| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  Đạo Phật Nguyên Thủy
 
                  
                
                
                   
                  - & Đạo 
                  Phật Đại Thừa
 
                  
                
                
                   
                  - Hòa 
                  thượng W. Rahula
 
                  
                
                
                   
                  - Tỳ 
                  kheo Thiện Minh dịch
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  --o0o--
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                Để thảo luận vấn đề 
                thường được nhiều người hỏi: sự khác nhau giữa đạo Phật Đại thừa 
                và đạo Phật Nguyên thủy là gì? Để hiểu được điều này chính xác, 
                chúng ta hãy ôn lại lịch sử của đạo Phật và tìm nguồn gốc của 
                đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy.  
 
                
                - 
                Đức Phật đản sanh vào 
                thế kỷ thứ sáu trước công nguyên. Ngài thành đạo năm 35 tuổi, 45 
                năm thuyết pháp độ đời và ngài nhập Níp-bàn năm 80 tuổi. Chắc 
                chắn ngài là một con người có nhiều năng lực nhất, ngày đêm 
                thuyết pháp dạy đạo cho chúng sanh, và Ngài chỉ ngủ có hai giờ 
                đồng hồ trong một ngày.   
 
                
                - 
                Đức Phật thuyết pháp 
                giảng đạo cho mọi tầng lớp: vua chúa, hoàng tử, bà-la-môn, 
                thương gia, những người cùng đinh, trí thức, và thường dân lao 
                động. Giáo pháp của Ngài đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh của từng 
                người. Những gì Ngài thuyết giảng được gọi là Phật ngôn. Thời 
                điểm đó không có chỗ nào gọi là Trưởng lão bộ (Theravàda) hay 
                Đại thừa (Mahàyana).  
 
                
                - 
                Sau khi Ngài thành 
                lập giáo hội Tỳ Kheo tăng và Tỳ Kheo ni, Đức Phật đưa ra những 
                nguyên tắc giáo điều giới luật để bảo vệ giáo đoàn được gọi là 
                Luật (Vinaya). Những lời giảng dạy của Ngài bao gồm trong những 
                bài thuyết pháp cho chư Tăng Ni và Thiện nam Tín nữ được gọi là 
                Pháp (Dhamma).    
 
                
                - 
                Hội Nghị 
                Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Nhất  
 
                
                - 
                Sau ba tháng Thế Tôn 
                viên tịch, những đại đệ tử của ngài triệu tập một đại hội ở 
                thành Ràjagaha (Vương xá). Trưởng lão Kassapa (Ca-diếp) trụ trì 
                đại hội này. Có hai vị rất quan trọng trong đại hội này, các 
                ngài thiên về hai lãnh vực khác nhau - hai vị này trùng tuyên 
                lại Pháp và Luật (Dhamma và Vinaya): ngài Ananda (A-nan-đa) là 
                vị đệ tử hầu cận Đức Phật trong suốt 25 năm, ngài có trí nhớ 
                siêu việt, có thể đọc lại những điều Đức Phật đã thuyết giảng; 
                và ngài Upali (Ưu-ba-ly) đọc lại tất cả những giới luật Đức Phật 
                đã ban hành.  
 
                
                - 
                Trong đại hội kết tập 
                lần thứ nhất, chỉ có hai phần Pháp và Luật được trùng tuyên lại. 
                Mặc dù không có quan điểm khác nhau về Pháp (không có đề cập đến 
                Vi Diệu Pháp - Abhidhamma) nhưng chỉ có thảo luận một ít vấn đề 
                về giới luật. Trước khi Thế tôn viên tịch, Ngài có bảo Đại Đức 
                Ananda rằng nếu Tăng già muốn sửa đổi một ít giới luật nhỏ, thì 
                các vị có thể sửa đổi. Nhưng lúc đó ngài Ananda quá u sầu vì Thế 
                Tôn sắp viên tịch mà đối với Ananda thì điều đó không thể có 
                được, nên ngài không có hỏi bậc Đạo sư giới nào là giới nhỏ. 
                Những thành viên của hội nghị không đồng ý về điều giới luật nào 
                là giới nhỏ, cuối cùng trưởng lão Kassapa quyết định rằng không 
                có giới luật nào Thế Tôn đưa ra phải thay đổi, và ngài cũng 
                không có giới thiệu thêm giới luật mới nào. Như vậy không có lý 
                do chính đáng nào để thay đổi giới luật. Tuy nhiên trưởng lão 
                Kassapa nhắc nhở một điều: "Nếu chúng ta thay đổi giới luật, dư 
                luận quần chúng sẽ nói rằng đệ tử Sa Môn Gotama thay đổi giới 
                luật trước khi Ngài hỏa táng."  
 
                
                - 
                Trong đại hội, giáo 
                pháp được phân chia thành những phần khác nhau và mỗi phần được 
                ấn định cho một vị trưởng lão và đệ tử của vị đó để ghi nhớ. Sau 
                đó giáo pháp được truyền khẩu từ vị thầy đến đệ tử. Giáo pháp 
                được đọc tụng hằng ngày do bởi những hội chúng thường xuyên kiểm 
                chứng với nhau để bảo đảm rằng không có sự thiếu sót hoặc thêm 
                bớt nào cả. Những nhà sử học công nhận rằng truyền thống khẩu 
                truyền thì đáng tin cậy hơn một bản báo cáo do một người viết về 
                một sự kiện xảy ra sau nhiều năm.  
 
                
                - 
                Đại Hội 
                Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Hai  
 
                
                - 
                Một trăm năm sau, đại 
                hội kết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức để thảo luận một 
                số vấn đề giới luật. Sau ba tháng Thế Tôn viên tịch không có sự 
                thay đổi về mặt giới luật bởi vì trong suốt thời gian đó không 
                có sự thay đổi về mặt kinh tế, chính trị và xã hội diễn ra. 
                Nhưng 100 năm sau, một số chư tỳ kheo thấy nhu cầu cần để thay 
                đổi những giới luật nhỏ. Những thầy tỳ kheo chính thống bảo rằng 
                không có điều giới luật gì cần phải thay đổi trong khi những 
                người khác cứ nhất định sữa đổi một số ít giới luật. Cuối cùng 
                một số thầy tỳ kheo rời bỏ đại hội và thành lập Đại chúng bộ 
                (Mahasanghika). Mặc dù gọi là Đại chúng bộ nhưng không có nghĩa 
                là Đại thừa (Mahayana). Và trong đại hội kết tập lần thứ hai, 
                chỉ có thảo luận những vấn đề liên quan với giới luật và không 
                thấy nói đến sự tranh luận về giáo pháp.  
 
                
                - 
                Đại Hội 
                Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Ba  
 
                
                - 
                Thế kỷ thứ ba trước 
                công nguyên, thời hoàng đế Asoka, đại hội kết tập kinh điển lần 
                thứ ba được tổ chức để thảo luận quan điểm khác nhau giữa những 
                vị tỳ kheo khác phái. Trong đại hội kỳ này, sự khác nhau không 
                còn hạn chế về mặt giới luật mà còn liên quan với giáo pháp. 
                Cuối đại hội, chủ tọa là ngài Moggaliputta Tissa (Mộc-liên 
                Tu-đế) biên soạn một quyển sách được gọi là Những Điểm Dị Biệt 
                (Kathavatthu) để bác bỏ luận thuyết hoang tưởng, sai lầm của một 
                số bộ phái. Giáo pháp được đại hội đồng ý và chấp thuận, gọi là 
                giáo thuyết Trưởng lão (Theravada). Tạng Vi Diệu Pháp được kết 
                tập trong đại hội này.   
 
                
                - 
                Sau đại hội kết tập 
                kinh điển lần thứ ba, con trai vua Asoka, ngài Mahinda, mang Tam 
                Tạng đến Tích Lan cùng với các Chú Giải đã được đại hội thứ ba 
                trùng tuyên lại. Những kinh điển mang đến Tích Lan được bảo quản 
                cho đến ngày hôm nay mà không có mất mát một trang nào. Kinh 
                điển được viết bằng tiếng Pàli, dựa vào ngôn ngữ Ma-kiệt-đà 
                (Magadhi) do Đức Phật thuyết giảng. Không có điều gì gọi là Đại 
                thừa ở thời điểm đó.  
 
                
                - 
                Sự Xuất Hiện Của Đại 
                Thừa (Mahayana)  
 
                
                - 
                Giữa thế kỷ thứ I 
                trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật 
                ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong 
                Diệu pháp liên hoa kinh (Saddharma pundarika sutra).  
                
 
                
                - 
                Khoảng thế kỷ thứ II 
                sau công nguyên, chữ "đại thừa" dần dần được định nghĩa rõ ràng 
                hơn. Ngài Long Mãng (Nagarjuna) phát huy triết học đại thừa về 
                tánh Không và trong một bản kinh nhỏ được người ta gọi là Trung 
                luận thuyết (Madhyamika-karika, còn gọi là Trung quán luận) 
                chứng minh rằng vạn pháp đều rỗng không. Khoảng thế kỷ thứ IV, 
                Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) sáng tác một số tác 
                phẩm về kinh điển Đại thừa. Sau thế kỷ thứ I sau công nguyên, 
                những nhà Đại thừa bắt đầu tạo một lập trường rõ ràng, và từ đó, 
                họ đưa vào các danh xưng "đại thừa" và "tiểu thừa".  
                
 
                
                - 
                Chúng ta không nên 
                nhầm lẫn Tiểu thừa với Trưởng lão bộ (Theravada) bởi vì những 
                danh từ này không đồng nghĩa nhau. Phật giáo Trưởng lão bộ 
                truyền đến Tích Lan vào thế kỹ thứ III trước công nguyên, khi đó 
                không có danh từ Đại thừa nào cả. Bộ phái Tiểu thừa chỉ phát 
                triển ở Ấn độ và hiện hữu hoàn toàn độc lập, không phải hình 
                thức của đạo Phật hiện có ở Tích Lan. Ngày nay, bộ phái Tiểu 
                thừa không còn tồn tại ở bất cứ nơi nào trên thế giới.  
                
 
                
                - 
                Do đó, năm 1950, Hội 
                Phật giáo Thế giới (World Fellowship of Buddhists, WFB), khai 
                mạc ở Colombo, nhất trí quyết định rằng danh từ "tiểu thừa" phải 
                được xóa bỏ vì nó không có liên quan gì với đạo Phật hiện diện 
                ngày nay ở Tích lan, Thái lan, Miến điện, Campuchia, Lào v.v... 
                Trên đây là tóm lược về lịch sử đạo Phật Nguyên thủy, Đại thừa 
                và Tiểu thừa.  
 
                
                - 
                Đạo Phật Đại Thừa Và 
                Đạo Phật Nguyên Thủy  
 
                
                - 
                Bây giờ, chúng ta thử 
                tìm hiểu sự khác nhau giữa đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên 
                thủy là gì?  
 
                
                - 
                Tôi nghiên cứu đạo 
                Phật Đại thừa nhiều năm, và càng nghiên cứu tôi càng thấy hầu 
                như không có bất cứ điều gì khác nhau giữa đạo Phật Nguyên thủy 
                và đạo Phật Đại thừa về mặt giáo lý căn bản.  ? 
 
                
                - 
                Cả hai đều chấp nhận 
                Đức Phật Thích Ca là bậc đạo sư.  
 
                
                - 
                Tứ Thánh Đế trong cả 
                hai trường phái đều giống nhau.  
 
                
                - 
                Bát Chánh Đạo trong 
                cả hai trường phái thì cũng tương tự .  
 
                
                - 
                Lý Duyên Khởi trong 
                cả hai trường phái đều giống nhau.  
 
                
                - 
                Cả hai đều không chấp 
                nhận tư tưởng về thượng đế tạo ra thế gian này.  
 
                
                - 
                Cả hai đều chấp nhận 
                Tam tướng (Khổ, Vô thường, Vô ngã) và Tam vô lậu học (Giới, 
                Định, Huệ) , không có bất kỳ sự khác biệt nào.  
 
                
                - 
                Đây là những giáo lý 
                quan trọng nhất của Đức Phật và cả hai trường phái đều công 
                nhận.  
 
                
                - 
                Cũng có một số ít 
                điểm khác nhau. Hiển nhiên là quan điểm về Bồ tát. Nhiều người 
                nói rằng Đại thừa là quả vị Bồ tát dẫn đến quả vị Phật, trong 
                khi đó Nguyên thủy thì đưa đến quả vị A La Hán. Tôi phải nói 
                rằng Đức Phật Toàn giác, Độc giác và Thinh văn giác cũng là 
                những vị A La Hán. Kinh điển Đại thừa không bao giờ sử dụng La 
                Hán thừa. Họ sử dụng ba thuật ngữ: Bồ tát thừa, Duyên giác thừa 
                và Thinh văn thừa. Theo truyền thống Nguyên thủy, ba quả vị này 
                được gọi là ba quả Giác (Bodhi).  
 
                
                - 
                Có người cho rằng 
                Phật giáo Nguyên thủy thì ích kỹ bởi vì dạy con người phải tìm 
                kiếm sự cứu rỗi cá nhân. Nhưng làm sao một người ích kỹ có thể 
                giác ngộ được? Cả hai trường phái đều chấp nhận có ba Thừa, hay 
                ba Giác, và cũng đều công nhận lý tưởng Bồ tát là cao quí nhất. 
                Tuy nhiên, Đại thừa đã hư cấu nhiều vị Bồ tát huyền bí. Trong 
                khi đó, Phật giáo Nguyên thủy cho rằng Bồ tát là một con người ở 
                giữa chúng ta, và Ngài hiến tặng trọn vẹn đời mình cho sự giác 
                ngộ, chắc chắn sẽ trở thành vị Phật vì lợi ích của thế gian, vì 
                hạnh phúc cho đời.  
 
                
                - 
                Ba Hạng 
                Phật  
 
                
                - 
                Có ba hạng Phật: 
                Chánh đẳng chánh giác (sammasambuddha), Độc giác 
                (paccekabuddha), và Thinh văn giác (savakabuddha). Việc chứng 
                đắc Níp-bàn giữa ba vị thì giống nhau. Chỉ có sự khác nhau là 
                Chánh đẳng chánh giác có nhiều uy đức và phẩm chất hơn hai vị 
                kia.  
 
                
                - 
                Có người nghĩ rằng 
                tánh Không do ngài Long Mãng nói thì hoàn toàn là giáo lý Đại 
                thừa. Thật ra, ngài căn cứ vào tư tưởng Vô Ngã và Lý Duyên Khởi, 
                đã có sẵn trong kinh tạng Pàli. Một lần đại đức Ananda hỏi Đức 
                Phật, "Người ta nói về chữ  Không, vậy Không là gì? " Đức Phật 
                trả lời, "Này Ananda, không có bản ngã cũng không có bất cứ điều 
                gì liên quan với bản ngã trên đời này. Do đó, thế gian là vô 
                ngã." Tư tưởng này do ngài Long Mãng đưa ra khi ông viết quyển 
                sách "Madhyamika-karika" (Trung quán luận) nổi tiếng của mình. 
                Trong Phật giáo Đại thừa, bên cạnh tư tưởng tánh Không còn có ý 
                niệm "Tàng thức" vốn đã có nguồn gốc trong kinh tạng nguyên 
                thủy. Những người Đại thừa chỉ khai triển thêm các khái niệm nầy 
                để tạo dựng nền triết học và tâm lý học sâu thẳm./.   
                
 
                
                - 
                (Nguyên tác: 
                "Theravada - Mahayana Buddhism", Gems of Buddhist Wisdom, 
                Buddhist Missionary Society, Kuala Lumpur, Malaysia, 1996) 
                
 
                
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |