| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - LUẬT 
                  NHÂN QUẢ
 
                  
                
                
                   
                  - Tâm 
                  Bình
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Trong giáo lý của đạo 
                Phật có rất nhiều trọng tâm để tham học và tu tập như là: Từ - 
                bi - hỷ xả; Phật tánh; vô minh tứ đế; bát chánh đạo; ngã; ngũ 
                uẩn; bát nhã; Bồ Đề..v..v.. nhưng chỉ có trọng tâm NGHIỆP là 
                tinh yếu nhất, quan hệ nhất cho đời sống cá nhân nói riêng, cho 
                đạo pháp chúng ta nói chung. NGHIỆP là nền tảng mà trên đó giáo 
                lý căn bản của PHẬT GIÁO được xây dựng nên. Cho nên phải biết 
                NGHIỆP đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong đạo Phật.
                
 
                
                - 
                Vậy hễ TU PHẬT - bất 
                luận theo pháp môn nào - cần phải thấu triệt và hoàn toàn tin 
                tưởng vào NGHIỆP BÁO tức là LUẬT NHÂN QUẢ. 
 
                
                - 
                Đức Phật có dạy rằng: 
                "...Thuở xưa từ đời quá khứ cách đây rất xa chúng ta đã tạo ra 
                Nhân quả rồi. Những Nhân quả ấy dồn dập như sóng biển, dẩu cho 
                trải qua bao nhiêu kiếp cũng không hề thất lạc. Đúng kỳ, chúng 
                hiện ra cho chúng ta hoặc thưởng hoặc phạt tùy theo chúng ta đã 
                làm lành hay làm dữ, làm phải hay làm quấy. 
 
                
                - 
                Về Nhân quả báo ứng, 
                ai làm nấy chịu, chẳng trốn tránh hay san sớt cho người khác 
                được..." (Soạn tập bá duyên kinh). 
 
                
                - 
                Có người cho rằng: 
                nếu đã gọi là "luật" thì tất phải có một đấng thiêng liêng nào, 
                người nào hay xã hội nào đặt ra. Quan niệm như thế có nghĩa hơi 
                nông cạn. Luật ở đây là "luật thiên nhiên", luật tự nhiên nó bao 
                trùm cả vũ trụ, vạn vật chứ nó không nằm trong phạm vi của loài 
                người hay một xã hội nào đó. Người ta có thể khám phá ra luật ấy 
                chứ không thể nào đặt ra luật ấy được. ĐỨC PHẬT - Ngài chỉ là 
                người đã dùng TRÍ HUỆ sáng suốt của Ngài để vạch cho mọi người 
                thấy rõ ràng cái "luật Nhân quả" đang điều hành trong vũ trụ mà 
                thôi. 
 
                
                - 
                NHÂN QUẢ: Nhân là 
                nguyên nhân; quả là kết quả. Quả là cái quả do mầm mống phát 
                sinh, Nhân là nhân lực phát động, quả là sự thành hình của năng 
                lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật của tất cả mọi sự 
                vật. Nhân quả - tuy ngó thấy đơn giản nhưng nếu đi sâu vào sự 
                vật để mà nghiên cứu thì lại càng thấy rất phức tạp và khó khăn 
                bởi vì trong vũ trụ, mọi sự vật không phải đơn thuần, tách rời 
                từng mòn mà có sự liên quan mật thiết với nhau, xoắn kết lấy 
                nhau, đan lát vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tương phản lẫn nhau, 
                thừa tiếp với nhau... hãy gọi đó là trạng thái chằng chịt giữa 
                sự vật, đạo Phật thường dùng từ NHÂN DUYÊN nghĩa là mọi sự vật 
                có ra là nhờ nhân duyên với nhau, nương tựa vào nhau hay tương 
                phản nhau mà thành chứ không có một cái nào đứng biệt lập được. 
                Trong sự phức tạp của sự vật ấy mà tìm ra cái Nhân chính của QUẢ 
                hay cái QUẢ chính của NHÂN không phải là việc dễ. Do đó mà nhiều 
                người không dụng công suy nghĩ, tìm tòi sâu xa mà đâm ra sanh 
                lòng nghi ngờ thuyết Nhân quả. Ta thử tìm hiểu xem: hạt lúa có 
                thể là cái NHÂN cho những hạt lúa vàng là QUẢ trong mùa gặt sau 
                nhưng nếu ta đem hạt lúa ấy nấu ăn, như thế cái NHÂN chính có 
                thể thành ra QUẢ này hay QUẢ khác nếu nhân sự khác nhau; muốn 
                hạt lúa giống của mùa này thành hạt lúa vàng của mùa sau thì cầ 
                phải có đất, nước, ánh sáng, không khí, thời gian, phân tro... 
                muốn cho hạt lúa giống ấy thành máu huyết thì phải nấu, phải ăn, 
                phải có bộ máy tiêu hoá. Cho nên nói NHÂN QUẢ tách riêng sự vật 
                ra khỏi cái chung cùng toàn thể vũ trụ lấy một khía cạnh nào đó 
                để quan sát nghiên cứu chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai 
                chữ NHÂN DUYÊN, cũng như một nhà khoa học khi muốn nghiên cứu 
                một bộ phận nào bên trong cơ thể thì thường cắt xén bộ phận ấy 
                ra khỏi cơ thể để nghiên cứu cho dễ chứ thật ra bộ phận ấy không 
                phải biệt lập mà trái lại nó có liên quan mật thiết đến toàn bộ 
                cơ thể. 
 
                
                - 
                Cho nên khi chúng ta 
                muốn có ccái kết quả như thế nào đó thì phải hội đủ các nhân 
                duyên thì kết quả mới như ý muốn. Có người muốn kết quả như vậy 
                nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế nên kết quả không đạt 
                do đó họ đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của "luật Nhân quả"; trong 
                Nhân có quả, trong quả có Nhân. Chính trong NHÂN HIỆN TẠI đã có 
                chứa cái QUẢ VỊ LAI và trong cái QUẢ HIỆN TẠI đã có hình bóng 
                NHÂN QUÁ KHỨ cho nên Phật nói "NHÂN QUẢ" thông cả ba đời".
                
 
                
                - 
                Một sự vật mà ta gọi 
                là Nhân là khi nó chưa biến chuyển hình thành ra cái quả mà ta 
                quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả khi nó biến chuyển hình 
                thành ra trạng thái mà ta đã quan niệm. Mọi vật đều có Nhân và 
                quả: đối với quá khứ thì nó là quả nhưng đối với tương lai thì 
                nó lại là Nhân. Nhân và quả đắp đổi nhau, tiếp nối nhau không 
                bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy mà trong một hoàn cảnh nào người 
                ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay 
                một con người. Kinh Phật có dạy: "...Muốn biết cái Nhân thì cứ 
                coi cái quả đời này đang thọ, muốn biết cái quả về sau như thế 
                nào thì cứ xét cái Nhân đang tác động trong hiện tại..." 
                
 
                
                - 
                Sự phát triển mau hay 
                chậm từ Nhân đến quả của mỗi người, sự vật không tiến triển 
                trong cùng một thời gian; vì lý do mau chậm trong sự phát hiện 
                của cái quả mà chúng ta không nên nóng nảy cho rằng cái luật 
                Nhân quả không hoàn toàn đúng khi thấy cái Nhân mà ta đã gieo 
                chưa hình thành nên cái quả. Vậy mỗi chúng ta phải kiên nhẫn mà 
                gieo cái Nhân lành trước để một ngày kia chúng ta đón hưởng cái 
                quả tốt mà chúng ta đã có công trình đặt hạt giống ngay từ bây 
                giờ. 
 
                
                - 
                Mỗi Phật tử chúng ta 
                đã thấu triệt luật Nhân quả tức là đã hiểu và tin; hiểu rõ ràng; 
                tin sâu đậm rằng tất cả những vui, buồn, sướng, khổ... ở kiếp 
                sau là quả của những Nhân (nghiệp) từ kiếp này. 
 
                
                - 
                Mặt khác, những điều 
                mà thế tục gọi là hạnh phúc hay bất hạnh đều do duyên sanh hoặc 
                những liên hệ giữa người và cảnh, người và người, người và 
                vật...cũng do duyên sanh. 
 
                
                - 
                Phật nói : "Chư pháp 
                duyên sanh" mà nói duyên tức nói nghiệp: cha - con; vợ - chồng; 
                anh em; bè bạn..., nếu không phải là "duyên" thì là "nợ". Theo 
                thế tục mà nói: "duyên" tức là hạnh phúc, là "thiện duyên" - 
                theo Phật giáo mà nói: "nợ" tức là bất hạnh theo thế tục mà nói, 
                còn theo Phật giáo mà nói: "nợ" là "ác duyên" (như Axà Thế vương 
                là nợ của vua Tần Bà-Sa-la). Nếu hiểu biết triệt để điều này thì 
                dù bất cứ ở trong hoàn cảnh nào, người Phật tử chơn chánh vẫn 
                bình thản họăc tưởng quả lành hoặc thọ quả dữ, hưởng hay thọ cho 
                xong kiếp này và đừng gieo Nhân ác thì mới hy vọng kiếp sau được 
                "rảnh rang trọn vẹn" "Bồ Tát sợ Nhân-chúng sanh sợ quả": Bồ Tát 
                sợ Nhân nên không gây Nhân ác; chúng sanh sợ quả chớ ít sợ Nhân 
                nên vô tình hay cố tình mà gây Nhân ác. Nhân ác hiện ra quả ác. 
                Một khi quả ác đã hiện ra liền lo sợ, chẳng khác nào "kẻ muốn 
                trốn nắng lại chạy ra dưới ánh mặt trời". 
 
                
                - 
                Trong khắp cõi Ta bà 
                thế giới này chẳng có một nơi nào để cho ta trốn được luật Nhân 
                quả được. Nên biết "trông sâu khó bứng" chẳng khác nào tung quả 
                bóng, tung mạnh dội mạnh, tung nhẹ dội lại nhẹ. 
 
                
                - 
                Vì: 
 
                
                - 
                - Sân hận, oán ghét, 
                tà dâm là Nhân; điạ ngục là quả. 
 
                
                - 
                - Tà kiến, ám muội, 
                làm ác là Nhân; súc sanh là quả. 
 
                
                - 
                - Tham lam, bỏn xẻn 
                là Nhân, ngạ quỷ là quả. 
 
                
                - 
                - Ngã mạn, cống cao 
                là Nhân; A tu la là quả. 
 
                
                - 
                - Giữ tròn năm giới 
                là Nhân; thân người là quả. 
 
                
                - 
                - Tu hành thập thiện 
                là Nhân; thân trời là quả. 
 
                
                - 
                - Chứng ngộ "CHƠN 
                KHÔNG" là Nhân; thinh văn là quả. 
 
                
                - 
                - Thấu pháp "Thập nhị 
                Nhân duyên" là Nhân; Duyên giác là quả. 
 
                
                - 
                - Tu tròn sáu độ là 
                Nhân; Bồ Tát là quả. 
 
                
                - 
                - Bình đẳng (vô 
                thượng - chánh đẳng - chánh giác) là Nhân; Phật là quả. 
                
 
                
                - 
                * Niệm Phật Adiđà là 
                Nhân; Tây phương cực lạc là quả. 
 
                
                - 
                Cho nên nếu tin mà 
                không tin sâu đậm, còn khởi lòng nghi thì không bao giờ đạt tới 
                CỬU CÁNH được cả. 
 
                
                - 
                Khi nói rằng người 
                Phật tử đã tin sâu đậm vào luật Nhân quả thì người Phật tử ấy 
                phải biết chắc rằng: chết không phải là hết vì chết đây liền 
                sanh kia, chết kia liề sanh đây, sanh dưới một hình thể khác 
                hoặc xấu hơn hoặc tốt hơn hình thể cũ tùy theo NGHIỆP LỰC của 
                mình (Cũng gọi là SINH TỬ BIẾN THỨC -kinh Kiến Chính) - tức là 
                tùy theo sức dẫn dắtcủa cái mghiệp do THÂN KHẨU Ý tạo ra trước 
                đây; sức dẫn dắt này đưa ta vào một trong saú lục đạo (Trời 
                -người - A tu la - ngạ quỷ - súc sanh - địa ngục) trong kinh gọi 
                là PHÂN ĐOẠN SANH TỬ nghĩa là sanh ra và chết đi có từng phần, 
                từng giai đoạn một, khi thì làm người, khi thì làm thú. Đó là 
                nói về hạn phàm phu không tu hành hoặc có làm dữ, hoặc có làm 
                lành. Bằng như có tu hành mà vẫn chưa liễu sanh tử tức là chưa 
                ra khỏi TAM GIỚI như bực nhi thừa và quyền thừa Bồ Tát khi thì 
                sanh lên trời, khi thì trở lại trần gian thì gọi là BIẾN DỊCH 
                SANH TỬ. Quyết tâm tu hành mà vẫn không hiểu thế nào là "phân 
                đoạn sanh tử" hay "Biến dịch sanh tử" thì vẫn còn triền miên lăn 
                trôi trong Tam giới. Có rất nhiều sự tích chứng minh là luật 
                Nhân quả là bất di bất dịch (Sự tích Tỳ kheo ni Bảo Liên Hương 
                cáo đồng thoái hoá; ông lão đắc quả A la hán) và đến như đức 
                Phật - một đấng đại từ đại bi, công đức vô lượng vô biên, một 
                bậc thầy cuả Trời và người mà còn phải trả quả thay! huống hồ là 
                ai! chuyện kể rằng: 
 
                
                - 
                "Một thời gian nọ, 
                khi Phật đang ngụ ở Trúc Lâm tịnh xá gần thành Sa duyệt, bỗng 
                đâu một mũi kim thương hiện ra sừng sững trước mặt Ngài. Ngài 
                hiện hình lên không trung, mũi kim thương cũng bay lên theo; 
                Ngài trở xuống tịnh xá; mũi kim thương cũng bay xuống theo. Thấy 
                thế Phật bèn nói với mọi người hiện diện tại đó cùng với Thiên 
                long Bát Bộ rằng: 
 
                
                - 
                - Kim thương này là 
                quả báo đời trước của ta. Vậy mọi người hãy an lòng để ta trả 
                quả. 
 
                
                - 
                Phật bèn đưa chân mặt 
                ra, kim tương đâm xuống chân Phật, lún xuống đất, rung động cả 
                vũ trụ. Mọi người thấy thế lấy làm ngạc nhiên và xin Phật giải 
                rõ. Phật nói: "trong một tiền kiếp xa xưa, thật là xa ta là một 
                vị Chúa tàu chở 500 người đi buôn, ra biển để tìm báu vật. Bỗng 
                nhiên đang đi ngoài khơi, có một kẻ trong bọn ấy sanh tâm muốn 
                giết hết tất cả để đoạt sản vật, ta liền đâm nó chết. Nay ta 
                phải trả cái quả ấy". 
 
                
                - 
                (QUY 
                NGUYÊN TRỰC CHỈ) 
 
                
                - 
                Và để nói rõ hơn về 
                luật Nhân quả, ngài pháp sư Ấn Quang - một bậc cao tăng, danh 
                đức trong Tăng giới - đã từng nói: "... Nên biết sự tu trì củ 
                hành Nhân quả thật chí thành không giả dối thì có thể chuyển hậu 
                báo thành hiện báo tức là chuyển báo nặng của những đới sau 
                thành báo nhẹ ở đới này. Nười phàm mắt thịt chỉ thấy sự kiết 
                hung trước mắt chớ đâu biết được Nhân quả đời trước, Nhân quả 
                đời sau. Bà họ Trương (1) ấy nhiều năm tinh tu một sớm chết 
                thảm: hoặc giả do sự khổ đó mà tiêu được ác báo Tam đồ sanh về 
                cõi Trời. Nếu trong hiện đời bà ấy có Tín sâu và Nguyện thiết 
                thì bà cũng có thể vãng sanh về Tây phương. Bởi chúng ta không 
                có tha tâm, đạo nhãn nên không dám ức đoán hay quyết đoán chắc 
                rằng bà có vãng sanh hay không. 
 
                
                - 
                Nhưng có một điều mà 
                chúng ta dám quả quyết là: làm lành tất được quả lành, làm dữ 
                phải mang quả dữ. Đây là quả báo của nghiệp ác đời trước-nếu ta 
                làm lành mà mang quả dữ-chứ chẳng phải là quả báo của nghiệp 
                lành đời này. Còn làm dữ mà được quả lành - đó là quả báo của 
                nghhiệp lành đời trước; còn nghiệp ác đời này nếu hiện đời chưa 
                trả kịp thì chắc chắn đời sau sẽ phải trả chớ có mất mát đi đâu.
                
 
                
                - 
                Các người thấy bà lão 
                chết khổ như thế liền nghĩ lầm rằng: việc lành không dám làm, 
                bởi làm lành chẳng những không được phước mà lại còn mang lấy 
                khổ. Nghĩ như thê các người mới nghi ngờ, sợ hãi. Sự nhận thức 
                đó đâu có khác gì các người chưa nghe, chưa hiểu Phật pháp. Nếu 
                các người tin lời Phật dạy, quyết các người không vì việc ấy mà 
                tỏ vẻ sững sốt kinh hoàng. 
 
                
                - 
                Việc Nhân quả trùng 
                trùng điệp điệp không ngừng, có khi Nhân này chưa trả mà quả nọ 
                đã chín muồi; ví như gieo giống sớm thì gặt lúa sớm, nhưng lại 
                thiếu nợ, chủ nợ nào mạnh thì lôi kéo con nợ trước nhứt..." (Lá 
                thơ Tịnh Độ - Ấn Quang pháp sư). 
 
                
                - 
                Vậy nếu tỏ rõ được lý 
                thì dù cho cảnh ngộ có ra sao đi nữa là quyết không nghi ngờ 
                rằng Nhân quả sai lầm, lời Phật hư dối. Ngày xưa, vua Nghiêu là 
                vị vua hiền đức lại sanh ra con hun dữ nên mới tìm ông Thuần để 
                nhường ngôi và ông Thuần là một đại hiền, một đại hiếu chi tử mà 
                lạ là con của một kẻ bất Nhân là ông Cổ Tẩu.Thật là: 
                
 
                
                - 
                "Cổ Tẩu mấy hiền mà 
                sanh đại hiền chi tử, vua Nghiêu mấy dữ mà sanh bất hiếu chi 
                nhi: có khi cây đăng lá the mà trổ sanh hoa thơm trái ngọt!"
                
 
                
                - 
                Thật thế! Về nguồn 
                gốc hay ngọn ngành của Nhân, của quả chỉ có Phật mới biết được 
                mà thôi; ngoài ra, chẳng có ai biết nổi kể cả bực Đẳng giác Bồ 
                Tát. 
 
                
                - 
                Căn cứ vào những sự 
                tích do Phật kể ra về tiền thân của Phật hoặc của các đệ tử Phật 
                hoặc của những người đồng thời có dịp gặp Phật trong những kinh 
                như là: Soạn tập bá duyên kinh, kinh Vị tăng hữu, kinh Hiền 
                ngu..v..v..thì luật Nhân quả không có ứng nghiệm trong sự khấu 
                trừ ác và thiện như một số người thường nghĩ; họ cho rằng có thể 
                "hối lộ" được Phật, Trời, Thánh, Thần nên cùng một lúc vừa làm 
                ác vừa làm lành như cho vay ăn lời "cắt cổ"; làm nghề sát sanh 
                mạng vật, mua cân già bán cân non, tham nhũng... rồi lấy đồng 
                tiền đó đi cúng chùa, cất miếu tưởng rằng làm như vậy sẽ được 
                hết tội vì lành dữ bù qua chế lại. Nếu không hiểu còn có chỗ 
                giảm chế; bằng như đã hiểu rồi nếu muốn thật sự tu hành để Giải 
                thoát thì Nhân ác cần phải giảm thiểu dần dần Nhân lành tăng gia 
                mãi mãi và phải thật sự ăn năn sám hối. Sám hối không phải là lễ 
                lạy, tụng kinh, trì chú vào những đêm 15 hay 30. Đích thực của 
                sám hối là ăn năn tội trước, lánh ngừa tội sau. 
 
                
                - 
                Phật có nói: "Chỉ có 
                hai hạng người quân tử: một là hạng người không bao giờ lầm lỗi 
                (Thánh Nhân) hai là những người đã lầm lổi rồi nay biết ăn năn 
                sám hối". 
 
                
                - 
                Và thiết tưởng đối 
                với chúng ta - những người con Phật - nếu đã thấu triệt luật 
                Nhân quả thì dù cho trong hiện đời có một đại bất hạnh nào xảy 
                ra, ta vẫn an nhiên tự tại, không nên buồn rầu, thối thất đạo 
                tâm nên lấy đó làm một đề mục để minh quán xét: hễ là nợ, nếu 
                trả được món nào thì mừng món đó chẳng khác nào rút được một 
                trong vô số những mũi kim ra khỏi người và bởi vì điều bất hạnh 
                ấy đáng lý ra là trọng báo của những đời sau nhưng nay nó chuyển 
                ra thành khinh báo ở đời này; đó là do chỗ ta chơn thành, chí 
                kính và tha thiết tụ niệm nên mới được "dồn quả" như vậy. 
                
 
                
                - 
                Với niềm tin vững 
                chắc này, ta càng hoan hỷ và càng hăng hái tiến tu hầu mau có 
                Giải thoát, mau trở về với mái nhà xưa-nơi có Mẹ chờ Cha trông 
                ngóng từng ngày từng giờ. Đây có phải là điều đáng quý và tối 
                quan trọng không ư?! 
 
                
                - 
                (1) Bà Trương Thái 
                Thái là người rất tin Phật, ăn chay trường đã 20 năm, thường đến 
                cư sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp. Bà ấy hiền hậu Nhân đức ưa làm 
                lành, gặp ai nấy bà cũng khuyên ăn chay, niệm Phật. Không ngờ 
                một hôm đang đi đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị xe hơi 
                cán chết, vì không có ai nhận mặt nên nhân viên tuần phòng 
                chuyển đi. Đến 3 ngày sau con cháu mới hay và đến xin xác bà về 
                chôn. 
 
                
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |