư tâm. Chẳng hạn như ở Giang Tây có 
                Thư Lão Ông làm nghề dạy học, nhân gặp một người nghèo thiếu 
                tiền quan, vợ người ấy sắp bị quan bắt làm tôi tớ, Thư Lão Ông 
                liền bỏ số tiền nhập học của học trò mà ông đã dồn được trong 
                hai năm ra chuộc, nhờ đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán. 
                Trương Lão Ông ở tỉnh Trực Lệ, nhân gặp một người bị nợ khốn, 
                phải đem cầm vợ con. Lão Ông liền bỏ số tiền mình dồn được trong 
                10 năm ra chuộc, nhờ đó vợ con người kia được an toàn. Bỏ tiền 
                cứu người như hai trường hợp trên thật là hiếm có, ít ai làm 
                nổi. Những kẻ có tiền tài thế lực, họ làm công đức rất dễ, nhưng 
                dễ mà không chịu làm ấy là người tự bao tự hãm, những kẻ nghèo 
                hèn làm được phước rất khó, khó mà gắng làm ấy mới đáng quý.
 
                - 
                Tuy những cơ hội giúp 
                người thì vô kể, song ước tóm đại cương thì mười điều này khả dĩ 
                gọi là lớn: 1. Chung với người làm lành; 2. Giữ tâm ái kính; 3. 
                Giúp người nên tốt; 4. Khuyên người làm lành; 5. Cứu người nguy 
                cấp; 6. Gây dựng lợi lớn; 7. Bỏ của làm phước; 8. Hộ trì Chánh 
                pháp; 9. Kính trọng tôn trưởng; 10. Yêu tiếc sinh vật.
 
                - 
                Chung người làm lành 
                là thế nào? Ông Thuấn khi chưa làm vua, nhà ở bên đầm Lôi Trạch, 
                nhân thấy những kẻ chài cá trai tráng thì đành chài ở chỗ đầm 
                sâu, nước tụ nhiều cá, còn người già yếu phải chài ở chỗ nước 
                cạn nước chảy phóng cá, ông Thuấn động lòng thương mới cùng họ 
                đi chài. Hễ thấy người nào có tánh tranh giành, ông làm thinh 
                không nói, còn thấy kẻ nào biết tương nhượng thì ông tán dương 
                và bắt chước. Ông làm như thế suốt một năm, sau đó ai nấy đều 
                noi gương ông mà tương nhượng nhau để ai cũng được chài ở chỗ 
                đầm sâu nước tụ. Ôi! Ông Thuấn là bậc minh triết, há lại không 
                đủ lời để dạy kẻ khác sao, thế nhưng ông đã không dạy bằng lời 
                mà lại đem thân ra làm để chuyển hóa. Thật là một cử chỉ cao 
                thượng khó khăn vậy. Xem thế, bọn ta ở đời mạt thế cũng chớ nên 
                ý chỗ mình hay mà lấn lướt người, ỷ điều mình tốt mà làm khó dễ 
                người, ỷ mình tài năng mà khốn ức người, hãy nên thâu liễm tài 
                trí, làm như vụng về, thấy tội lỗi người thì bao dung che dấu, 
                một mặt khiến họ cải đổi, một mặt họ húy k không dám làm càn. 
                Hoặc thấy ai có điều gì hay, điều gì tốt dù nhỏ dù lớn hãy nên 
                hạ mình bắt chước và tán dương phổ biến. Hằng ngày nói lời gì, 
                làm việc gì chớ nên vị kỷ mà cốt để hay để khéo cho thiên hạ. 
                Được vậy tức là người có độ lượng, công bằng, lây thiên hạ làm 
                mình như vị đại nhân vậy.
 
                - 
                Sao gọi là giữ lòng 
                ái kính? Cứ xem bề ngoài thì khó biết ai là quân tử, ai là tiểu 
                nhân, nhưng nếu xét thấu tâm can thì thiện ác đôi đàng cách 
                tuyệt như đen trắng, thế nên xưa nay thường nói, quân tử sở dĩ 
                khác người là do chỗ tồn tâm. Cái tâm mà người quân tử bảo tồn 
                là cái tâm yêu người kính người, vì người quân tử thường nghĩ 
                rằng dù ở đời có thân, sơ, quý, tiện, có kẻ trí người ngu, người 
                bất tiếu, vạn vật có sai thù mặc lòng, xét kỹ đều là đồng bào, 
                cùng ta nhất thể, làm sao ta không kính yêu họ được. Hễ ái kính 
                mọi người tức là ái kính Hiền Thánh, cảm thông ý chí mọi người 
                tức như cảm thông ý chí Hiền Thánh. Sao vậy? Vì ý chí Thánh Hiền 
                không ngoài muốn cho đời cũng như người đều đạt sở nguyện thân 
                lẫn mạng, nꮠnếu ta hợp với ý chí Thánh Hiền mà an định cho mọi 
                người tức là ta đã làm việc thay thế Thánh Hiền vậy.
 
                - 
                Sao gọi là giúp người 
                nên tốt? Ngọc ở trong đá, nếu không biết mà vất đi thì thành 
                ngói gạch, biết mà dũa mài thì thành khuê chương, vậy hễ thấy ai 
                làm được việc lành, có chí tiến thủ, hãy giúp đỡ khuyên dụ họ 
                mau thành tựu, cố gắng tán trợ duy trì, giải bày hơn thiệt, loại 
                bỏ sàm láng ký thế nào cho họ nên người tốt đẹp mới thôi. Thế 
                thường người ta hay ghét kẻ khác không giống mình, người ác 
                không ưa người lành, thế mà người ác bao giờ cũng nhiều hơn 
                người lành, nên người lành sống nổi giữa người ác là một điều 
                rất khó. Vả người lành là người hào kiệt thường có ý chí cương 
                trực, không ưa trau chuốt bề ngoài, trong khi đó người đời ít kẻ 
                có kiến thức cao, nên những bậc hào kiệt lắm lúc lại dễ bị chê 
                bai. Vì thế việc lành thường dễ hỏng, người lành thường bị chê, 
                chỉ trừ người có lòng nhân, mắt trí mới dám thẳng thắn khuôn phi 
                người có thiện tâm thiện chí, nên hạng người này cũng được công 
                đức không ít.
 
                - 
                Sao gọi là khuyên 
                người làm lành? Đã sinh làm người ai chẳng có lương tâm, nhưng 
                vì đường danh nẻo lợi ở đời dễ làm cho vùi lấp, vậy khi cư xử 
                cùng nhau hay tìm cách mở lời mê hoặc, khiến được giác tĩnh giữa 
                chốn đêm trường, làm cho thanh lương trong vòng phiền não. Ông 
                Hàng Dũ nói: dùng lời thì khuyên người được một đời, làm sách 
                thì khuyên người được trăm đời. Việc khuyên người làm lành ở đây 
                đem so với việc cùng người làm lành ở trên có phần sút kém, song 
                theo bệnh cho thuốc, theo thời khuyên răn vẫn thâu được hiệu quả 
                rất nhiều. Nếu khuyên người mà người không theo, hãy kiểm xét 
                lại trí tuệ và lời lẽ của mình để lo bồi bổ.
 
                - 
                Thế nào là cứu người 
                nguy cấp? Người đời ai chẳng trải qua những lúc hoạn nạn ngã 
                nghiêng. Vậy khi gặp ai lâm cảnh ách nạn hãy xem như chính mình 
                lâm nạn mà lo vội vã cứu trừ, hoặc lấy lời biện bạch an ủi, hoặc 
                dùng phương chước khôn ngoan giải trừ. Thôi Tiên sinh có câu: Ân 
                huệ không cần phải đợi lớn lao mới làm, chỉ cần cứu kịp người 
                lúc cấp nạn là quý. Đó thật là lời của kẻ có lòng nhân vậy.
                
                
 
                - 
                Thế nào là gây dựng 
                lợi lớn? Nhỏ thời trong một làng, lớn thời trong một ấp, một 
                nước, hễ thấy việc có lợi thì lo hưng công, như khai rạch đào 
                mương, hoặc đắp đê điều phòng vệ, hoặc xây cầu cống tiện cho 
                khách bộ hành, hoặc thí nước cơm giúp kẻ đói khát. Cứ tùy duyên 
                khuyến hóa, hiệp lực hưng tu, chớ nệ hiềm nghi, chớ từ nhọc mệt.
 
                - 
                Thế nào là bỏ của làm 
                phước? Trong muôn hạnh của Phật day, hạnh bố thí đứng đầu. Bố 
                thí là xả bỏ, đem cho. Kẻ đạt ngộ thì trong xả sáu căn, ngoài xả 
                sáu trần, bất cứ điều gì cũng đều xả được, còn kẻ chưa đạt ngộ 
                trước hãy tập xả thí tài vật. Người đời ai cũng lấy cơm áo nuôi 
                sống, nên tiền tài cơm áo là điều tối trọng. Ai xả được tiền tài 
                cơm áo thì bên trong sẽ phá được lòng xan lẫn, bên ngoài cứu 
                được kẻ lâm nguy. Lúc đầu tuy làm miễn cưỡng, nhưng lúc sau 
                thành thói tự nhiên, và kết quả sẽ dũ sạch tính vị kỷ, phát hết 
                tâm chấp lẫn keo rít sâu dày.
 
                - 
                Thế nào là hộ trí 
                Chánh pháp? Pháp là con mắt của muôn loại hàm linh. Pháp có 
                chánh có tà, thiếu chánh pháp không thể nào tiến hóa cùng trời 
                đất, dinh dưỡng thành muôn loài, thoát lý ngoài triền phược, và 
                an bài thế gian, đạt tới xuất thế. Thế nên thấy chùa miếu kinh 
                sách Thánh Hiền, hãy đem lòng kính trọng tô bồi, và trên hết là 
                phát tâm hoằng dương chánh pháp, báo bổ Phật ân, là điều càng 
                nên cố gắng.
 
                - 
                Thế nào là kính trọng 
                Tông trưởng? Ngoài Ông, Bà, Cha, Mẹ, Anh, Chị, phàm gặp người 
                tuổi nhiều, đức lớn, vị cao, kiến thức rộng đều nên để ý kính 
                nhường. Ở nhà thì thờ cha kính mẹ với niềm thân ái nhu hòa, ra 
                ngoài thì bất luận làm việc gì, chớ nghĩ không ai biết mà làm 
                càn, khi đối xử người nào, chớ nghĩ chẳng ai hay mà uy hiếp. Ai 
                để ý một chút, tất thấy xưa nay những kẻ trung hiếu, bao giờ con 
                cháu họ cũng được xương hưng, thành người trung hiếu.
 
                - 
                Thế nào là yêu tiếc 
                sinh mạng? Người sở dĩ là người chỉ bởi có tâm trắc ẩn. Người 
                cầu nhân chính là cầu cái tâm đó, người chưa đức cũng chính là 
                chứa cái tâm đó. Sách Châu Lễ có câu: Tháng giêng tế lễ không 
                dùng con nái làm vật hy sinh (con nái là con vật mẹ đang nuôi 
                con). Thầy Mạnh Tử nói: Người quân tử xa chốn bếp núc, sở dĩ để 
                bảo toàn tâm trắc ẩn. Vì thế các bậc Tiên Hiền thường kiêng kốn 
                thứ thịt không ăn: nghe tiếng kêu con vật bị giết không ăn, thấy 
                con vật bị giết không ăn, vật mình nuôi dưỡng không lớn không 
                ăn, vật chỉ vì mình mà bị giết thịt không ăn. Kẻ thức giả hiền 
                nhân ngày nay nếu chưa thể đoạn tuyệt nghiệp ăn thịt, hãy gắng 
                tập theo các điều này. Cứ như thế lần tăng trưởng từ tâm, chẳng 
                những việc sát sanh nên kiêng k#273;ã 
                đành, đến việc nấu tằm lấy tơ, bới đất sát trùng cũng toàn là 
                việc vì cơm áo nuôi mình mà giết lây loài vật. Cho đến để ý đề 
                phòng khi dơ tay cất chân để khỏi giết lầm vô số động vật. Cổ 
                Thi có câu: thương chuột thường để cơm, thương nga chẳng thắp 
                đèn (Ái thử thường lưu phạn, lân nga bất điểm đăng). Đó há không 
                phải những cử chỉ biểu lộ lòng nhân ư.
 
                - 
                Việc lành có vô cùng 
                tận không thể kể hết, nhưng do mười việc trên đây suy rộng ra, 
                muôn đức đều bao quát trong đó.
 
                
                   
                  - * * *
 
                  
                
                - 
                4. Đức Khiêm Hư
 
                - 
                Kinh Dịch có câu: 
                Thiên đạo thường làm khuy tổn chỗ dinh kiêu mà ích bồi nơi khiêm 
                hư, địa đạo làm biến cải chỗ dinh kiêu mà lưu nhận nơi khiêm hư, 
                quỷ thần thường làm hại trừ chỗ dinh kiêu mà tăng phúc nơi kiêm 
                hư, nhân đạo thường chán ghét chỗ dinh kiêu mà ưa chinh nơi 
                khiêm hư. Thế nên trong một quẻ Khiêm mà sáu hào đều tốt. Kinh 
                Thư nói: người tự kiêu tự mãn thường bị nạn, kẻ khiêm nhượng hư 
                tâm thường đắc ích. Tôi từng cùng bạn bè nghiệm thử, thường thấy 
                kẻ hàn sĩ khi sắp hiển đạt, bao giờ cũng có một lúc đức khiêm 
                tốn hiện trên nét mặt.
 
                - 
                Khoa thi năm Tân mùi, 
                tôi cùng mười người bạn ở huyện Gia Thiện đi thi, trong đó có 
                anh Đinh Kính Vũ, người tuy trẻ mà rất có tính khiêm nhượng hư 
                tâm. Tôi nói với anh Phí Cẩm Pha, thế nào khoa này anh Đinh Kính 
                Vũ cũng đỗ. Anh Phí gạn lại: làm sao biết? Tôi đáp: chỉ người có 
                đức khiêm hư mới được phước. Anh thử xem trong bọn mười người 
                chúng ta có ai có tính khiêm nhượng bằng anh Đinh Kính Vũ đâu? 
                Có ai bị chơi chọc mà không đối trả, bị chê bai mà không biện 
                bạch như anh Đinh Kính Vũ đâu? Người có đức nết như thế, thế nào 
                cũng được trời đất hộ độ, làm sao không phát được. Quả nhiên lúc 
                treo bảng thấy có tên anh Đinh đậu cao!
 
                - 
                Năm Đinh sửu tôi ở 
                chung với anh Bằng Dữ Chi tại Kinh đô, bỗng thây anh có phong độ 
                khiêm tốn hư tâm khác hẳn tính tình hồi nhỏ. Bạn anh ta, ông Lý 
                Tế Nham, là người cương trực mà thành thực, thưởng thẳng thắn 
                chỉ lỗi anh ngay mặt, nhưng lúc nào cũng thấy anh bình tĩnh nghe 
                theo chẳng hề thốt một lời cãi cọ. thấy vậy tôi nói thầm phước 
                có phước hiện ra sau họa có họa phát ra trước, anh này quả có hư 
                tâm khiêm tốn như thế, anh chắc chắn gặp được điều hay, thế nào 
                anh ta cũng đậu kỳ này. Sau quả thật đúng như lời tôi dự đoán.
 
                - 
                Ông Trương Úy Nham 
                người huyện Giang Âm, học rộng văn hay, có nhiều tiếng tăm trong 
                vãn giới. Năm Giáp ngọ ông đến thi Hương tại Nam Kinh, nhân ở 
                lại một ngôi chùa. Khi treo bảng thấy không có tên mình, mới nổi 
                nóng mắng nhiếc giám khảo là đồ lòa mắt chẳng trông thấy văn 
                mình. Một vị Đạo nhân gần bên nghe thấy mỉm cười, Trương giận 
                luôn vị Đạo nhân.
 
                - 
                Vị Đạo nhân nói: Văn 
                của tướng công chắc không hay lắm.
 
                - 
                Trương càng giận, nộ 
                rằng: Ông không thấy văn tôi, sao biết văn tôi không hay.
 
                - 
                Vị Đạo nhân nói: Tôi 
                từng nghe kẻ làm văn quý hồ tâm khí bình hòa, nay thấy tướng 
                công nóng giận mắng nhiếc lung tung, không có chút chí hòa khí 
                thì văn hay vào đâu được.
 
                - 
                Trương bỗng đổi giận, 
                tỏ lòng kính phục và xin chỉ giáo.
 
                - 
                Đạo nhân nói: thi 
                hỏng hay đậu là do mạng. Mạng không đậu thì dù văn hay cũng vô 
                ích, vậy ông cần để ý chuyển biến mạng mình.
 
                - 
                Trương nói: đã là 
                mạng thì làm sao chuyển biến được?
 
                - 
                Đạo nhân nói: tạo 
                mạng do nghiệp xưa, lập mạng do nghiệp nay, nếu ông gắng làm 
                việc thiện, dồn chứa âm đức, thì có phước gì mà không cầu được.
 
                - 
                Trương nói: Tôi chỉ 
                là một tên bần sĩ, làm sao làm được sự này.
 
                - 
                Đạo nhân nói: việc 
                lành, âm đức đều do tâm tạo, thường bảo tồn tâm đó thời công đức 
                vô lượng. Ngay như đức tính khiêm hư đâu phải mất tiền mới làm 
                được, thế mà ông không biết tự tỉnh để mà làm, lại giận trách 
                quan trường dốt nát, phải chăng đó chỉ là tự ông không muốn làm 
                chớ không phải không thể làm?
 
                - 
                Từ đó Trương để ý 
                kiềm chế kiêu khí, ngày ngày tu nhân bồi đức. Năm Đinh dậu, 
                Trương mộng thấy đi đến một căn phòng cao lớn, gặp được một bảng 
                ký lục chuyện thi, thấy ở giữa có nhiều hàng bỏ trống không tên. 
                Một người đứng bên nói: đây là bảng ghi chép khoa thi năm nay. 
                Trương hỏi: sao bỏ trống nhiều chỗ không tên? Người ấy đáp: về 
                việc thi cử cứ ba năm xét một lần, hễ người nào chứa nhiều công 
                đức, thì mới có tên vào đó. Chỗ bỏ trống trong bảng ký lục này 
                là tại trước kia người có công đức đáng đậu, sau vi phạm tội ác 
                mà tên bị xóa đi. Cuối cùng lại thấy một dòng chữ rằng: người ba 
                năm lại đây giữ thân cẩn thận, tên ngươi có thể được điền vào 
                bảng này, hy vọng ngươi cố gắng. Quả nhiên khoa ấy, Trương được 
                đậu thứ 105 trên bảng vàng.
                
                
 
                - 
                Lời xưa nói: Người có 
                chí ở công danh tất được công danh, người có chí ở giàu sang tất 
                được giàu sang. Người có chí như cây có gốc. Khi đã lập chí phải 
                thường nên tập tính khiêm hư, dè chừng mọi điều hành động, được 
                như thế tự nhiên cảm động đất trời mà phúc đức đầy đủ nơi ta 
                vậy. 
 
                -  
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |