| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Căn Bản Pháp Hành Thiền
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Thiền Sư Panyapatipo
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  (Phra Acharn Plien Panyapatipo)
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Chiang-Mai, Thái Lan
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Phạm Kim Khánh dịch Việt
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Seattle, Hoa Kỳ - 1994
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Giới 
                thiệu Tác Giả:
 
                - 
                Đại Đức 
                Acharn PLIEN PANYAPATIPO ra đời vào ngày 16 tháng 11, năm 1933, 
                trong gia đình Wongsachandra, quận Sawang-Dan-Din, tỉnh Sakon 
                Nakorn, miền Đông Bắc xứ Thái. Lúc còn thơ ấu Ngài sống với ông 
                bà, cho đến năm lên 11 tuổi thì trở về phụ giúp cha mẹ buôn bán 
                tiệm trong làng.
 
                - 
                Khi lên 
                18 Ngài tỏ ý muốn theo học ngành y khoa, do đó bắt đầu phụ tá 
                cho vị bác sĩ trong xứ, vốn là người trong họ. Nhưng rồi Ngài 
                gác lại dự định đi Bangkok học nghề y sĩ để vâng lời cha mẹ ở 
                nhà phụ giúp gia đình.
 
                - 
                Mặc dầu 
                từ lúc thiếu thời lúc nào ý nguyện cũng hướng về đời sống tu sĩ 
                nhưng mãi đến năm 1959 Ngài mới xuất gia tại Wat Dhat' Mechai, 
                thuộc tỉnh Sakon Nakorn và sau đó ba năm, đậu bằng Giáo Pháp cấp 
                Một.
 
                - 
                Sau mùa 
                An Cư Kiết Hạ năm ấy Ngài lên đường tìm minh sư để học pháp hành 
                và gặp được nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng vào thời bấy giờ tại 
                miền Đông Bắc, miền Nam và miền Bắc xứ Thái, quan trọng nhất là 
                Ngài Acharn Luang Pu Brohm Jirapunno, Acharn Luang Pu Thet 
                Desaransi, Acharn Luang Pu Teur Achaladhammo và sau cùng Ngài 
                Luang Pu Waen Suchino (theo Thái ngữ, danh từ "Acharn" -- Ajahn, 
                A-chàn -- có nghĩa là Thầy. Luang Pu là Đại Đức Ông, hay Sư Ông, 
                bao hàm ý niệm vừa tôn kính vừa quý mến).
 
                - 
                Trong 
                hiện tại Acharn Plien là Tăng Trưởng Wat Aranyavivake, trong 
                quận Mae Taeng, tỉnh Chieng Mai, miền Bắc xứ Thái.
 
                
                   
                  - 
                  -- 
                  o0o --
 
                  
                
                - 
                Dưới 
                đây là một thời Pháp của Acharn Plien về "Căn Bản Pháp Hành 
                Thiền":
 
                - 
                * Tính 
                chất cốt yếu của pháp hành thiền Định (Samàdhi) là học hỏi nhằm 
                hiểu biết cái tâm.
 
                - 
                * Tâm 
                hay biết và suy tư , nghĩ ngợi điều này rồi nhảy sang điều kia, 
                quây quần theo những vấn đề khác nhau. Lơ đểnh buông lơi, lợi 
                dưỡng trong giả tưởng và những ý niệm ấy là làm cho tâm luôn 
                luôn khuấy động, không bao giờ ngừng nghỉ.
 
                - 
                * Hay 
                biết, theo dõi, ghi nhận cái tâm suy tư, được gọi là niệm 
                (sàti).
 
                - 
                * Thấu 
                hiểu cái tâm đang suy tư là sampajanna, tức hiểu biết rõ ràng và 
                sáng suốt.
 
                - 
                * Chúng 
                ta cần phải rèn luyện chú niệm (sàti) và hiểu biết rõ ràng 
                (sampajanna) đủ bén nhạy để kịp theo dõi tâm. 
 
                - 
                Nếu chú 
                niệm còn yếu ắt không đủ lanh lẹ để theo kịp cái tâm vốn phóng 
                chạy đầu này, xẹt nhảy đầu kia vô cùng nhanh chóng, và do đó 
                pháp hành vắng lặng (samàdhi) không thể tiến triển tốt đẹp, ta 
                không thể gom tâm vào đề mục đã chọn, không thể chăm chú vào hơi 
                thở-vào và thở-ra. Thay vì thế, tâm cứ tiếp tục trôi chảy theo 
                con đường thiên nhiên của nó, niệm bị bỏ rơi lại, mãi chạy theo 
                sau không bắt kịp. Chúng ta cố gắng đem nó trở về. Vừa gần đến 
                nơi thì nó đã lẫn thoát nhảy vọt sang "Hoa Kỳ", và trong khi 
                theo dõi, ta thấy nó đã về Thái… hoặc sang Đức. Chúng ta chỉ có 
                thể đuổi chạy theo sau nhưng không bắt kịp vì niệm vẫn chưa được 
                phát triển đầy đủ, chưa thuần thục. Niệm không theo kịp tâm. Đó 
                là căn nguyên của những vấn đề khó khăn mà hành giả gặp phải 
                trong khi trau giồi thiền vắng lặng (cũng gọi thiền định, hay 
                thiền chỉ). Vì lẽ ấy, điều chánh yếu là phải gia công chuyên cần 
                trau giồi niệm (sàti).
 
                - 
                * Pháp 
                hành nhằm phát triển chú niệm khởi đầu bằng cách hay biết oai 
                nghi (tư thế) của thân trong giây phút hiện tại. 
 
                - 
                Đứng, 
                hay biết mình đang đứng. Đi, hoặc nằm, ngồi, luôn luôn theo sát 
                sự di chuyển và oai nghi của thân vào lúc ấy. Tắm, ăn, hoặc đi 
                giải, luôn luôn hay biết đầy đủ những gì đang xảy ra. Sự hay 
                biết không gián đoạn những tác động của thân đem niệm (sàti) và 
                hay biết rõ ràng (sampajanna) lên hàng đầu.
 
                - 
                Một khi 
                chú niệm và giác tỉnh đã thuần thục, quý vị sẽ hay biết sự thay 
                đổi oai nghi ngay vào lúc tác động xảy diễn: đang làm việc, giặt 
                quần áo, rửa chén, đọc hay viết, may vá hay thêu thùa, bất luận 
                việc gì mà quý vị đang làm, quý vị sống trong đó, ngay trong 
                hiện tại, trong tác động. Ngay trong lúc đang làm, trong công 
                việc đang làm. Không để phóng tâm, chớ nên lơ đểnh để tâm xẹt 
                nhảy. Đó là phương cách trau giồi niệm trong cuộc sống hằng 
                ngày.
 
                - 
                Quý vị 
                sẽ thấy rằng niệm trở nên nhanh nhẹn, sắc bén hơn, có thể nhận 
                ra và bắt kịp cái tâm luôn luôn trôi chảy. Bất luận nơi nào mà 
                tâm phóng đến, niệm sẽ theo sát và kịp thời đem trở về đề mục 
                (cũng gọi là công án). Đã điêu luyện hơn trong pháp hành, quý vị 
                có thể thành công gom tâm an trụ vào hơi thở-ra thở-vào. Mỗi khi 
                tâm phóng, quý vị sẽ có thể bắt lại và đem trở về hơi thở.
 
                - 
                Giờ đây 
                niệm (sàti) đã thuần thục và sắc bén, quý vị hãy đưa tâm cùng 
                với chiều hướng suy tư của nó an trụ vào hơi thở cho đến khi cảm 
                nhận luồng hơi thở ra vào. Vào lúc quý vị thật sự cảm nhận hơi 
                thở, tâm cũng hiện hữu cùng với hơi thở. Nếu không thấy rõ ràng 
                hơi thở, ắt tâm đã phóng đi đâu khác. Chừng khi đem tâm trở lại, 
                quý vị phải có thể hiểu biết như vậy. Dầu sao, nếu không còn ở 
                với hơi thở tâm sẽ phóng đi bất định và không còn hay biết.
 
                - 
                Quý vị 
                hành giả nào có thể gom tâm quán niệm ở hơi thở một cách tương 
                đối dễ dàng sẽ thấy rằng tâm mình trở nên an tĩnh, vắng lặng, 
                cùng với hơi thở-ra thở-vào. Có sự hay biết rõ ràng từng hơi 
                thở-ra, thở-vào, nặng hay nhẹ, dài hay ngắn, luồng hơi này tiếp 
                theo luồng hơi khác. Trạng thái hay biết như vậy chỉ rằng tâm đã 
                cùng ở với hơi thở.
 
                - 
                Nên 
                hiểu biết như thế này: Nếu tình trạng gom tâm như vậy chỉ phát 
                sanh yếu ớt và tồn tại trong một thời gian ngắn thì được gọi là 
                "tạm định" (khanika samàdhi, định, samàdhi, một cách tạm thời, 
                khanika). Tâm phóng đi, ta kéo về, quán niệm hơi thở trở lại. An 
                trụ như vậy một thời gian, hơi thở hình như trở nên ngày càng vi 
                tế hơn nhiều, hầu như không còn nữa. Quý vị không còn thấy hơi 
                thở ở đâu hết ! Đến lúc bấy giờ vài người sợ chết, "Hơi thở của 
                tôi đâu mất rồi? Vừa mới thấy ở đây tức thời mà!…", và rồi họ 
                xuất thiền, ra khỏi trạng thái định (samàdhi). Họ xuất thiền vì 
                sợ chết.
 
                - 
                Không 
                nên sợ và bỏ cuộc như vậy. Hơi thở vẫn còn đó, chỉ vì nó vô cùng 
                vi tế, vô cùng tế nhị. Không cần phải tìm nó ở đâu khác. Hãy 
                hướng chú niệm và giác tỉnh vào tâm, và đưa nó trở về đề mục. 
                Hãy quán chiếu và khảo sát: "Một cách chính xác, tâm phát xuất 
                từ căn nguyên nào? Những suy tư của tâm phát sanh từ đâu? Cảm 
                giác thỏa thích và hạnh phúc được chứng nghiệm lúc bấy giờ như 
                thế nào?". Ngay vào khoảnh khắc ấy quý vị tìm thấy tâm mình. Giờ 
                đây, hãy hướng nó về trước ngực hoặc một điểm nào khác trong 
                thân. Hãy đặt cảm giác thỏa thích mà tâm đang chứng nghiệm trên 
                điểm ấy và giữ lại đó, cùng với niệm và giác tỉnh, hay biết rõ 
                ràng. Giữ quán niệm của quý vị lại đó, để nó ở nơi mà "suy tư" 
                phát sanh. Làm như thế ấy ít lâu sẽ phát triển một trạng thái 
                vắng lặng thâm diệu và vững vàng sâu sắc hơn, dần dần cho đến 
                khi tâm đạt đến "cận định" (upacàra samàdhi -- "upacàra" là gần 
                kề).
 
                - 
                Đến đây 
                vài người có thể chứng nghiệm ánh sáng tỏ rạng (định tướng, 
                nimitta). Nhưng nếu không có gì xảy ra, chớ nên nản lòng. Pháp 
                hành thiền không hề liên quan đến ý muốn trông thấy bất luận 
                hiện tượng nào. Quý vị chớ nên chế tạo những ấn chứng, trông chờ 
                ánh sáng hoặc cái gì tương tợ. Không nên nghĩ đến điều gì có thể 
                sắp xảy ra. Trạng thái vắng lặng sẽ tự nó phát triển theo đường 
                lối của nó, và bất cứ gì xảy ra sẽ xảy ra. Không nên vọng móng, 
                nóng lòng muốn thấy cảnh trời hay cảnh địa ngục, bởi vì chính 
                loại suy tư có tánh cách ham muốn ấy sẽ gây trở ngại, chận đứng 
                con đường dẫn đến vắng lặng.
 
                - 
                Quý vị 
                hành giả nào đã an trụ tâm dễ dàng, chắc chắn sẽ chứng nghiệm 
                tình trạng thoải mái hoan hỷ ngay lúc tâm vừa an tĩnh và vắng 
                lặng. Lần đầu tiên quý vị sẽ tự mình nhận thức hạnh phúc của an 
                lạc là như thế nào. Tâm tự tại và thoải mái, vắng lặng và thỏa 
                thích. Trạng thái này cũng bao hàm chi thiền "phỉ" (pìti), mặc 
                dầu phỉ lạc có thể phát hiện dưới những hình thức khác nhau cho 
                mỗi người. Tóc của quý vị có thể dựng đứng lên; hay quý vị chứng 
                nghiệm một loại cảm giác már mẻ nhẹ nhàng trong tâm hoặc quý vị 
                có thể nghe như có một lớp bông gòn mịn màn bao trùm cơ thể 
                mình; hoặc thân người hình như nhẹ nhàng đến đổi tưởng chừng như 
                có thể bay trôi như mây.
 
                - 
                Vị 
                Thiền Sư không thể điều khiển hay kiểm soát những loại chứng 
                nghiệm tương tợ, được gọi là "thân an khinh", và "tâm an khinh". 
                Tại sao tâm vắng lặng lại an khinh, tức nhẹ nhàng thơ thới, như 
                vậy? Là bởi vì nó đã được phóng thích, nó đã phá vỡ mọi chướng 
                ngại tinh thần (nìvarana, pháp triền cái) và đã đặt xuống mọi 
                gánh nặng. Quý vị hãy cố gắng duy trì và bảo tồn trạng thái an 
                khinh này.
 
                - 
                Nơi đây 
                Sư muốn phớt qua, không đề cập đến những âm thanh mà hành giả có 
                thể nghe khi ở trạng thái này. Nghe văng vẳng như có tiếng nói 
                trong điện thoại từ xứ xa đến. Có thể hình như quý vị thật sự 
                nghe và thấy những cuộc đàm thoại, xa và gần, liên quan đến quý 
                vị. Tuy nhiên, các âm thanh ấy chấm dứt liền khi tâm quý vị an 
                trụ sâu hơn, hoặc rút ra khỏi từng lớp vắng lặng ấy. Cái tâm lúc 
                bấy giờ chỉ tình cờ lọt vào đúng tần số. Vì lẽ ấy, chớ nên khoe 
                khoang rằng mình đã có "thiên nhãn" hay "thiên nhĩ". Vài người 
                có thể không thích chứng nghiệm những hình ảnh tương tợ, nhưng 
                bất cứ gì xảy diễn cũng đều tùy thuộc nơi bản chất của tâm an 
                trụ.
 
                - 
                Khi 
                hành giả để những ấn chứng kể trên trôi qua, và tiếp tục gia 
                công chú niệm, hiểu biết rõ ràng, thì trạng thái vắng lặng càng 
                thâm sâu, thâm sâu hơn từng giờ. Cơ thể vật chất hình như dần 
                dần biến dạng. Không tay, hay không chân: quý vị cảm nghe như 
                không còn tay, hay không còn thân mình. Đâu mất rồi? Quý vị nghe 
                lòng thúc giục muốn mở mắt nhìn xem, nhưng rồi thôi, không màn 
                để ý đến việc ấy. Hãy nhìn tận tường tâm mình, xem mình đã đặt 
                nó vào điểm nào, và giữ nó lại đó. Một loại hạnh phúc phi thường 
                phát hiện nổi bật rất linh động. Đó là trạng thái "nhập định" 
                (apanà samàdhi, toàn định -- tức là tâm định kiên cố vững chắc, 
                không lay chuyển), trạng thái tâm vô cùng an lạc, nhẹ nhàng mát 
                mẻ và thơ thới, đã vượt qua mọi chướng ngại tinh thần. Không còn 
                no hay đói, không còn ham muốn bất cứ gì ở ngoài, chỉ muốn ở lại 
                trong tình trạng thỏa thích này mà trước đây chưa bao giờ chứng 
                nghiệm. Hạnh phúc tinh thần này, mà hành giả thành đạt do nhờ 
                tâm định, đẩy lui ra khỏi tâm tất cả những sự việc và những ham 
                muốn của cuộc sống phàm tục hằng ngày.
 
                - 
                Nếu tâm 
                định tiếp tục tiến triển đến hạnh phúc cao cả tuyệt vời, buông 
                trôi tất cả mà chỉ sống trong đó, thì đó là nhập Thiền (jhàna, 
                thiền-na). Trạng thái tĩnh lặng này chỉ khác đôi chút với tâm xả 
                (upekhà). Đến giai đoạn này những câu hỏi về người khác phát 
                sanh đến hành giả: "Có ai khác chứng nghiệm giống như ta vậy 
                không?". "Họ đã làm thế nào để đạt đến?". Đây là lúc mà hành giả 
                phải cực kỳ thận trọng để khỏi rơi vào tình trạng khoe khoang sự 
                hiểu biết của mình. Tới đây quả thật rất dễ sai lệch con đường 
                chân chánh. Vậy, phải giác tỉnh, luôn luôn sẵn sàng tự cảnh giác 
                trong vấn đề này. Nhiều người lạc lối và trở nên điên cuồng, 
                khoác loác khoe khoang cùng tất cả mọi người, "Quả thật là hạnh 
                phúc thật sự… Phải thực hành đi !… Hành như thế này !… như thế 
                kia !". Quý vị hãy chú niệm, hiểu biết rõ ràng, và cẩn mật đề 
                phòng. Chớ nên đi đầu nầy đầu kia để phô trương -- đến giai đoạn 
                này quý vị chưa giác ngộ đâu !
 
                - 
                Hãy 
                khảo sát và ghi nhớ từng bước tiến mà quý vị đã thực hiện để 
                thành tựu mức độ định (samàdhi) này. Đến khi ngồi xuống, quý vị 
                có thể lặp lại dễ dàng và nhuần nhã hơn. Hãy chú tâm hồi nhớ quý 
                vị đã làm thế nào để củng cố chú niệm và hiểu biết rõ ràng, ngay 
                từ đầu. Đặt cái tâm như thế nào? Cái gì đã được phát triển và 
                cái gì đã được loại bỏ? Khi tâm đạt đến mức an trụ cao, làm thế 
                nào để giữ tâm lâu dài ở mức ấy?
 
                - 
                Mỗi khi 
                hành thiền quý vị sẽ có thể đối phó với bất luận gì xen vào, gây 
                trở ngại cho tâm định. Những phiền toái khuấy rối ấy cũng giống 
                như trước và quý vị cũng khắc phục nó giống như trước, để củng 
                cố trạng thái an trụ trở lại. Người đã thuần thục thực hành sẽ 
                hành thích ứng trong mọi trường hợp, dầu đang đi xe, đi tàu hay 
                đi phi cơ, bất luận ngồi ở đâu, hay đang ở xứ nào. Một khi đã 
                tinh thông trong pháp hành thì hành giả có thể nhập thiền hay 
                xuất thiền dễ dàng và nhanh chóng. Các pháp triền cái không còn 
                gây trở ngại nữa.
 
                - 
                Tuy 
                vậy, vài người cảm thấy rất khó mà gom tâm được. Dầu cố gắng 
                mấy, tâm cũng cứ phóng nhảy đầu này đầu kia, vô định. Hãy bám 
                sát theo dõi cái tâm bay nhảy ấy cho đến khi nó mệt mỏi. Thật sự 
                nó không thể trốn thoát tình trạng phóng dật, bởi vì đã kẹt dính 
                trong những suy tư về tiền của, xe cộ, nhà cửa, hay con cái, 
                cháu chít và bạn bè.
 
                - 
                Vừa khi 
                tâm bị vướng mắc trong một đối tượng như vậy thì niệm và hiểu 
                biết rõ ràng (sàti và sampajanna) phải theo bắt nó tại đó. Hãy 
                tức khắc gạn hỏi, "Tại sao ta bám níu và giữ chặt… (thí dụ như) 
                cái nhà này? Có chắc nó là của ta không?". Câu trả lời sẽ trở 
                lại, "Chắc như vậy, nó là của ta". Chừng đó, niệm và trí tuệ can 
                thiệp vào, thăm dò và khảo sát, "Chừng ta chết, nó có đi theo 
                với ta không?". Nếu chấp nhận rằng nó sẽ không theo ta, thì tiếp 
                theo, "Vậy, tại sao ta mãi bận lòng vì nó; cái nhà đã được xây 
                cất vững chắc, nó sẽ còn đó chớ không chạy mất đi đâu!".Ta phải 
                quở rầy cái tâm và kéo nó trở về, khép vào khuôn khổ kỷ cương. 
                Quán xét và suy tư như vậy làm cho tâm giựt mình tỉnh thức và 
                vâng lời để ta đưa về đề mục hành thiền (công án), an trụ theo 
                hơi thở. Đó là phương pháp dùng trí tuệ phát triển tâm định 
                (samàdhi) của người cảm thấy rất khó gom tâm. Tức là xử dụng 
                phương tiện tinh xảo và hữu hiệu nhất, thích ứng với hoàn cảnh.
 
                - 
                Một khi 
                tâm đã trở về với đề mục thì phải kềm giữ nó lại đó, cột vào, 
                không để nó chạy vuột thoát. Tuy nhiên, đôi khi tâm cũng đáng 
                được nuông chiều và ngợi khen, ban thưởng. Thí dụ như có lúc, ta 
                đang mắc bận việc gì, bỗng nghe phát tâm muốn ngồi xuống hành 
                thiền. Hãy cố gắng nuôi dưỡng loại ý định tương tợ bằng cách 
                nhanh chóng sắp xếp công việc để chiều theo nó. Thông thường ta 
                không thể hoàn tất tất cả công việc ở đời. Hết việc này đến việc 
                khác, không bao giờ viên mãn hoàn thành tất cả. Thừa đúng lúc 
                lòng sẵn sàng lắng dịu, hãy ngừng nghỉ, ngồi lại giữ tâm tĩnh 
                lặng. Chính những lúc tâm muốn an trụ, đức tin trở nên dõng mãnh 
                nhiệt thành ta mới dễ dàng phát triển trạng thái vắng lặng, an 
                tĩnh và tự nhiên gác qua một bên những bận bịu của cuộc sống 
                hằng ngày.
 
                - 
                Tâm 
                tĩnh lặng đưa đến hạnh phúc không thối chuyển, không lo âu. Đó 
                là trạng thái mãn nguyện. Cũng giống như ta thích khí hậu và 
                cảnh vật ở một động đá, một khu rừng, hay bóng mát của một cội 
                cổ thụ nào. Khi được ngồi xuống, một làn gió mát nhẹ nhàng 
                thoảng qua làm cho ta khỏe khoắn và sớm cảm nghe thoải mái dễ 
                chịu vô cùng. Trạng thái tâm muốn hành thiền đáng được ngợi khen 
                và phải được khuyến khích như vậy. Vào ban đêm, nếu nghe tâm 
                tĩnh lặng dễ chịu thì hãy cố gắng tiếp tục ngồi đến khuya. Và 
                nếu nghe trạng thái an tĩnh ngày càng vững chắc, thâm sâu, thì 
                chớ nên vội ngưng thiền. Phải trau giồi trạng thái vắng lặng ấy 
                cho đến toàn hảo. Nó sẽ ngày càng yên tĩnh thâm sâu và càng lúc 
                càng kiên cố vững chắc hơn, trên một từng lớp ngày càng sâu. 
                Không nên ngừng. Đây là lúc mà ta sẽ biết được công phu hành 
                thiền của mình đã phát triển đến mức độ nào.
 
                - 
                Giờ 
                đây, đã thành tựu một giai đoạn tiến bộ, ta có thể đi nghỉ. Sau 
                khi đảnh lễ Phật, ta nằm xuống và hồi nhớ lại những giai đoạn 
                vắng lặng vừa trải qua và an nghỉ với tâm niệm ấy. Khi tỉnh 
                giấc, tức thì nhớ đến đề mục hành thiền và tầng vắng lặng ấy. 
                Chính Sư (Acharn Plien) thực hành như vậy. Lúc bấy giờ tâm tự 
                nhiên sẽ gom lại và an trụ ngày càng thâm sâu, thâm sâu hơn mức 
                độ đã đạt đến trong đêm qua. Với tình trạng phát triển đều đặn 
                không ngừng và với tâm thật sự an trụ, tuyệt đối sẽ không chiêm 
                bao mộng mị trong giấc ngủ. Đến khi tỉnh giấc trở lại, tâm liền 
                hiểu biết nhiệm vụ của nó và đó là trạng thái mà chúng ta gọi là 
                chú niệm và hiểu biết rõ ràng. Niệm (sàti) và hiểu biết rõ ràng 
                (sampajanna) sẽ được duy trì tại đó để nâng đỡ, trông nôm và 
                chăm sóc tâm.
 
                - 
                Quý vị 
                đã thông hiểu về phương cách rèn luyện tâm. Khi cần phải khiển 
                trách, quý vị hãy quở rầy nó. Khi cần phải khép nó vào khuông 
                khổ kỷ cương, hãy khép nó vào, và khi cần phải nâng đỡ bảo trì, 
                hãy nâng đỡ nó. Và khi nó đáng được khen ngợi, hãy ngợi khen, 
                tán thưởng nó. Cũng như đối xử với một đứa trẻ cứng đầu, không 
                biết vâng lời. Ta nắm giữ tay nó lại, không buông ra, cho đến 
                khi nó vâng lời. Khi nó biết nghe lời dạy bảo, biết chăm lo học 
                hành và trở nên ngoan ngoãn hiền lành thì ta phải khen ngợi và 
                ban thưởng nó. Tâm ta cũng dường thế ấy. Nếu ta mãi luôn luôn 
                dùng sức để cưỡng bách, nó sẽ kháng cự lại. Vậy ta phải ngọt 
                dịu, dỗ dành và khuyên bảo. Vì bẩm tánh ngoan cố, có thể nó từ 
                chối không chịu học, không chịu làm việc, và trở nên yếu ớt, 
                lười biếng. Nhưng nếu ta ôn tồn khuyến khích và dỗ ngọt, nó sẽ 
                siêng năng làm việc suốt ngày. Người làm công với ta cũng phải 
                được đối xử như thế. Người phụ giúp ta buôn bán, trông nôm chăm 
                sóc hàng hóa và tiếp đón khách hàng để cho cuộc thương mại làm 
                ăn của ta được thạnh vượng, chớ nên gắt gao ngược đãi, gây khó 
                khăn cho họ. Họ cũng cần ta chăm sóc và chú ý đến, cũng cần ta 
                đối xử dịu hiền nhã nhặn. Tuy nhiên, khi họ lầm lỗi, ta phải nêu 
                lên để sửa sai. Hành động cộc cằn thô kịch sẽ xua đẩy họ ra xa, 
                bỏ ta lại làm việc một mình để sinh sống.
 
                - 
                Trẻ con 
                yên lặng và không ồn ào khuấy phá là nhờ cha mẹ sáng suốt khéo 
                dạy. Không phải chỉ rầy la quở quắng và hình phạt, làm cho con 
                mãi lo sợ, tinh thần luôn luôn căng thẳng, không thể chăm học. 
                Tâm tĩnh lặng cũng cần phải được niệm và tuệ thận trọng canh 
                chừng và sửa sai. Chú niệm với trí tuệ -- đó là nguyên liệu phải 
                xử dụng, càng nhiều càng tốt.
 
                - 
                Niệm 
                cũng trông chừng lời nói. Ô nhiễm phát sanh dưới nhiều hình 
                thức, và chúng ta cần phải đề cao cảnh giác, hay biết mình đang 
                nói gì. Lời ăn tiếng nói cẩn trọng có lợi ích chăng? Có đáng cho 
                ta cố gắng chăng? Thí dụ lời nói của Sư (Acharn Plien) trong 
                hiện tại có lợi ích gì cho ai không? Có đem lại hạnh phúc, có 
                làm cho ai hoan hỷ và có đáng được nói không? Thuyết giảng mà 
                không có niệm và tuệ trông chừng lời nói ắt phải lỗi lầm sai 
                lạc. Lúc ban sơ, tất cả chúng ta đều phải lầm lỗi. Vậy, trước 
                tiên, phải nhận ra lỗi mình, và sau đó hãy sửa sai.
 
                - 
                Sau khi 
                đề cập đến lời nói, giờ đây đến tư tưởng. Hãy chú niệm, hay biết 
                suy tư bất thiện khi nó phát sanh. Và nếu là ý nghĩ tốt, hiểu 
                biết đúng như vậy. Một suy tư theo chiều hướng sai lại phải được 
                chận đứng lại. Phải kéo nó về con đường chân chánh. Tiến trình 
                tư tưởng cần phải được thận trọng theo dõi và nếu cần, phải chấm 
                dứt. Hãy buông bỏ, để cho những tư tưởng bất thiện trôi qua. 
                Trong mọi oai nghi -- đi, đứng, nằm, ngồi -- hãy chú tâm vào 
                thiện ý nghiệp, những suy tư tạo thiện nghiệp. Tức nhiên sẽ có 
                hạnh phúc. Một khi quý vị đã nhận thức đúng như vậy tâm sẽ 
                chuyên cần tự nó hướng về thiện nghiệp, trau giồi đức hạnh và 
                tích trữ phước lành. Quý vị thử so sánh điều này với một hiện 
                tượng hoàn toàn vật chất. Như ta xây đắp đường lộ, chế tạo xe 
                hơi, máy bay, tàu bè hay vải sồ v.v… Nếu thận trọng và sáng suốt 
                suy tính trước, thành quả sẽ khả quan, sản phẩm sẽ tốt đẹp, và 
                công việc làm ăn sẽ tiến triển phát đạt.
 
                - 
                Với cái 
                tâm cũng vậy. Tư tưởng hiền lành sẽ làm cho tâm nhẹ nhàng thơ 
                thới và an vui. Suy tư hung dữ thiêu đốt tâm can và đưa đến đau 
                khổ. Nếu quý vị làm ra những sản phẩm không tốt ắt không bán 
                được. Nếu quý vị nói điều không lành, sớm chầy sẽ phải gây gỗ và 
                tranh chấp. Rồi chắc chắn đau khổ sẽ đến vì sân hận và thù oán 
                chỉ đem đến phiền muộn và thất vọng sâu xa.
 
                - 
                Hành 
                thiền mỗi ngày sẽ được an vui vì ta luôn luôn hay biết sinh hoạt 
                --vật chất và tinh thần -- của mình. Hãy trông chừng: trong khi 
                đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, đi giải, rửa tay, bất luận gì đang làm, 
                hãy ghi nhận, hay biết mình đang làm việc ấy. Phải luôn luôn 
                hành thiền. Dầu nấu ăn hay rửa chén, hãy hay biết mỗi tác động 
                -- đó là hành thiền. Vị hành giả sáng suốt sẽ có thể hành thiền 
                bất luận lúc nào. Đó là điều mà Sư khuyên quý vị nên làm. Không 
                nên mãi chờ đợi cho đúng ngày, đúng giờ, đúng thời gian, mới 
                hành. Hãy trau giồi pháp hành. Khi quý vị đang đọc sách này, 
                đang viết hay đang thêu thùa, may vá hay đang cắt móng tay đi 
                nữa, luôn luôn hay biết mình đang làm gì. Hãy giác tỉnh chú 
                niệm, gom tâm vào những gì đang xảy ra và an trụ nơi đo. Nhưng 
                hãy thận trọng tránh xa điều bất thiện, vì tư tưởng bất thiện sẽ 
                đưa đến đau khổ phiền muộn. Người chuyên cần giác tỉnh, người 
                luôn luôn canh chừng tâm mình như trên, hay biết tâm mình trong 
                từng khoảng khắc -- ngoại trừ lúc ngủ -- người ấy lúc nào cũng 
                tĩnh lặng và an lạc.
 
                - 
                Các bậc 
                Thánh Nhân (ariya) và những vị Cao Tăng, Thiền Sư của chúng ta, 
                đều hành như thế. Tâm các Ngài luôn luôn an trụ. Các Ngài nói 
                chuyện, nhưng tâm luôn luôn ở trong trạng thái vắng lặng và an 
                lạc, luôn luôn có trí nhớ và hay biết mình. Niệm và tuệ của các 
                Ngài luôn luôn hiện hữu để trông chừng toàn thể tiến trình sinh 
                hoạt, do đó, dầu trong lúc chuyện trò, tâm vẫn an tĩnh vắng 
                lặng. Quý vị Đại Đức bị tử nạn máy bay cách đây mấy năm [1], đã 
                sẵn sàng để ra đi. Lúc bấy giờ tâm các Ngài an trụ vững chắc và 
                sẵn sàng để tịch diệt, không mảy may sợ hãi. Trí tuệ luôn luôn 
                sắc bén, thâm sâu và luôn luôn hiện hữu để giữ tâm an tĩnh trong 
                mọi trường hợp. Các Ngài sẵn sàng để bỏ lại cái thân xác này bất 
                cứ lúc nào, luôn luôn giác tỉnh.
 
                - 
                Những 
                ai chưa từng hành thiền, chưa quen thuộc với pháp hành để trau 
                giồi tâm vắng lặng (samàdhi), ắt khó có thể tin những sự việc 
                như kể trên có thể xảy ra. Nếu không bao giờ họ thật sự hiểu 
                biết cái tâm của chính họ là như thế nào, thì làm sao có thể 
                trông chờ họ tin tưởng. Đối với các vị ấy, không ai có thể rèn 
                luyện cái tâm, bởi vì tâm luôn luôn biến chuyển. Khi tâm bám vào 
                đau khổ, ta khổ đau sầu muộn. Khi tâm nắm lấy hạnh phúc, ta hoan 
                hỷ thỏa thích. Nhưng đối với các vị Đại Đức Thiền Sư, dầu hạnh 
                phúc hay đau khổ, tâm buông bỏ tất cả. Do đó, các Ngài luôn luôn 
                tĩnh lặng, thanh bình.
 
                - 
                Nếu tâm 
                ở trong trạng thái vắng lặng (samàdhi) thì lúc nào ta cũng hành 
                thiền. Sư đã suy nghiệm về điều này và thật sự nhận thức rằng 
                giáo huấn của Đức Bổn Sư quả thật thâm sâu, vô cùng vi tế và 
                huyền diệu. Rõ ràng trạng thái tâm hoàn toàn trong sạch của các 
                bậc cao tăng đã thực hành Giáo Pháp đến mức độ tuyệt đối cao 
                thâm, thấm nhuần cơ thể vật chất, tràn ngập vào tận xương tủy. 
                Tại sao xương của Ngài Acharn Mun [2], sau khi hỏa táng đã trở 
                thành Xá Lợi trong sáng như thủy tinh? Trạng thái trong sạch 
                chẳng những chỉ ở tâm, mà cũng ảnh hưởng đến xương cốt. Xương là 
                xương, nhưng ở đây còn có thêm gì nữa. Phải chăng có chi liên 
                quan đến Niết Bàn? Quả thật là thâm sâu! Quả thật mầu nhiệm!
 
                - 
                Phật 
                giáo vô cùng thâm diệu. Các tôn giáo khác, mỗi tôn giáo đều cao 
                quý theo đường lối của mình. Ai muốn theo tôn giáo nào là việc 
                của người ấy, ta không thể nói gì. Chúng ta nên biết những tánh 
                chất khác nhau (parisannutà) của mỗi tông phái để có thể đi từ 
                đoàn thể này sang đoàn thể khác, trong những quốc gia khác nhau, 
                mà không tranh luận hay có những lời lẽ bất hòa với bất cứ ai, 
                về bất cứ vấn đề nào [3]./.
 
                - 
                
                 
 
                - 
                Chú 
                Thích:
 
                - 
                [1] Lời 
                người dịch (PKK): Vào năm 1979, một chiếc phi cơ của hoàng gia 
                Thái cung thỉnh tám vị cao tăng, từ các tỉnh miền Bắc xứ Thái, 
                về triều để tham dự một cuộc lễ tại Hoàng Cung ở Bangkok. Không 
                may, giữa đường máy bay lâm nạn và cả tám vị đều chết. Hiện nay, 
                tại chân núi Puthork có đền thờ Ngài Luang Pu Choun, một trong 
                tám vị. Dịch giả được duyên may đến viếng đền thờ đồ sộ và rất 
                trang nghiêm trong khung cảnh núi non hùng vĩ này. Ngay trước 
                pho tượng của Ngài, trên bàn thờ, có tủ kiếng tôn thờ Xá Lợi 
                Ngài, đựng từng nhóm theo cỡ lớn nhỏ trên lối mười cái dĩa, để 
                khách thập phương chiêm bái.
 
                - 
                [2] 
                Acharn Mun (đọc là A-chàn Manh) là vị Thiền Sư nổi tiếng nhất ở 
                Thái Lan, trong thời hiện đại.
 
                - 
                [3] Bài 
                nầy ghi lại một thời Pháp do Ngài Thiền sư Acharn Plien 
                Panypatipo thuyết giảng bằng Thái ngữ. Dr. Chalerm-Sri Janorn 
                dịch sang Anh ngữ tựa đề "The Fundamentals of Meditation". Phạm 
                Kim Khánh dịch từ Anh sang Việt ngữ với tựa đề "Căn Bản Pháp 
                Hành Thiền".
 
                - 
                Mọi thơ 
                từ về quyển sách này xin liên lạc với địa chỉ:
 
                - 
                Acharn 
                Plien Panyapatipo
 
                - 
                
                Aranyavivake Monastery
 
                - 
                
                Mae-Taeng District
 
                - 
                
                Chiang-Mai, Thailand
 
                
                   -  
 
                
               
              
             
             | 
   
           
               
       
       |