| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  THẬP THIỆN NGHIỆP ÐẠO
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  TRONG ÐỜI SỐNG TẠI GIA.
 
                  
                
                
                
                   
                  - 
                  
                  ---o0o---
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                   
 
                  
                
                - 
                
                         I. 
                KHÁI NIỆM TỔNG 
                QUÁT:                                                           
                
 
                - 
                        
                Có 
                một số người cho rằng đạo Phật quá cao sâu  mầu nhiệm, người 
                thường trong thế gian khó có thể thực hành được. Chỉ có những 
                người thoát khỏi sự trói buộc của cuộc đời như vào chùa hay tu 
                viện  mới mong thực hiện được những gì mà Phật dạy. Nói cách 
                khác có người cho rằng   giáo lý đạo Phật chỉ dành cho những 
                tăng lữ. Ðây là một quan niệm sai lầm của những người chưa hiểu 
                được đạo Phật hoặc chỉ biết đạo Phật qua một vài quyển sách viết 
                với tinh thần chủ quan  lệch lạc.
 
                - 
                        Trái lại giáo 
                lý đạo Phật không phải chỉ dành cho một số người mà của mọi 
                người, giáo lý đó  không có sự phân biệt miễn người đó biết áp 
                dụng thực hiện những gì đức Phật dạy. Ngài Xá Lợi Phất 
                (Sariputta) nói: “Một người có thể sống trong rừng miệt mài 
                với sự tu tập khổ hạnh, nhưng cũng có thể đầy những tư tưởng xấu 
                xa, bất tịnh, một người khác có thể sống trong làng mạc hay thị 
                thành ,không thực hành kỷ luật ép xác nhưng tâm người đó có thể 
                trong sạch không có cấu bẩn. Trong hai người ấy, Ngài Xá 
                Lợi Phất bảo người sống trong sạch giửa làng mạc thị thành nhất 
                định là cao cả hơn người sống trong rừng nhiều”.
 
                - 
                          Qua đó 
                chúng ta thấy người Phật tử tại gia trong giáo lý đạo Phật không 
                phải là không có phần mà Ðức Phật đã xác định “ thừa tự pháp
                ” không phải chỉ dành cho Tăng sĩ (các vị xuất gia) mà là 
                của mọi người.  Có người hỏi, nếu một người theo Phật giáo ứng 
                dụng tinh thần Phật dạy trong đời sống tại gia, tại sao đức Phật 
                còn lập đoàn thể Tăng già?. Chúng ta biết rằng đời sống của một 
                Phật tử tại gia có nhiều rằng buộc, khó có thể hy sinh trọn vẹn 
                cho nhiều người, trong khi mộøt vị Tăng  vì không có nhiệm vụ 
                gia đình, không bị ràng buộc trong đời sống thế tục, chính vì 
                thế mà đức Phật mới hình thành giáo đoàn. Vì chính Tăng đoàn góp 
                phần duy trì phát triển nền tảng giáo lý của Phật.
 
                - 
                II. 
                NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA GIÁC NGỘ PHÁP ÐỂ TU:
 
                - 
                        
                 1/ 
                Niềm tin của Phật Tử trước khi đi đến giác ngộ:
 
                - 
                         Giác ngộ là 
                một đặc tính của đạo Phật và chính vì lẽ đó mà người Phật tử khi 
                hiểu giáo lý đạo Phật  một cách tường tận  mới đem áp dụng thực 
                hành ,nếu chưa tường tận mà tu tập là một  việc làm nông nổi 
                không đúng tinh thần Phật dạy.Trong lịch sử  các tôn giáo trên 
                thế giới không co một tôn giáo nào có tự do tư tưởng như  Ðức 
                Phật, vì theo Ngài con người có giải thoát được hay không, không 
                phải ai khác mà chính sự trực nhận chân lý,chứ không phải huyền 
                năng bên ngoài ban thưởng cho sự vâng lời đó. Ðức Phật xác định: 
                “ Các người nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai 
                chỉ dạy con đường mà thôi ”
                Ðức Phật là 
                bậc đã giác ngộ, nghĩa là đã bừng tỉnh, ra khỏi cơn mê của tâm ý 
                thức trong đời sống hiện tượng, tương đối. Vì đã giác ngộ, nên 
                Ngài đã dùng gần năm chục năm của cuộc đời Ngài, tận tụy dạy dỗ 
                chúng sinh, giơ cao ngọn đuốc soi đường, mong cứu chúng sinh ra 
                khỏi vô minh, do lầm nhận đời sống tạm bợ, được xây dựng nên bởi 
                tham, sân, si, rồi tạo nghiệp, trả quả báo, như những sợi dây 
                xích nối lại thành vòng tròn xoay vần không có ngày ra. 
                
 
                - 
                          Trong một 
                bài kinh Kamala đức Phật dạy: “Nầy những người Kamala,không 
                nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại. Không nên chấp nhận 
                điều gì chỉ vì tập tục cổ truyền để lại như thế.Không nên chấp 
                nhận điều gì bởi vì lời đồn đãi. Không nên chấp nhận điều gì  
                chỉ vì được ghi chép trong kinh sách, do ức đoán như vậy, suy 
                diễn như vậy, do nhận thấy bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì 
                chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của mình, hình như có thể chấp 
                nhận được. Không nên chấp nhận điều gì  chỉ vì nghĩ rằng vị tu 
                sĩ thốt ra, điều ấy được kính trọng từ trước.
 
                - 
                            Chỉ 
                tin sau khi các người hiểu rõ ràng, những điều nầy phù hợp với 
                luân lý; những điều  nầy không bị khiển trách, những điều nầy 
                được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện điều nầy sẽ 
                được an vui hạnh phúc, thì các người hãy hành động đúng như vậy
                ”.
 
                - 
                2/ Giác ngộ pháp gì 
                để tu?.
 
                - 
                a/ Ngũ thưà Phật 
                giáo:
 
                - 
                          Trong nền 
                giáo lý đạo Phật các nhà phán giáo có chia ra nhiều thừa khác 
                nhau nhưng phổ biến nhất là ngũ thừøa Phật giáo. Chử  Thừa  được 
                hiểu là xe, giáo pháp của Ðức Phật  ví như cổ xe có thể chở 
                người vượt qua phàm đến thánh, chính vì thế các nhà Phật học  
                dùng từ nầy để chỉ cho đại thừa(xe lớn)  hoặc tiểu thừa(xe nhỏ). 
                Tuy nhiên viêc phân chia nầy chỉ có tính cách ví dụ  chỉ cho 
                tâm  của người tu  chấp chặc hay buông xả mà thôi chứ thực ra 
                thời Phật không bao giờ phân biệt đại, tiểu. Ngày nay Phật giáo 
                trên thế giới cũng rất  ít dùng từ “đại thừa” hoặc  “tiểu 
                thừa” vì tránh đi sự phân hoá tinh thần “lục hoà cộng trụ” 
                của Tăng già; thay vào đó dùng “Phật giáo phát triển” ( 
                đại thừa) và “Phật giáo nguyên thủy” ( tiểu thừa). 
                Vậy ngũ thừa là gì?.
 
                - 
                Là 
                năm con đường  hay năm phương pháp đi đến giác ngộ, tùy theo căn 
                cơ và trình độ của từng cá nhân chọn phương pháp thích hợp để 
                ứng dụng tu có kết qủa, Phật giáo gọi đây là “ khế cơ ” trong 
                nền giáo lý đạo Phật . Con đường đến với đạo Phật  trước tiên  
                phải giác ngộ rồi sau mới ứng dụng tu,nếu không hiểu mà tu là 
                một việc sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật và 
                học Phật  phải là người sáng  suốt biết chọn lựa phương pháp ( 
                trạch pháp), niềâm tin mà không hiểu là tin mù quáng.Ðạo Phật đã 
                từng dạy: “đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin”.Vì lẽ 
                đó sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người Phật tử và ngũ 
                thừa Phật giáo là  bản đồ chỉ cho người giác ngộ đến với đạo 
                Phật.
 
                - 
                b/  
                Ứng Dụng Ngũ Thừa Phật Giáo:
 
                - 
                
                Nhân thừa: Nếu muốn  
                ứng dụng  nhân thừa việc trước tiên phải phát tâm quy y Tam bảo, 
                đây chính gieo duyên với Phật, Pháp, Tăng  trong nhiều đời. Bước 
                kế tiếp là thọ trì năm giới, đây chính là nền tảng của Phật giáo 
                nhằm xây dựng cho con người có một nhân cách hoàn thiện của một 
                con người thực sự là người như: Không giết hại chúng sanh 
                (sát sanh) không tham lam trộâm cắp (trộm cắp), không 
                lang chạ ngoại tình (tà dâm), không nói lời dối tra (vọng 
                ngữ)ù, không say sưa rượu chè (uống rượu). Ðây chính 
                là nền tảng đạo đức Phật giáo xuyên suốt từ xuất gia lẫn tại gia 
                đều dựa vào năm giới nầy làm căn bản. Nếu ứng dụng vào đời sống 
                hiện tại là một con người có nhân cách đạo dức, một gia đình có 
                hạnh phúc,một làng xã hoà thuận và một xã hội thanh bình. Nếu 
                một con người biết thực hành ngũ giới  hiện tại có an lạc cho tự 
                thân và gia đình sẽ hạnh phúc và tương lai sẽ sanh trở lại làm 
                người có nhân cách một con người. 
 
                - 
                -
                Thiên thừa: 
                Con đường sanh lên cỏi trời nếu người đó thực  hiện mười pháp 
                 thiện (thập thiện)   gọi thông thường là Thập thiện 
                nghiệp đạo được chia làm 2 phần: Tiêu cực và tích cực.
 
                - 
                Mười  điều lành tiêu 
                cực:  Chúng ta chỉ dừng lại ở  phần làm hay nói cách khác không 
                tạo  nghiệp ác, dựa trên  tam nghiệp(ba nghiệp:  Thân nghiệp có 
                3 ( sát, đạo, dâm), khẩu nghiệp có 4 ( không nói dối, 
                không nói ly gián, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu) và 
                ý nghiệp có 3 (Không tham lam, không nóng giận và không tà 
                kiến hay còn gọi là không si mê) .
 
                - 
                Mười diều lành tích 
                cực: 
                Chúng ta bước lên một bước tích cực hơn là đem thập thiệp đi vào 
                đời sống, biến tinh thần thập thiện bằng  hành động cụ thể:
 
                - 
                Về thân: 
                Không giết hại chúng sanh mà phải lòng từ ra cứu vớt chúng sanh, 
                không gian tham trộm cắp còn biết đem tài sản vật chất ra bố thí 
                giúp đở mọi người, không tà  dâm mà còn trinh bạch thủy chung. 
                Chuyển hoá những hành động xấu phát xuất từ thân trở thành những 
                hành động đẹp, có ích cho người cho mình. Chính hành động chuyển 
                hoá nầy tích cực góp phần làm cho Thân được thanh tịnh ngay 
                trong đời sống hiện tại
 
                - 
                                   Về 
                miệng:  
                Không nói dối  mà phải biết nói lời chân thật, không nói ly 
                gián(lưỡng thiệt)  mà phải biết nói  gây được hoà thuận 
                với mọi người, không nói thêu dệt mà phải biết nói đúng lẽ thực 
                và đúng lẽ phải, không nói ác mà phải biết nói  nhã nhặn ôn hòa.
 
                - 
                Về Ý: 
                 Không tham  lam mà 
                phải biết  khởi lòng từ bi đối với mọi người; không sân hận mà 
                còn phải biết nhẩn nhục, không tà kiến mà phải biết  chánh 
                kiến.  
 
                - 
                Kết qủa của pháp tu 
                thập thiện là hành giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh về 
                cỏi trời.
 
                - 
                 Thinh 
                văn thừa: Ðây Pháp nền tảng giáo lý đạo Phật nó đưa hành 
                giả từ phàm đến thánh, cho nên khi không hiểu được  chân lý tức 
                là không hiểu tứ đế: “không thấy được tứ đế là vô minh”
                .Tứ đế còn gọi là Tứ Thánh Ðế hay Tứ  Diệu Ðế, thường được 
                hiểu  là 4 chân lý cao cả chắc thật  :
 
                - 
                          - Khổ đế (Dukkha) 
                : Về sự khổ, ngoài tinh thần là bao của khổ , nó còn chứa 
                đựng một ý nghĩa sâu sắc hơn đó là : bất toàn, vô thường, trống 
                rổng, giả tạm. Khổ đế được thể hiện nơi con người như: sanh, già 
                bệnh, chết, thương yêu phải xa lià ( ái biệt ly), mong 
                cầu không được toại nguyệïn (cầu bất đắc), oan gia ghét 
                bỏ mà luôn gặp nhau(oán tắng hội) và năm ấm không được 
                đều hoà ( ngũ ấm xí thạnh khổ)...
 
                - 
                          - Tập đế (Samudaya) 
                : Nguồn gốc của khổ: Tất cả những khổ đau không phải ngẫu 
                nhiên mà có,mà nó bắt nguồn từ những nguyên nhân: tham lam, sân 
                hận, si mê, mạn, nghi, ác kiến, kiết thủ, giới cấm thủ,tà kiến 
                .Tập hợp những nguyên nhân tạo thành ngã chấp mà sanh ra khổ 
                đau.
 
                - 
                  - Diệt đế 
                (Nirodha): Sự chấm dứt khổ: Muốn trừ dệt mọi khổ đau 
                con người phải  đoạn trừ tham ái vì ái là gốc tạo ra khổ .Con 
                đường chấm dứt  và đoạn trừ ái đạt  được  Niết Bàn, đó chính là 
                sự chấm dứt dục vọng mà kinh Pháp Hoa gọi :“ Như củi hết lữa 
                tắt ” . Một khi hành giả  đạt được con đường đi đến  
                Niết Bàn  sẽ thành tựu tứ thánh qủa ( Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A 
                Na Hàm Và A La Hán) .
 
                - 
                          - Ðạo đế (
                Magga) : Con đường đưa đến sự chấm dứt khổ: Con 
                đường nầy Phật gọi la con đường trung đạo vì nó tránh hai cực 
                đoan đó là qúa chạy tìm h ạnh phúc thông qua con đường dục lạc. 
                Con đừơng nầy gọi là 37 phẩm trợ đạo gồm có:
 
                - 
                Bốn món niệm xứ ( 
                Tứ Niệmxứ): Quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán 
                Pháp vô   ngã và quán thọ thị khổ.
 
                - 
                 Bốn 
                món chánh cần ( Tứ Chánh cần): Tinh tấn ngăn ngưà những 
                điều ác chưa phát sanh đừng cho nó sanh; Tinh tấn dứt trừ những 
                điều ác đã phát sanh  đừng cho nó tăng trưởng ; Tinh tấn làm cho 
                điều lành chưa phát sanh làm cho nó phát sanh; Tinh tấn phát 
                triển làm những điều lành đã phát sanh làm cho nó tăng trưởng.
 
                - 
                Tứ như ý Túc ( Bốn 
                phương pháp đi đến thiền định ): Dục như ý túc; Tinh tấn như 
                ý túc;
 
                - 
                Nhất tâm như ý túc;  
                Quán như ý túc.
 
                - 
                Ngũ căn, ngũ lực:
 
                - 
                          - Ngũ 
                căn: tín căn , tấn căn, Niệm căn, định căn, huệ căn.
 
                - 
                - Ngũ lực: 
                tín lực , tấn lực,Niệm lực, định lực và huệ lực.
 
                - 
                 Bảy 
                phương pháp đi đến giác ngộ ( Thất Bồ Ðề phần ): Trạch 
                pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác 
                chi, Niệm giác chi, định giác chi và xã giác chi.
 
                - 
                Bát chánh đạo: Chánh 
                kiến, chánh tư duy ,chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh 
                tinh tấn, Chánh niệm,chánh định .
 
                - 
                Người 
                Phật tử chân chính là người thấy cuộc đời : “Như thật tri kiến 
                ”, cho nên không khổ đau, sầu muộn, sợ hải, lo âu...Người Phật 
                tử khi tu pháp Tứ đế  làngười có hạnh phúc giửa nhân gian, luôn 
                luôn bình an  giải thoát không bị cuộc đời làm điêu dứng đảo 
                điên vì họ thấy được đúng như thật về cuộc đời.
 
                - 
                Duyên giác thừa:  Ðây 
                là con đường của hành giả tu theo 12 nhân duyên( thập nhị nhân 
                duyên) bao gồm: Vô minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, 
                xúc,thọ, ái, thủ, hữu  , sinh,  lão, tử. Do thấu rõ lý duyên 
                sinh của mọi pháp nên hành giả đạt được qủa Duyên giác . Ðây là 
                con đường chấm dứt sự khổ đạt được qủa vị Niết Bàn. 
 
                - 
                Bồ tát thừa: Ðây là 
                con đường thực hành Bồ tát hạnh cũng chính là con đường  độ tha 
                “ vì lợi ích chúng sanh” trên bước đường đi đến Phật qủa, đó là 
                pháp lục độ. Còn gọi là 6 phương pháp đưa người  qua bên kia bờ 
                giải thoát: Bố thí Ba la mật, Trì giới ban la mật, Nhẩn nhục 
                ba la mật, tinh tấân ba la mật, Thiền định ba la mật và  trí huệ 
                ba la mật.
 
                - 
                
                          c/  
                iác ngộ lý nhân quả & luân hồi:
 
                - 
                Giác ngộ lý nhân quả: 
                Mọi sự vật hiện tượng  trên thế gian nầy nếu chúng ta đem ra 
                khảo sát  thì không có sự vật hiện tượng nào không có nhân quả 
                mà hình thành. Nó không phải do  ai đặt ra mà là một quy luật 
                chung của thiên nhiên, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người 
                cũng vạn vật. Ðối với đạo Phật  thì nhân quả  là yếu tố quan 
                trọng, trong việc xây dựng niềm tin cho người học Phật: “ tin 
                nhân quả là chánh tín, không tin nhân quả là mê tín”.
 
                - 
                          -  Ðịnh 
                nghĩa: Nhân là nguyên nhân, qủa là kết qủa  của nguyên nhân 
                đó tạo nên .Nhân là năng lực tác động ,quả là sự thành tựu của 
                năng lực tác động đó
 
                - 
                - 
                Những quan niệm sai 
                lầm về nhân quả:  cho rằng,  bất cứ một sự vật nào có mặt  do 
                bàn tay của đấng sáng tạo  hoặc hoàn cảnh giàu nghèo, hạnh phúc 
                hay khổ đau của con thường đổ thưà cho số mạng hay do Ông Trời, 
                Thượng Ðế như Nguyễn Du đã nói: “ Bắt phong trần phải phong 
                trần, cho gian lao phải chịu phần gian lao”. Ðối với Phât 
                giáo tất cả đều có nhân của nó không phải do “đấng sáng tạo” 
                nào  sắp đặt hoặc do “ số mạng an bài ”  hay do “ ngẫu nhiên” 
                hên sui mai rũi mà có.
 
                - 
                - Ðặc tính của nhân 
                quả: Chúng ta có thể tóm tắt nhân quả trong 4 câu.
 
                - 
                Dục tri tiền thế nhân
 
                - 
                Kim sanh thọ giả thị
 
                - 
                Dục tri hậu thế qủa
 
                - 
                Kim sanh tác giả thị
 
                - 
                ( Muốn biết nhân đời 
                trước , hảy nhìn quả đời nay mình hưởng.
 
                - 
                Nếu muốn biết quả đời 
                sau hảy nhìn nhân đời nay mình tạo).
 
                - 
                - Sự lợi ích khi hiểu 
                nhân quả: Sau khi hiểu được lý nhân quả người Phật tử không còn 
                bị quan niệm sai lầm làm mê mờ mất hết ý chí tự chủ chính mình. 
                Chính sự hiểu biết nhân quả giúp chúng ta lạc quan tin tưởng  
                hơn vào chính mình ở hiện tại cũng như tương lai.
 
                - 
                Trong đời sống hằng 
                ngày của người con Phật hiểu được nhân quả là một quy luật cho 
                nên khi làm việc gì, nói lời nào đều phải nghĩ  đến kết quả mà 
                mình tạo ra trong đời sống.
 
                - 
                Lý luân hồi 
                (Samsera):
 
                - 
                Vấn đề có hay không 
                có  luân hồi trong đời sau, nó làm cho con người băng khăng, 
                thắc mắc từ nhiều đời nay. Nhìn ở góc độ Phật giáo sự luân hồâi 
                được hiểu  như một qúa trình chuyển hoá, biến đổi xê dịch của 
                mọi sự vật hiện tượng trong thế 
                gian.                                                                                                 
                
 
                - 
                - Ðịnh nghĩa:  Chử 
                Samsera là bánh xe, người Trung Hoa dịch là Luân  ,còn chử hồi 
                là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe quay là một hình ảnh nhằm để chỉ 
                sự  luân hồi của chúng sanh  xuống lên trong lục đạo(trời, 
                người,A Tu la, điạngục, ngạ quỹ và súc sanh ) .
 
                - 
                -  Nhìn  vào mọi sự 
                vật  từ đất nước gió lửa cho  đến con người đều biến đổi từ 
                trạng thái nầy sang trạng thái khác, từ đời sống nầy  sang đời 
                sống khác  mà chúng ta nếu pân tích có thể giải thích trên cơ sở 
                khoa học.    
 
                - 
                - Khi hiểu được sự 
                luân hồi  chúng ta không còn quan niệm sai lầm  về thân phận 
                mình và luôn luôn cố  gắng vươn lên vì chết không phải là mất 
                hẳn. Chính hiểu được như vậy cho nên chúng ta  thực hiện  những 
                điều tốt đẹp và cố tránh những điều xấu xa trong hành động, tư 
                tưởng ngõ hầu tránh rơi vào nơi khổ đau  khi bước vào một đời 
                sống khác.
 
                - 
                III.XÁC ÐỊNH THIỆÏN 
                ÁC THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO:
 
                - 
                Trong mọi xã hội 
                thiện ác là những quy ước theo từng phong tục tập của mỗi  quốc 
                gia khác nhau, ở đây cho là tốt nơi khác cho điều đó là xấu. 
                Quốc gia nầy cho điều nầy là phải nơi khác lại cho là sai. Sự 
                đúng sai phải trái ở từng lúc từng nơi  khó có ranh giới nhất 
                định ,ơÛ đây Phật tử  chúng ta tu theo Phật  và học Phật  căn cứ 
                vào lời Phật dạy  để xác định quan niệm sống đúng với Chánh 
                pháp.
 
                - 
                1/ Thế nào là thiện 
                ác?
 
                - 
                a)Ðịnh nghĩa thiện ác: 
                Những gì có lợi cho mình, cho người trong hiện tại đến tương lai 
                gọi là thiện. Ngược  lại những gì có hại cho mình và người hiện 
                tại đến tương lai là ác.
 
                - 
                Như  được trình bày ở 
                trên, khi đánh giá thiện ác phải nhìn toàn diện không nên chỉ 
                căn cứ ở một khía cạnh đạo đức đơn thuần  của một quốc gia một 
                dân tộc thông qua 3 nghiệp: thân, khẩu, ý
 
                - 
                          b)Những 
                quan niệm Thiện ác của thế gian: 
                Có người cho tằng “ăn hiền ở lành” là thiện ? và chính từ 
                câu nầy mà Nho giáo cố đưa quan niệm Thiện ác của mình vào đời 
                sống băng những câu: “ tâm hành từ thiện hà tu nổ lực khán kinh” 
                (Lòng hằng từ thiện ,cần chi gắng sức xem kinh) hoặc  “ 
                Vô cầu thắng bố thí, cẩn thủ thắng trì trai”( không tham cầu 
                hơn là bố thí, khéo  giử gìn  nề nếp hơn là trì trai).
 
                - 
                2/  Mười Nghiệp lành 
                :
 
                - 
                a) Ðịnh nghĩa :
                Tiếng Phạn 
                là Karma có nghĩa là hành động tạo tác qua thân klhẩu ý và điều 
                nầy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Ðức Phật nói: “ Nầy các Tỳ 
                kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có 
                hành động thân khẩu ý ”. Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều 
                giúp cho con người thực hiện  trong sạch hoá thân khẩu  và ý .
 
                - 
                b) Các loại nghiệp:
 
                - 
                Về phương diện thời 
                gian:
 
                - 
                -    Thuận 
                sanh nghiệp: 
                là nghiệp đem lại 
                trong kiếp kế tiếp.
 
                - 
                -    Hiện 
                báo nghiệp: 
                Là nghiệp gây ra 
                trong kiếp hiện tại và có kết quả  tức thì.
 
                - 
                -    Hậu 
                báo nghiệp: 
                đời nầy tạo nghiệp đời sau mới có quả.
 
                - 
                -     Vô 
                hiệu nghiệp:Nghiệp 
                tạo ra theo lẽ phải bị quả báo nhưng  không đủ yếu tố phát khởi 
                nên trở thànhvô hiệu.
 
                - 
                Về phương năng lực( 
                khả năng báo ứng )
 
                - 
                -    Cực 
                trọng nghiệp : 
                Ðây là nghiệp tạo tội 
                ngũ nghịch(Giết cha, giết Mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật bị 
                thương chảy máu,Phá hoà hợp tăng).
 
                - 
                -     Cận 
                tử nghiệp: 
                Nghiệp nầy đến lúùc thân sắp mất mới phát khởi.
 
                - 
                -     Tập 
                Quán nghiệp:  
                Thói quen trong một đời hay nhiều đời do tập quán để lại.
 
                - 
                -     Tích 
                lũy  nghiệp:  
                do nhiều đời nhiều kiếp tạo nên  mỗi lần mỗi ích trở thành 
                nghiệp.
 
                - 
                IV .NỘI DUNG THẬP 
                THIỆÏN NGHIỆP ÐẠO:    
 
                - 
                Như 
                đã trình bày ở trên  con người sở dĩ  khổ đau trong hiện tại 
                cũngnhư  luân hồi sinh tử ,nguyên nhân chính là do  chính tự 
                thân tạo ra . Muốn chuyển đổi hoàn cảnh chính mình  việc trước 
                tiên chúng ta phải biết chọn cho mình một hướng đi hay nói cách 
                khác chúng ta phải biết giao nhân để gặt quả. Ðó mới chính là 
                con người khôn ngoan. Con đường thiết thực góp phần xây dựng bản 
                thân,chuyển hoá hoàn cảnh không thể không thực hành thập thiện. 
                Thế giới ngày nay nhân loại  tranh giành chém giết lẫn nhau, đạo 
                đức của một số người cũng từ đây mà suy thoái, giửa người với 
                người mất hết  tình thương  yêu qúi trọng chỉ còn là lòng đố kỵ 
                hơn thua.Ðó chính là do con người tạo 10 ác nghiệp.cho nên Tổ 
                Huệ Viễn nói: “ Mười nghiệp lành nầy ,nếu có thể từ một nhà,một 
                làng (xã) đến một quốc gia mà thực hành  thì thuần phong mỹ 
                tục,hình phạt của xã hội sẽ giảm bớt, cá nhân đó được an lạc,gia 
                đình được hạnh phúc, quốc gia sẽ thái bình.  Thập thiện nghiệp 
                đạo dựa trên 3 thành tố : Thân khẩu  và ý nghiệp mà phát khởi.
 
                - 
                          1/ Thân 
                nghiệp chia làm 3 loại:
 
                - 
                a) Không sát sanh: 
                Các nhà 
                nghiên cứu Phật phân tích cho rằng : “ Sát sanh là cắt đứt sự 
                sống,tâm vật lý của một chúng sanh, ngăn chặn sức tiến của năng 
                lực một đời sống”. Có 5  yếu tố tạo nên nghiệp sát : - Có 
                một chúng sanh, biết rằng đó là một chúng sanh, ý muốn giết, cố 
                gắng để giết và giết chết chúng sanh đó. 
 
                - 
                b) Không trộm cướp: 
                Không phải là tài sản vật sở hữu của mình mà mình chiếm đoạt 
                bằng cách nầy hay cách khác đều là tội trộm cướp. Có 5 yếu tố 
                cấu thành tội trộm cướp: Một vật sở hữu của người khác; Biết đó 
                không phải là của mình  mà mình tìm cách lấy; Cố ý muốn chiếm 
                đoạt; Cố gắng thực hiện ý định chiếm đoạt đó và thành tựu ý 
                trộm.
 
                - 
                c) Không tà dâm: 
                Không phải là vợ ø chồng ,không có hôn phối với nhau mà có mối 
                quan hệ  như vợ chồng đó là tà dâm. Tà dâm  được chia làm 4 
                loại: Phi phận dâm ( k hông phải là hôn phối  mà quan hệ với 
                nhau); Phi thời dâm ( là vợ chồng nhưng quan hệ với nhau không 
                phải lúc); Phi xứ dâm ( quan hệ không đúng nơi đúng chổ,trái với 
                bình thường) và Phi nhân dâm (quan hệ với loài không phải 
                người).
 
                - 
                2/ Khẩu nghiệp chia 
                làm 4: 
 
                - 
                          a) Không 
                Vọng ngữ: “ Vọng ngữ được hiểu như lời nói không thật nhằm 
                mục đích mưu cầu lơị ích riêng tư ”. Có ý giả dối,Ý muốn người 
                khác hiểu sai sự thật; thốt ra lời nói làm cho người khác hiểu 
                lệch đi .Vọng ngững được chia làm 3 loại: Ðại vọng ngư õ(Không 
                chứng đạo mà cho mình chứng để người khác tôn trọng ); Tiểu vọng 
                ngữ ; Phương tiện vọng ngữ .
 
                - 
                b) 
                Không nói thêu dệt ( ỷ ngữ):  Không trao chuốc thêu hoa dệt gấm, 
                không ngon ngọt chết người nhằm mục đích dụ dỗ đưa ngươi vào nơi 
                nguy hiểm.
 
                - 
                 c) Không nói lưỡi 
                hai chiều ( 
                lưỡng thiệt):
                 Không  đến người nầy nói chuyện bên kia, đến bên kia không 
                nói chuyện bên nầy.
 
                - 
                d) Không nói lời hung 
                ác ( ác 
                khẩu):
 
                - 
                          3/ Ý nghiệp 
                chia làm 3: 
 
                - 
                a) Không tham lam:
                Tham được 
                hiểu như là lòng dục của chúng sanh bao gồm có ngũ dục: ( tài 
                dục,sắc dục, danh dục , thực dục và thùy  dục). Ðây là năm loại  
                dục  làm cho con người tham đắm không thể thoát được sự trói 
                buộc của nó.
 
                - 
                b)Không sân hận:  
                Lòng giận  được  các vị tổ sư xem như cửa ngỏ  của các tội ác “ 
                Nhứt niệm tâm sân khởi,bá vạn chướng môn khai” ( một niệm sân 
                nổi lên thì các cửa khác đều mở)  hay  “ nhứt niệm tâm sân 
                khởi năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” ( Một niệm sân nổi 
                lên sẽ thiêu tất cả muôn ngàn công đức ).
 
                - 
                c) Không si mê:  
                đối với Phật giáo nguyên thuỷ loại thứ ba nầy được gọi là tà 
                kiến. Ðây là sự vô minh không nhận ra lẽ thực chỉ chấp chặc 
                những hư dối không thật có,đưa đến chấn ngã,chấp nhân...
 
                - 
                V.ỨNG DỤNG 
                THẬP THIỆN VÀO ÐỜI SỐNG TẠI GIA:
 
                - 
                           Chúng ta 
                biết rằng  con đường đi đến Tam thưà đều lấy  thập thiện nghiệp 
                đạo làm nền tảng.vì thập thiện có sức mạnh ngăn chặn những hành 
                vi ác , nó cũng có công dụng đối trị với hành vi bất thiện. Ðối 
                với Phật tử tại gia thập thiện là con đường, phương pháp chuyển 
                hoá hoàn cảnh bản thân và gia đình xã hội, khi chúng ta áp dụng 
                thập thiện hằng ngày.
 
                - 
                1/ Cải tạo bản thân:  
                Do nghiệp lực thúc đẩy, chi phối đưa con người đến khổ đau, nếu 
                bản thân chúng ta biết áp dụng điều lành xa rời điều ác, do đó 
                đời nầy an vui đời sau sanh vào cỏi lành.Nếu một người biết ứng 
                dụng tu thập thiệp nghiệp đạo vào đời sống tức là người đó tự 
                mình làm cho nhân cách đạo đức của mình được chuyển hoá. 
                
 
                - 
                2/ Cải tạo hoàn 
                cảnh:  Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời nầy đều do mình làm 
                chủ  chứ không phải ai khác.  thế giới ngày nay thiên tai dịch 
                bịnh làm điêu dứng con người ,sự thống khổ không biết đâu mà 
                cùng Nếu chúng ta biết chuyển biến chính mình xây dựng gia đình 
                thì hoàn cảnh cũng từ đó phát sanh hoàn cảnh tốt.Khôngthể ngồi 
                đó trách đất  than trời.
 
                - 
                3/ Chánh nhân thiên 
                giới:   Tu tập thập thiện  là nguyên nhân sanh về cỏi trời  có 
                phước báu hơn người, nó cũng là nhân lành  thoát khỏi sanh tử 
                khổ đau khi ba nghiệp thanh tịnh.
 
                - 
                KẾT LUẬN:
 
                - 
                          Ðức Phật là 
                đấng y vương biết bệnh mà cho thuốùc ,tuỳ theo tâm bệnh ấy  Ngài 
                dạy những phương pháp  khế với hoàn cảnh và căn cơ của chúng 
                sanh  đễ giúp cho người đó đi đến con đường giải thoát.Nếu tu 
                thập thiện thân tâm của chúng ta sẽ được cải thiện, hoàn cảnh 
                sống cũng nhờ đó được  thay đổi  tránhxa những ác pháp do nhờ 
                thực hành thiện pháp . Ðiều nầy Ngài Ðiều ngự Giác Hoàng thời 
                Trần đã phát tâm thực hạnh đầu đà đi khắp hang cùng ngõ hẻm của 
                những vùng nông thôn Việt Nam  với mục đích duy nhất là truyền 
                bá tinh thần thập thiệp nghiệp đạo, cũng vì lợi ích cho mọi 
                người.
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |