| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  Thường, Lạc, Ngã, Tịnh
 
                  
                
                
                   
                  - Thích 
                  Nhất Hạnh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Nếu nhìn kỹ ta sẽ 
                thấy rằng những điều ta học được ở các kinh điển, kể cả trong 
                kinh Duy Ma, có liên hệ rất mật thiết trong việc thực tập tu học 
                của chúng ta. Người tu học luôn luôn nghĩ đến mục đích của mình 
                là giải thoát và an lạc, cũng như người làm cách mạng xã hội 
                luôn luôn nghĩ tới tự do và bình đẳng xã hội. Người tu học có 
                thể nói đến giải thoát, giác ngộ và an lạc rất nhiều mà không 
                chứng nghiệm được giải thoát, giác ngộ và an lạc trong khi mình 
                đang nói. Người làm cách mạng xã hội cũng vậy; họ nói đến tự do, 
                công bình xã hội và ấm no nhưng sự thực về công bình, tự do và 
                no ấm không hề thấy có. Một chủ nghĩa đã hứa hẹn tự do, công 
                bình và no ấm trong suốt bảy mươi lăm năm mà cái tự do, công 
                bình no ấm ấy không hề xuất hiện.  
 
                - 
                Điều này không phải 
                chỉ những nhà chính trị mắc phải, mà ngay những người tu học 
                cũng mắc phải. Phần đông chúng ta rất "hồ hởi phấn khởi" về đạo 
                giải thoát, giác ngộ và an lạc của chúng ta; tuy nhiên chúng ta 
                chỉ nói nhiều chứ không nếm được. Chúng ta nói cuộc đời là vô 
                thường, vô ngã, khổ đau, chúng ta đi tìm chân tâm, an lạc, giải 
                thoát và giác ngộ nhưng chúng ta có trực tiếp nếm được cái giải 
                thoát và an lạc ấy hay không? Thực tập theo con đường Bụt dạy, 
                ta không nên làm như những người chỉ nói về các thức ăn mà không 
                bao giờ được ăn. Không nên như những người làm nhà băng mỗi ngày 
                chỉ đi đếm tiền dùm cho người khác. Chúng ta phải trực tiếp nếm 
                cái vị tịnh lạc và giải thoát mà ta đã từng nói đó.  
                
 
                - 
                Theo Bụt dạy thì vị 
                tịnh lạc và giải thoát đó chúng ta có thể nếm được ngay trong 
                hiện tại mà không cần phải tu mười năm hay hai mươi năm. Ngay 
                trong ngày đầu tu học ta cũng có thể đạt được phần nào cái tịnh 
                lạc và giải thoát đó. Chúng ta phải đặt lại cấp bách câu hỏi ấy: 
                "cái an lạc và giải thoát mà ta nói đó chúng ta đã nếm được hay 
                chưa?" Nếu chưa thì ta phải nếm cho được trong ngày hôm nay. 
                Thiền duyệt mà Bụt nếm và dùng làm thức ăn hàng ngày, chúng ta 
                cũng phải được nếm. Hạnh phúc mà chúng ta nói tới làm sao chúng 
                ta nếm được hoặc tiếp xúc được? Bản chất của hạnh phúc ấy là gì? 
                Hôm nay chúng ta sẽ nói sơ lược về cái đó. 
 
                - 1.Yếu 
                tố thứ nhất là tự do : 
                Tự do đó là chủ quyền (sovereignty). Có khi ta dịch là tự tại. 
                Ta là ta. Ta không là nô lệ của quá khứ, của tương lai, của hiện 
                tại; ta không là nô lệ của những phiền não, và như vậy tự do đó 
                được dịch là giải thoát (freedom, liberation). Đó là bản chất 
                của sự an lạc. Đó là nền tảng tất yếu của sự an lạc.  
                
 
                - 
                Cố nhiên là muốn thực 
                tập đạo Bụt trước nhất là phải thực tập tự do. Nếu không có tự 
                do thì chúng ta không có hạnh phúc. Đó là điều mà ta không chối 
                cãi được. Đó là nền tảng của thực tập trong đạo Bụt. Cái mà ta 
                gọi là chủ quyền hoặc tự do đó có khi được hình dung bằng một 
                danh từ rất là kỳ đặc: ngã. Ngã đây không phải là một bản chất 
                hoặc một thực tại bất biến. Nó không phải là atma. Ngã đây là sự 
                tự do. Một trong bốn định nghĩa của Niết Bàn là ngã. Niết Bàn có 
                ngã. Ngã đây không là ngã chấp mà là sự tự tại, không bị vướng 
                bận. Ta biết rằng bốn định nghĩa của Niết Bàn là thường, lạc, 
                ngã và tịnh. Toàn bộ của giáo lý Bụt dạy là để nói về sự thực vô 
                ngã và để diệt trừ những khái niệm về ngã. Nhưng khi định nghĩa 
                Niết Bàn là ngã thì ta nên hiểu ngã này chỉ có nghĩa là tự do 
                hoặc là chủ quyền thôi.  
 
                - 
                Khi đi thiền hành, 
                quý vị bước từng bước chân thảnh thơi, an trú trong hiện tại và 
                không bị vướng bận vào những phiền não về quá khứ, những lo lắng 
                về tương lai thì quý vị có thảnh thơi và tự tại; quý vị tiếp xúc 
                được với bản thân và với vũ trụ chung quanh. Cái thảnh thơi tự 
                tại đó ta có thể gọi là ngã. Chữ ngã này không có nghĩa là một 
                thực thể bất biến, đồng nhất, tách rời với những gì ngoài ngã 
                như được diễn tả trong khái niệm ngã chấp. Chúng ta chỉ có hạnh 
                phúc khi nào chúng ta có cái tự do đó. Vì vậy khi đi thiền hành 
                hay ngồi thiền, chính ta biết là ta có tự tại hay không, hay là 
                ta bị bao vây bởi phiền não, bởi những chuyện đã qua và những 
                chuyện sắp tới. Nếu biết rằng ta đang bị bao vây bởi những bực 
                bội thì ta cũng biết rằng ta đang không có hạnh phúc, vì ta 
                không có tự do. Và tu học là để đạt tới tự do. Đạt tới tự do là 
                cắt đứt những sợi dây ràng buộc của mình để có thể tiếp xúc được 
                với sự sống trong giờ phút hiện tại. Hạnh phúc là tự do, không 
                hạnh phúc là ràng buộc.  
 
                - 
                Khi ta đặt câu hỏi: 
                "Hạnh phúc của Bụt là gì? Chúng ta có quyền và có khả năng nếm 
                được thứ hạnh phúc đó hay không?" Ta có thể trả lời rằng: "Có". 
                Vì bản chất của hạnh phúc đó là sự tự do và nếu ta có tự do, có 
                thảnh thơi thì tức là ta đã tham dự vào cái hạnh phúc của Bụt 
                một cách trực tiếp. Ta có thể làm được chuyện đó ngay từ bây 
                giờ. Kinh nói trước khi rời thành phố Tỳ Sa Ly (Vaisali) lần 
                chót để đi về phương Bắc, Bụt đã nhìn thành phố bằng cặp mắt của 
                một con voi chúa, rồi mới ngoảnh mặt lại và tiến về hướng Bắc. 
                Nhìn bằng cặp mắt của một con voi chúa là nhìn bằng cái nhìn 
                thật là sâu sắc. Mình chỉ có thể nhìn sâu sắc sự vật trên đời 
                này nếu mình có được cái tự do lớn, cái thảnh thơi lớn, không bị 
                vướng mắc bởi những sợi dây ràng buộc. Bụt hay khen thành phố 
                Vaisali và núi Thứu là đẹp: trong những giây phút đó Bụt cũng an 
                trú trong hiện tại và đưa cặp mắt của một con tượng chúa để 
                nhìn.  
 
                - 
                Sáng nay đi thiền 
                hành với đại chúng về, tôi có nói chuyện về đôi mắt của con 
                tượng chúa đó. Tôi nói mỗi người chúng ta trong khi đi thiền 
                hành thỉnh thoảng cũng có thể dừng lại và đưa con mắt tượng 
                vương của mình để nhìn cảnh vật của xóm Thượng. Nếu ta nhìn bằng 
                con mắt tự do thì cái nhìn của ta sẽ bao gồm được cả vũ trụ 
                trong giây phút đó. Khi ta dừng lại và dừng lại với tất cả con 
                người của ta thì ta sẽ có cái năng lượng của giải thoát, và khi 
                ta đưa cặp mắt voi chúa của ta mà nhìn cảnh vật xóm Thượng thì 
                những vùng năng lượng của giải thoát sẽ được dâng lên mắt. Nhờ 
                thế mà cái nhìn của ta trở nên sâu sắc và chọc thủng được bức 
                màn thất niệm và hôn mê. Câu thơ của Thế Lữ trong bài Hổ Nhớ 
                Rừng:  
 
                - 
                Trong đêm tối mắt 
                thần khi đã quắc 
 
                - 
                Là khiến cho vạn vật 
                đều im hơi  
 
                - 
                Ta biết ta chúa tể 
                của muôn loài  
 
                - 
                Giữa chốn thảo hoa 
                không tên không tuổi  
 
                - 
                Khi cọp đưa mắt của 
                cọp chúa mà nhìn cảnh rừng núi của nó, tất cả muôn loài đều nín 
                im thin thít. Và nó biết nó là chúa tể của rừng núi. Khi một 
                người có định lực lớn đưa cặp mắt nhìn cảnh vật của xóm Thượng 
                thì tự nhiên những lo lắng và những phiền não sẽ lắng im phăng 
                phắc. Nếu chúng ta nhìn cảnh vật xóm Thượng như vậy một lần 
                trong đời thôi, thì sống trên đời cũng đã không uổng. Huống gì 
                chúng ta có thể nhìn nhiều lần trong ngày? Thực tập là làm nhiều 
                lần. Mỗi giây phút là một viên ngọc quý. Nếu Bụt nhìn sự vật với 
                cặp mắt tượng vương thì khi bước đi Bụt cũng bước những bước 
                chân của con sư tử chúa. Từng bước thảnh thơi dẫm lên mặt đất 
                của thực tại, và như vậy bước đi của Người là bước đi của giải 
                thoát an lạc. Ta biết hạnh phúc của Người là hạnh phúc căn cứ 
                trên tự do. Vì vậy nếu bị quá khứ phong tỏa và tương lai lôi kéo 
                thì chúng ta không có tự do, không có hạnh phúc.  
 
                - 
                Thực tập đạo Bụt là 
                thực tập hạnh phúc. Ta nên biết chánh niệm (mindfulness) là vũ 
                khí giúp chúng ta đoạt lại quyền tự do mà chúng ta đã đánh mất 
                và đang đánh mất. Người tu mà không biết sử dụng chánh niệm thì 
                không có vũ khí nào khác cả để giành lại chủ quyền của mình. Chủ 
                quyền đó đạo Bụt đại thừa gọi là ngã. Đạo Bụt đại thừa không sợ 
                danh từ, trong đó có danh từ "Ngã". Chánh niệm là một thứ vũ khí 
                giúp ta giành lại chủ quyền, nhưng ta còn một vũ khí khác cũng 
                quan trọng lắm, đó là giới luật. Suốt mùa hè chúng ta đã học và 
                thấy rất rõ là giới luật không phải những gì do người khác bắt 
                buộc ta phải theo mà là hoa trái của chánh niệm. Giới luật căn 
                bản của tất cả các giới luật là chánh niệm. Chánh niệm là mẹ của 
                tất cả các giới luật.  
 
                - 
                Nhờ chánh niệm tôi 
                biết rằng sát sanh tạo ra đau khổ. Nhờ chánh niệm tôi biết rằng 
                uống rượu và sử dụng các chất ma túy tạo ra khổ đau. Vì chánh 
                niệm tôi biết rằng tà dâm làm tan nát gia đình và tạo ra không 
                biết bao nhiêu là đau khổ. Vì vậy tôi nguyện không uống rượu, 
                không sát hại và không tà dâm. Giới luật, như vậy, là hoa trái 
                của chánh niệm. Giới luật vì thế không phải là một cái gì hạn 
                chế tự do của mình. Những người chưa học Bụt và nhất là chưa 
                thực tập, mỗi khi nghe nói tới giới thì cứ tưởng rằng giới luật 
                hạn chế tự do của mình. Sự thực, giới luật bảo vệ tự do của 
                mình, giúp mình có thêm tự do. Phá giới thì ta lâm vào cái vòng 
                tù tội (không phải là cái vòng tù tội của chánh quyền đặt ra mà 
                là cái nhà tù của khổ đau). Ví dụ khi uống rượu và sử dụng các 
                chất ma túy ta tự giam ta vào cái vòng nghiện ngập. Khăng khăng 
                mình buộc lấy mình vào trong. Mình tự tạo khổ đau cho mình và 
                tạo khổ đau cho những người khác; mình tạo ra những cái nhà tù 
                cho mình và cho những người khác. Ta thử nghĩ cho kỹ lại xem. Ta 
                mà nghiện ngập thì cả gia đình ta ở tù hết. Ta "tà dâm" thì cả 
                gia đình ta cũng "ở tù" hết. Cái nhà tù đó là nhà tù của đau 
                khổ. 
 
                - 
                Trong một đại chúng 
                tu học cũng vậy, nếu có một người phạm giới thì tất cả đại chúng 
                đều lãnh đủ hết. Cho nên tự do của một người, giới luật của một 
                người có liên hệ tới hạnh phúc và tự do của những người khác 
                trong đại chúng. Trong kinh Sa Môn Quả, Bụt có nói là khi một vị 
                khất sĩ giữ giới thì vị ấy được tự do, vị ấy không còn sợ hãi. 
                Ngủ dưới gốc cây ta cũng cảm thấy rất an lành. Các vị khất sĩ 
                giữ đến hai trăm năm mươi giới thì tự do càng lớn. Khi có tự do 
                ta cũng có hạnh phúc. Mà hạnh phúc là an lạc (peace and joy). 
                Nếu mình nói tuy mình đã có tự do rồi mà mình vẫn chưa có an lạc 
                thì mình hãy thử tự hỏi là cái tự do đó có phải là tự do thực sự 
                chưa? Bởi vì nếu đó là tự do thật sự thì dù không muốn mình vẫn 
                có an lạc. Sự thật là như thế. Nhiều khi không có tự do mà mình 
                cứ tưởng là mình có tự do, cũng như rất nhiều người có vấn đề về 
                ruột mà vẫn nghĩ là mình không hề có vấn đề về ruột. Có người có 
                rất nhiều nội kết mà cứ tưởng là không có nội kết.  
 
                - 
                Khi tôi nhìn cảnh mặt 
                trời lặn rực rỡ huy hoàng thì tôi có hạnh phúc. Có kẻ nói rằng 
                vì cảnh mặt trời kia là vô thường, nên cái đẹp ấy chỉ là cái 
                hạnh phúc của thế gian chứ không phải là cái hạnh phúc của người 
                giải thoát. Cái đó không đúng. Hạnh phúc của người giải thoát là 
                hạnh phúc mang theo tự do và biểu lộ được tự do. Còn hạnh phúc 
                của người không giải thoát là hạnh phúc mang theo sự ràng buộc. 
                Bụt có thể nhìn bông hoa và khen bông hoa đó là đẹp mà vẫn không 
                bị vướng mắc, không bị ràng buộc bởi cái đẹp ấy. Còn người không 
                có giải thoát nhìn vào một bông hoa có thể bị dính vào bông hoa. 
                Khi nhìn bông hoa, Bụt thấy được tính chất vô thường của bông 
                hoa và ý thức về vô thường đó chứng tỏ rằng Bụt có giải thoát. 
                
 
                - 
                Vì vậy khi Bụt nói 
                với thầy A Nan: "Này thầy A Nan, thành phố Vaisali đẹp quá há!" 
                Bụt quả thấy thành phố đẹp. Bụt biết thưởng thức thành phố mà 
                không bị vướng mắc vào thành phố. Chúng ta là những người tu 
                theo Bụt, chúng ta có thể thấy được cuộc sống mầu nhiệm trong 
                giây phút hiện tại, chúng ta thấy được cái đẹp và cái hay của vũ 
                trụ vạn hữu trong giây phút hiện tại, chúng ta có thể hưởng thụ 
                cái hạnh phúc đó với điều kiện là chúng ta thấu được lẽ vô 
                thường, biết rõ là những hiện tượng đó đều là những sự kiện vô 
                thường sẽ tan biến.  
 
                - 
                Nói một cách khác hơn 
                là trong khi thưởng thức những cái đó chúng ta vẫn còn là những 
                con người tự do. Thành ra an lạc ở đây phải được làm bằng chất 
                liệu của tự do. Nếu không có chất liệu tự do thì không thể gọi 
                đó là an lạc chân thực. Người kia đang hưởng thụ năm món dục lạc 
                (tài, sắc, danh, thực và thụy: moneỵ, sex, fame, uncontrolled 
                eating, and oversleeping), tham đắm và ràng buộc vào năm món dục 
                lạc như một con thiêu thân nhảy vào trong lửa. Người như vậy 
                không có tự do. Khi chúng ta đi thiền hành hay uống một ly nước 
                mát, ta có quyền có sự an lạc. Chúng ta đừng tưởng rằng có an 
                lạc như vậy là có tội vì đó là hạnh phúc thế gian. Không, hạnh 
                phúc đó cũng là hạnh phúc giải thoát, Bụt cũng hưởng cái hạnh 
                phúc đó mà Người không vướng víu.  
 
                - 
                Ta không thể hiểu bản 
                chất của an lạc trong đạo Bụt nếu ta không biết rằng tự do là 
                bản chất của an lạc. Bụt dạy các vị khất sĩ khi ăn nên quán 
                chiếu về thức ăn. Các thầy có thể thấy ngon trong khi ăn nhưng 
                các thầy cũng biết rằng thức ăn cũng bất tịnh và khi nuốt vào 
                trong bụng rồi thì thức ăn sẽ rất khác. Đó là cách quán chiếu về 
                tính cách bất tịnh của thức ăn mà các thầy ngày xưa thường thực 
                tập. Cố nhiên khi tắm gội thân thể sạch sẽ ta cũng biết rằng 
                phải hiểu nghĩa sạch sẽ ấy theo tinh thần vô thường, nghĩa là 
                mình biết trong con người mình đồng thời có những cái không 
                sạch. Vì vậy Bụt dạy quán bất tịnh. Chẳng phải khi mình mẩy mồ 
                hôi dơ dáy mình mới quán bất tịnh được mà khi mới tắm sạch mình 
                cũng quán thấy thân thể mình có tính bất tịnh như thường. 
                
 
                - 
                2. Yếu tố thứ hai là 
                an lạc : An có nghĩa là tâm tư không bị khuấy động. Cái cảnh mặt 
                trời huy hoàng kia, niềm vui trước mắt kia không khuấy động được 
                tâm tư mình. Mình đang thưởng thức nó nhưng tâm mình vẫn bình 
                thản. Mình thưởng thức nó nhưng những huy hoàng kia không tạo 
                sóng gió và không tạo ra những phiền não ràng buộc trong tâm 
                mình. Cái đó gọi là an.  
 
                - 
                An cũng có nghĩa là 
                không sợ hãi. Biết rằng vạn vật vô thường, chính ngũ uẩn của ta 
                cũng vô thường nên ta không sợ hãi cái sanh và cái diệt. Đó mới 
                là thứ an tịnh vững chải nhất. Ta biết rằng hạnh phúc trong môi 
                trường tu học được làm bằng bản chất của sự an tịnh. Nếu con 
                người không có bản chất của sự an tịnh này thì không có hạnh 
                phúc. Còn cái "an lạc" của người đang say mê trong ngũ dục không 
                gọi là an lạc được. Đó gọi là đam mê, là sự đánh mất mình. 
                
 
                - 
                Lạc là khả năng vui 
                sống. Bụt bằng sự sống hằng ngày của Người chứng tỏ là Người có 
                sự vui sống. Tôi rất lấy làm lạ là trong mấy chục năm tu học ở 
                tu viện, được học rất nhiều giáo lý sâu sắc của đạo Bụt nhưng 
                chưa bao giờ tôi được quý thầy dạy cho những câu mà Bụt nói với 
                thầy A Nan như: "Này thầy A Nan, núi Thứu đẹp quá! A Nan, Thầy 
                hãy nhìn xuống cánh đồng lúa kia, đẹp không? Tại sao thầy không 
                tìm cách may áo của các vị khất sĩ theo mẫu mực của các cánh 
                đồng lúa này? Thầy A Nan, thành Vaisali đẹp quá phải không?" 
                
 
                - 
                Bụt đã chứng tỏ là 
                Người có rất nhiều hạnh phúc. Người an trú trong hiện tại. Người 
                có tự do. Người đã sống đời sống thanh thản an lạc. Người tu mà 
                không có an và lạc thì tu chưa giỏi. Hạnh phúc đó và sự an lạc 
                đó thuộc về cái an lạc xuất thế gian (lokottara), trong khi 
                những người tham đắm trong ngũ dục thì quanh quẩn trong cái gọi 
                là hạnh phúc thế gian. Cũng là sắc, thanh, hương, vị, xúc nhưng 
                cách thức đón nhận khác nhau. Đón nhận bằng ràng buộc, nặng nề 
                và tham đắm thì ta sống trong cảnh thế gian. Đón nhận bằng trí 
                tuệ giác ngộ, biết chúng là vô thường và vô ngã thì ta vẫn duy 
                trì được an tịnh và tự do của ta và vẫn an trú trong thế giới 
                của tịnh lạc xuất thế gian. Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây là 
                như vậy. Niết Bàn nằm chính trong giây phút hiện tại.  
                
 
                - 
                Đã biết rằng an và 
                lạc làm bằng bản chất tự do thì ta rõ an lạc ấy không mong manh 
                như sự đắm chìm theo ngũ dục. Vì không có tính cách gây khuấy 
                động và gây tà kiến vô minh nên an lạc này có tính cách tịnh và 
                thường. Có tính cách tịnh, vì an lạc ấy không làm đục ngầu cái 
                tâm của mình và cái tâm của những người khác, không tạo ra khổ 
                đau trong năm uẩn mình và trong năm uẩn của những người khác. 
                Khi thưởng thức một tách trà, ta thưởng thức với chánh niệm, với 
                tự do. Tuy chúng ta biết trà ấy ngon nhưng chúng ta nghĩ là nếu 
                không có trà chúng ta cũng uống được nước lạnh, và nước lạnh 
                cũng có cái ngon của nó. Vì vậy sự thưởng thức hạnh phúc của 
                chúng ta có tính cách tịnh. Nó không khuấy động tâm ta.  
                
 
                - 
                Trong khi thưởng thức 
                hạnh phúc ấy, biết rằng hạnh phúc ấy không phải là nguyên do của 
                những đau khổ trong hiện tại và trong tương lai thì ta gọi hạnh 
                phúc ấy là tịnh, bởi vì nó không có tác dụng làm cho thế giới và 
                tâm hồn ta bất tịnh. Còn như khi ta uống rượu và tham đắm, chúng 
                ta không có chánh niệm. Nếu có chánh niệm, ta đã biết rằng rượu 
                làm hại gan. Rượu lại có tác dụng gây đau khổ cho mọi người, cho 
                mình, cho xã hội và cho các loài khác. Ta biết rằng rượu được 
                làm bằng chất ngũ cốc. Hằng triệu người đang chết vì thiếu ăn: 
                uống rượu tức là sát sanh và đồng thời làm hư gan của mình. Nếu 
                nghiện ngập mình sẽ làm đau khổ cho nhiều người: lái xe có thể 
                làm chết người, say sưa sẽ làm nhiều điều xằng bậy. Vì vậy uống 
                rượu mà không có chánh niệm là bất tịnh. Mà nếu uống rượu trong 
                chánh niệm thì không thể nào có an lạc hạnh phúc được và nếu 
                tiếp tục uống trong chánh niệm ta sẽ bỏ rượu không chóng thì 
                chầy.  
 
                - 
                Hạnh phúc của người 
                tu mang tính cách tịnh ấy. Tuy rằng thân thể ta miêu tả là bất 
                tịnh, các thức ta ăn là bất tịnh, nhưng nếu ta có tự do, nếu ta 
                có chứng nghiệm về vô thường và vô ngã thì tất cả các việc mà ta 
                làm mới xem qua tuy giống hệt như việc người khác làm nhưng bản 
                chất của chúng là tịnh, bởi vì chúng không gây khổ đau cho ta và 
                cho người, bây giờ và trong tương lai.  
 
                - 
                Về bất tịnh quán, 
                thầy tôi đã dạy: "không phải là thấy được sự dơ bẩn về vật chất 
                của sự vật mới gọi là bất tịnh quán". Bất tịnh quán là có thể 
                nhìn với con mắt quán chiếu về nhân quả. Một hành động nào có 
                thể gây đau khổ trong tương lai, mình quán chiếu thấy được kết 
                quả đau khổ ấy thì đó có thể gọi là bất tịnh quán rồi. Đang đi 
                ăn cắp mà chợt thấy rằng ăn cắp thì có thể bị ở tù, như vậy đã 
                là bất tịnh quán. Quán như thế cho rõ ràng ta sẽ ngưng ý định ăn 
                cắp. Nhờ tự do, chánh niệm và giới luật người tu có an lạc và có 
                thanh tịnh. Niết Bàn của chúng ta là cái mà ta có thể tiếp xúc 
                được ngay trong ngày hôm nay tới một mức độ nào đó.  
                
 
                - 
                Trong khi đi thiền 
                hành, trong khi uống trà, ta thấy được và ta nếm được nó. Cái 
                vui của ngũ dục rất mong manh, có khi chỉ kéo dài một phút, vài 
                phút nhưng vì mê đắm quá có người đã nói "thà một phút huy hoàng 
                rồi chợt tắt...!" Nhưng hạnh phúc của người giải thoát thì có 
                thể kéo dài bao lâu cũng được. Khi mình ngắm nhìn một cội cây lá 
                vàng rực rỡ trong mùa thu và mình thực tập hơi thở chánh niệm: 
                "Tôi đang thở vào và tiếp xúc lá vàng rực rỡ, tôi đang thở ra và 
                cảm thấy hạnh phúc." Thực tập như thế trong năm phút ta có hạnh 
                phúc trong năm phút. Nếu thở và ngắm trong mười lăm phút thì 
                hạnh phúc ta kéo dài mười lăm phút.  
 
                - 
                Dĩ nhiên cội cây ấy 
                không vàng rực suốt đời cho mình ngắm đâu. Lá vàng rồi lá đỏ, và 
                cây từ từ trụi lá. Khi mình không tham đắm màu vàng mình mới 
                biết tận hưởng màu đỏ và cảm thấy hạnh phúc. Rồi khi cây trụi lá 
                mình cũng không tham đắm tiếc thương lá. Biết lá thế nào cũng sẽ 
                trở lại, mình mới thấy được cái đẹp của cội cây với những cành 
                khẳng khiu trụi lá, hùng vĩ can trường trong sương tuyết và mình 
                lại có hạnh phúc. Rồi khi xuân về, mình lại được thấy cái đẹp 
                khi những chồi hoa lá xuất hiện từ từ trên các cành khẳng khiu 
                kia một cách thật mầu nhiệm.  
 
                - 
                Cái hạnh phúc không 
                tham đắm đó gọi là thường. Khi mà có tuệ giác về vô thường rồi 
                thì cây vàng mùa thu cũng đẹp mà cây trụi lá mùa đông cũng đẹp. 
                Hạnh phúc đó là hạnh phúc trường cửu, hạnh phúc làm bằng chᮨ 
                niệm và bằng tự do. Những danh từ thường, lạc, ngã và tịnh ấy có 
                người sợ lắm. Họ xem những danh từ đó là kỵ, là không chánh 
                thống, là ngoại đạo. Ta phải hiểu bốn tiếng đó không phải theo 
                nghĩa trái chống với bốn tiếng vô thường, vô ngã, khổ và bất 
                tịnh. Thường (permanence), lạc (joy), ngã (sovereignty), tịnh 
                (non disturbance) ở đây là bốn đức của Niết Bàn, Niết Bàn có thể 
                thực chứng được tại đây và bây giờ.  
 
                - 
                Bụt chỉ cho mọi người 
                thấy tính cách vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của mọi sự 
                vật. Chúng ta quán chiếu để thấy được tính cách vô thường, khổ, 
                vô ngã và bất tịnh của vạn vật vì vậy ta có khuynh hướng từ bỏ 
                thế giới năm uẩn để đi tìm cái mà Bụt dạy, đó là Niết Bàn, trong 
                đó có thường, lạc, ngã và tịnh. Rất nhiều người đã đi lạc vào 
                trong cái quan niệm cho rằng niết bàn là một cái gì tách rời ra 
                khỏi cuộc đời vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh này. Đạo Bụt 
                đại thừa tới giúp ta nhìn sâu hơn, rõ hơn về những điều Bụt dạy 
                và nói rằng cái mà ta đang đi tìm đó, cái hạnh phúc và Niết Bàn 
                đó, chúng ta hãy tìm ngay trong thế giới của vô thường, khổ, vô 
                ngã và bất tịnh.  
 
                - 
                Vì vậy cho nên nếu 
                khéo léo quý vị sẽ thực tập được tự do, chánh niệm, giới luật, 
                chí và quán và sẽ chứng nhập được Niết Bàn, cảnh giới của 
                thường, lạc, ngã, tịnh tại đây, ngay trong cuộc đời này. Bốn từ 
                này phải được hiểu theo nghĩa của tự do, của giải thoát. Hạnh 
                phúc mà chúng ta đi tìm có tính cách trường cửu, trường cửu vì 
                được căn cứ trên tuệ giác về vô thường, căn cứ trên phong độ và 
                nhận thức tự do của chúng ta. Hạnh phúc ấy đem lại một niềm vui 
                vững bền, nuôi nấng chúng ta bằng nhiều chất liệu lợi lạc. Thực 
                tập là để cởi bỏ những sợi dây ràng buộc, để có tự do. Tự do ấy 
                mà không có thì ta không có gì hết. Khi sống cuộc đời của mình 
                trong tu viện mà được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bốn chất thường, 
                lạc, ngã và tịnh ấy thì ta mới nên nói về Phật pháp và mới nên 
                đem Phật pháp chia sẻ với người khác. Anh muốn giảng cho tôi 
                nghe về thường, lạc, ngã và tịnh thì anh phải nếm nó trước. Anh 
                hãy cười, hãy chứng tỏ là anh có hạnh phúc. Nếu không, tôi sẽ 
                không theo học với anh.  
 
                - 
                (Trích 
                "Về Việt Nam", NXB Lá Bối, 1992) 
 
                - 
                Thích 
                Nhất Hạnh 
 
                - 
                Làng 
                Hồng, ngày 
                
                28-11-1991
                
 
                - 
                
   
                - --o0o--
 
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |