| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Thọ Uẩn
 
                  
                
                
                
                   
                  - 
                  ---o0o---
 
                  
                
                - 
                  
 
                - 
                Năm uẩn là thành phần 
                cấu tạo nên con người gồm có sắc, thọ tưởng, hành, thức. Sắc là 
                phần vật chất, bốn món sau thuộc về phần tinh thần hay còn gọi 
                là tâm. Sắc và tâm, hai món này tùy thuộc vào nghiệp chúng sinh 
                tạo tác mà lưu chuyển trong vòng sinh tử luân hồi. 
 
                - 
                Uẩn hay ấm là ngăn 
                che, đã bị che rồi thì phải bị mê mờ thấy đâu ra được ánh sáng 
                của chân tâm thường trú, thể tánh tịnh minh. 
 
                - 
                Thọ uẩn là uẩn thứ 
                hai của năm uẩn trong Bát Nhã Tâm kinh, đồng thời là nhân duyên 
                thứ bảy trong "Mười Hai Nhân Duyên".  Tuy là một nhân duyên 
                nhưng vừa là nhân của ái vì có thọ cảm mới có trìu mến , là quả 
                của xúc vì có đụng chạm mới có thọ cảm.  Thọ(vedanànupassanà) là 
                cảm thọ hay cảm giác (feeling). Trong duy thức đề cập đến ba 
                loại chính là: 
 
                - 
                Lạc thọ – Cảm thọ an 
                lạc, hạnh phúc.
                
 
                - 
                Khổ thọ  - Cảm thọ 
                bất an, khổ đau.
                
 
                - 
                Xả thọ - Cảm thọ 
                trung tính, không bị chi phối bởi vui, buồn, khổ, lạc ...
                
 
                - 
                Hay năm thọ là khổ 
                thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ và xả thọ. 
 
                - 
                          Nguyên nhân 
                chính gây ra cảm thọ là do năm căn khi tiếp xúc với năm trần 
                (visaya) có tác ý, nghĩa là có sự quan tâm chú ý đến đối tượng 
                như sau:
 
                - 
                1.     
                Sắc cảnh -  
                Mắt nhìn thấy cảnh vật. Phân làm hai loại: 
 
                - 
                - Hiển sắc - Chỉ là 
                màu sắc mhư xanh, vàng đỏ, trắng, sương mù ..... 
 
                - 
                -        
                Hình sắc - Có 
                hình dáng như dài, ngắn, vuông, tròn, cao thấp. ... 
 
                - 
                Sắc cảnh cộng chung 
                có hai mươi thứ, nhưng không đề cập đến nơi đây.
 
                - 
                2.     
                Thinh cảnh – 
                Tai nghe được âm thanh. Phân làm hai loại:
 
                - 
                - Hữu tình danh - 
                những âm thanh ngôn ngữ có mang ý thức, chia làm hai:
 
                - 
                          - Âm thanh 
                có ý thức là những âm thanh làm vui tai như lời khen.
 
                - 
                          - Âm thanh 
                chẳng có ý thức là những âm thanh không làm vui tai như lời chê 
                bai, mắng nhiếc.
 
                - 
                - Phi hữu tình danh - 
                Những âm thanh không có mang ý nghĩa, có hai:
 
                - 
                          - Âm thanh 
                có ý nghĩa là âm thanh làm vui tai như  tiếng vỗ tay.
 
                - 
                          - Âm thanh 
                không thể có mang ý nghĩa, những âm thanh không làm vui tai như  
                lời tiếng ngáy, tiếng ho, tiếng vật bị rớt.
 
                - 
                3.     
                Hương cảnh – 
                Mũi ngưởi lấy mùi hương. Có bốn loại tổng quát:
 
                - 
                -   Thơm 
                - Làm dễ chịu khi cảm thọ như mùi trầm hương, chiên đàn ...
                
 
                - 
                -   Thối 
                - Làm khó chịu khi cảm thọ như mùi hành, tỏi có mùi hăng nồng.
                
 
                - 
                -   Ðẳng 
                hương - Những mùi có lợi ích cho thân thể, như mùi dầu khuynh 
                diệp trị nghẹt mũi ....
 
                - 
                -  Bất 
                đẳng hương - Những mùi có hại cho thân thể, như mùi xăng dầu, 
                mùi gas ...làm hư não bộ.
 
                - 
                4.     
                Vị cảnh - Lưởi 
                nếm hương vị, có tất cả sáu vị là đắng, cay, mặn, lạt, chua, 
                ngọt. Tùy theo tính ưu thích cảm thọ mà phân loại thành khả ý vị 
                (ưu thích), bất khả ý vị (không ưu thích), xả vị (bình thường).
 
                - 
                5.     
                Xúc cảnh - 
                Thân thể đụng chạm, tiếp xúc với trần cảnh sinh cảm thọ. Chia 
                làm hai:
 
                - 
                -        
                Năng tạo xúc - 
                Là hiển lộ của tứ đại đất, nước, gió lửa hoàn toàn như cứng, 
                ướt, ấm, động.
 
                - 
                -        
                Sở tạo xúc - 
                Do tứ đại điều hoà mà sinh như láng, nhám, nặng, nhẹ, lạnh, đói, 
                khát. Vì thọ nên chúng sinh chấp có Mình, có cái của Mình (Ngã,  
                Ngã sở), do đó tâm tánh, ý tưởng và kiến thức của họ trở nên 
                điên đảo, mộng tưởng, tà loạn. Những sự trìu mến và khổ sở đều 
                từ thọ mà sinh ra muôn vàn trần lao, phiền não.  Vì vậy, muốn 
                dứt  ái, trước hết phải quán sát cảm thọ.
 
                - 
                          Thọ chính 
                là thức ăn để nuôi sống tâm thức con người. Cảm thọ như một dòng 
                sông trôi chảy tương tục trong đời người, nó không hề ngừng 
                nghỉ. Do đó, con đường giải thoát chính là sự thoát ly mọi nô lệ 
                của con người về sự cảm thọ của tâm thức vô minh. Những quả báo 
                xấu do thọ gây ra là vì muốn nhận lấy những sự vui sướng vô 
                thường, bất tịnh, người ta bất chấp tất cả để làm điều độc ác, 
                dứt các thiện căn của mình. Cũng chính vì thọ mà con người dễ sa 
                đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cho đến chịu vô lượng khổ 
                não trong tam giới vì luân hồi, sinh tử.  
 
                - 
                          Năm uẩn gồm 
                có thọ uẩn cũng là thành phần cấu tạo thành chúng sinh, thế 
                giới. Vì thọ uẩn cũng là những thứ che khuất Phật tính của chúng 
                sinh nên tâm bồ đề của chúng sinh bị lu mờ, không phát triển 
                được. Bởi vì không thấy được bản tâm bồ đề nên đạo tâm không 
                hiển lộ.  Ðạo tâm không hiển lộ thì làm sao đạt được niết bàn 
                tịch tĩnh, thiện pháp lạc trú. Xưa nay, chúng sinh cứ bị năm thứ 
                này che lấp nên không thấy được tự tánh của chính mình phải lặn 
                ngụp trong biển ái sinh tử.
 
                - 
                          Ðể đối trị 
                với thọ uẩn, chúng ta có thể dùng nhiều phương pháp trong kinh 
                điển. Ở đây, chỉ đề cập đến thiền Tứ niệm xứ vì phương pháp này 
                của Phật Giáo Nguyên Thủy có quan hệ mật thiết với Bát Nhã Tâm 
                kinh là tâm cang, huyết mạch của Phật Giáo Bắc Tông. Trí tuệ Bát 
                Nhã là trí tuệ siêu việt từ dụng công tư duy, tu tập chứ không 
                phải từ nơi học thức thế gian tích tụ lại. Thiền Tứ Niệm Xứ nói 
                về bốn lãnh vực quán niệm, nói về cách thức tu tập, pháp hành. 
                Còn Bát Nhã Tâm Kinh nói về triết lý cao siêu, pháp học nên hợp 
                nhất và đi song song bên nhau, hổ trợ cho nhau. Có học phải có 
                hành, thật ra cả hai đều nói về năm uẩn nói chung trong đó có 
                thọ uẩn nói riêng.
 
                - 
                Nếu trong kinh Bát 
                Nhã đề cập đến "chiếu kiến ngũ uấn giai không độ nhất thiết 
                khổ ách" nghĩa là phải nhận diện rõ ràng, chân thật năm uẩn 
                nói chung và thọ uẩn nói riêng là không có gì thực tiễn, tồn tại 
                cả. Nó chỉ là hoa đốm bay giữa hư không, là những lượn sóng nhấp 
                nhô, gợn lên giữa biển tâm mênh mông, vắng lặng. Nếu nói là có 
                nó, thì tại sao nó không tồn tại miên viễn chứ ? Hôm nay, tâm 
                vui, ngày mai, tâm buồn, ngày mốt tâm hờn giận .....Ðiều này 
                khiến cho hành giả cố gắng tìm tòi, suy tưởng, mượn những lý 
                thuyết giúp cho hiểu thấu được tánh không của năm uẩn nói chung, 
                thọ uẩn nói riêng. Cho nên mới tiếp nối là "Vô thọ tưởng 
                hành, thức" tức là không có chi hết, từ thọ cho đến thức đều 
                là một tánh không rổng rang. Nếu nhận thức được thọ uẩn vốn 
                không tự tánh, hư dối thì tâm bồ đề sẽ phát xuất, nương theo tâm 
                bồ đề mà tu cho đến ngày thành Phật.
 
                - 
                          Lý thuyết 
                Bát nhã như thế rồi thì phải thực hành làm sao để "Ðộ nhất 
                thiết khổ ách" bây giờ ? Trong thiền "Tứ Niệm Xứ" có một 
                phép quán gọi là "Quán Thọ thì khổ" để đối trị với thọ uẩn. Thọ 
                khổ thì khổ đã đành rồi, nhưng thọ lạc tức là vui cũng vẫn cứ 
                khổ như thường. Bởi vì trong cái vui đã hàm chứa một sự lo âu vì 
                dính mắc niềm vui trong tâm, khi tâm muốn chỉ được vui thôi mà 
                không được như ý vì nó không bao giờ vĩnh hằng cả, thì đã sinh 
                ra cảm giác phiền não, ưu bi là khổ thọ.  
 
                - 
                          Phép quán 
                này chỉ dạy hành giả quán sát, ghi nhận trực tiếp và khách quan 
                tính cách sinh diệt của thọ uẩn. Nếu tinh tấn thực tập, sẽ đích 
                thân trực nghiệm được tính cách vô thường của thọ uẩn, khi hiểu 
                được vô thường sẽ hiểu được vô ngã. Vô ngã (anatta) của Bát Nhã 
                Tâm Kinh đứng trên phương diện một chúng sinh và không (sunyata) 
                của Tứ Niệm Xứ là đứng trên phương diện pháp giới. 
 
                - 
                          Ðể thực 
                hành phép quán này, hành giả hãy "niệm thọ" hay "cảm giác".  
                Thực tập quán niệm cảm giác, giác tỉnh đang hiện hữu rồi chú tâm 
                ghi nhận "một cách khách quan" những cảm giác  hay cảm thọ của 
                mình về vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ), không vui sướng 
                hay đau khổ (xả thọ), xem chúng khởi lên ra sao, biến mất như 
                thế nào, ghi nhận kỷ lưởng từng giai đoạn một mà tư duy từng cảm 
                thọ một.
 
                - 
                Thông thường, người 
                ta hay thất vọng khi chứng nghiệm về thọ khổ, phấn khởi bằng 
                lòng với thọ lạc. Tuy nhiên, trong công trình tu tập, theo dõi, 
                niệm thọ sẽ giúp cho hành giả chứng nghiệm tất cả cảm giác một 
                cách khách quan, với tâm xả thật bình thản, nhất là cố tránh cho 
                con người khỏi bị chao động bởi cảm giác chi phối, phân biệt hai 
                bên, phải buông bỏ tất cả những lệ thuộc nơi cảm giác để không 
                làm nô lệ cho nó.
 
                - 
                          Tóm lại, 
                trong Bát Nhã Tâm kinh, thọ uẩn là cửa ngỏ, là quả của sắc, 
                lànguyên nhân chính trong năm uẩn để gây nên điên đảo, mộng 
                tưởng. Trong mười Hai Nhân Duyên, thọ là móc xích giữa xúc và 
                ái, cũng là lý do để đi đến móc xích sinh, lão, tử.  Nếu không 
                muốn cảm thọ thì nên vô tâm, nên thực hành hạnh xả ly từ năm 
                giác quan. Mỗi ngày, đừng dụng tâm để năm giác quan tác ý gì 
                nhiều với trần cảnh mỗi khi tiếp xúc. Dỉ nhiên là phải biết tất 
                cả, nhưng biết để màsống và sinh hoạt, phải thực hành biết với 
                tâm không phân biệt, thương ghét, dính mắc vào bất cứ pháp trần 
                nào.  Nên ghi nhớ một chữ "LY" quan trọng khi tiếp xúc với trần 
                cảnh.
 
                - 
                          Ðể đạt đến 
                trạng thái này, gọi là "như  như bất động",  "vững như bàn 
                thạch" hay "bát phong bất động", hành giả phải trải qua một quá 
                trình công năng thực hành, quán chiếu  theo dõi tâm thức đều 
                đặn, thật lâu và liên tục mới biết được khi nào tâm bắt đầu cảm 
                thọ. Chỉ biết và nhận diện nó thôi để dừng lại kịp thời cũng là 
                có kết quả tốt rồi.  Các cụ ngày xưa vẫn dùng câu tục ngữ "dù 
                ai nói ngữa nói nghiêng, ta đây vẫn vững như kiền ba chân" 
                 để khuyên con cháu đừng chạy theo thinh trần bên ngoài, chạy 
                theo lời nói, ý kiến người khác hầu thay đổi ý kiến mình.
 
                - 
                          Không cảm 
                thọ cũng giống như hai tờ giấy khi chồng lên nhau không có keo 
                nên gở ra rất dễ dàng. Còn cảm thọ giống như hai tờ giấy chồng 
                lên nhau có phết keo, rất khó khăn khi gở, tùy theo phết nhiều 
                hay ít keo. Ðể tránh cảm thọ, phải thực tập chánh niệm, theo dõi 
                hơi thở, câu niệm phật, trì chú, công án  ... tùy theo căn cơ 
                hạp với phương pháp nào mà áp dụng. 
 
                - 
                Kinh Kim Cang có câu 
                "Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm", không "TRỤ" hay "LY" cũng như 
                vậy. Ðó là chận giặc từ bên ngoài, trước ngỏ. Người đời thường 
                có câu rất hay nhưng thực tế như:
 
                - 
                "Thây/mặc kệ nó đi", 
                "Ðể ý làm gì cho mệt tâm", "Cho nó qua đi", "Ồ, đó đâu phải 
                chuyện của mình"
 
                - 
                Tuy bình dân, đơn 
                giản mà rất hay, có lý lẽ lắm chứ vì thế nên các thiền sư thường 
                dùng được ghi lại trong nhiều sách về tu thiền.
 
                - 
                          Ngược lại, 
                nếu chính hành giả cảm thấy, hay ai đó nói với hành giả rằng:
 
                - 
                "Thật là chướng tai, 
                gai mắt", "Thật là bực mình", "Tức quá đi thôi" 
 
                - 
                Khi ấy, hành giả phải 
                hiểu là dòng sông cảm thọ đang nổi sóng ầm ì đi ngang qua cõi a 
                tu la để nhà trống cho giặc cướp xông vào. Phải biết tỉnh thức 
                ngay để còn nhận diện được chính mình mà dừng lại tức thì rồi 
                dùng những phép quán như huyễn tam ma đề hay quán thọ thì khổ 
                như đã nêu trên mà quán triệt nó hoàn toàn. 
 
                - 
                          Ðể kết thúc 
                bài này, câu chuyện về đức Thế Tôn cảm thọ về thân ra sao, được 
                kể lại trong bộ kinh Cõi Thiên Tương Ưng tập I, như sau:
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  Chương I
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  PHẨM IV. PHẨM QUẦN TIÊN
 
                  
                
                - 
                
                VIII.        
                
                
                MIẾNG ÐÁ VỤN 
 
                - 
                
                (Tạp, Ðại 2,355a) (Biệt Tạp, Ðại 2,473c) - (S.i,27) (trang 64)
 
                - 
                1)     
                Như vầy tôi 
                nghe.
 
                - 
                Một thời Thế Tôn ở 
                Ràjagaha (Vương Xá), tại vườn Nai(Maddakucchi).
 
                - 
                2)     
                Lúc bấy giờ, 
                chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. 
                Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không 
                khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, 
                nhẫn chịu không phiền não.
 
                - 
                3)     
                Rồi Thế Tôn 
                cho trãi áo Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía 
                hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh 
                niệm tỉnh giác.
 
                - 
                4)     
                Rồi bảy trăm 
                quần tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc 
                thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau 
                khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
 
                - 
                5)     
                Ðứng một bên, 
                một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                - Sa-môn Gotama thật 
                là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu 
                thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, 
                không khoái tâm, không thích thú. Ngài chánh niệm tỉnh giác, 
                nhẫn chịu không phiền não.
 
                - 
                6)     
                Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                -Sa-môn Gotama thật 
                là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi 
                lên, khổ đau ... không có phiền não.
 
                - 
                7)     
                Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn
 
                - 
                -Sa-môn Gotama thật 
                là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu 
                thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
 
                - 
                8)     
                Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                -Sa-môn Gotama thật 
                là Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân 
                thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
 
                - 
                9)     
                Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                -Sa-môn Gotama thật 
                là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên 
                cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có 
                phiền não.
 
                - 
                10) 
                Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                - Sa-môn Gotama thật 
                là bậc Khéo điều phục. Và với tư cách bậc Khéo điều phục, Ngài 
                nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
 
                - 
                11) 
                 Rồi một vị 
                Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
 
                - 
                -Hãy xem tâm của Ngài 
                khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, 
                không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai 
                kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như 
                vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một 
                bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một 
                bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.
 
                - 
                         
                Các vị Bà-la-môn,
 
                - 
                Tinh thông năm Vệ-đà,
 
                - 
                Dầu tu tập khổ hạnh,
 
                - 
                Cho đến hàng trăm 
                năm,
 
                - 
                Tâm họ không có thể,
 
                - 
                Chơn chánh được giải 
                thoát.
 
                - 
                Tự tánh quá hạ liệt,
 
                - 
                Không đến bờ bên kia,
 
                - 
                Bị khát ái chi phối,
 
                - 
                Bị giới cấm trói 
                buộc,
 
                - 
                Dầu tu tập khổ hạnh,
 
                - 
                Cho đến hàng trăm 
                năm,
 
                - 
                Tâm họ không có thể,
 
                - 
                Chơn chánh được giải 
                thoát.
 
                - 
                Tự tánh quá hạ liệt,
 
                - 
                Không đến bờ bên kia.
 
                - 
                Ở đời không nhiếp 
                phục,
 
                - 
                Kiêu mạn cùng các 
                dục,
 
                - 
                Tâm không được an 
                tịnh,
 
                - 
                Không tu tập thiền 
                định.
 
                - 
                Ở trong rừng cô độc,
                
 
                - 
                Nhưng tâm tư phóng 
                dật,
 
                - 
                Vị ấy khó vượt khỏi,
 
                - 
                Sự chinh phục tử 
                thần.
 
                - 
                Nhiếp phục được kiêu 
                mạn,
 
                - 
                Khéo tu tập Thiền 
                định,
 
                - 
                Tâm tư khéo an tịnh,
                
 
                - 
                Giải thoát được viên 
                mãn,
 
                - 
                Ở trong rừng cô độc,
 
                - 
                Tâm tư không phóng 
                dật,
 
                - 
                Vị ấy khéo vượt 
                khỏi,  
 
                - 
                Sự chinh phục tử 
                thần.
 
                - 
                 
 
                
                   
                  - 
                  Chương IV
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  TƯƠNG ƯNG ÁC MA
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  PHẨM II. PHẨM THỨ HAI
 
                  
                
                - 
                
                III.              
                
                
                PHIẾN ÐÁ (S.i, 110) (Trang 245)
 
                - 
                1)     
                Như vầy tôi 
                nghe.
 
                - 
                Một thời Thế Tôn ở 
                Ràjagaha (Vương Xá), tại Maddakucchi, vườn Nai (Migadaya).
 
                - 
                2)     
                Lúc bấy giờ, 
                chân Thế Tôn bị phiến đá gây thương tích. Thế Tôn cảm xúc khốc 
                liệt, toàn thân đau đớn, nhói đau, đau nhức mãnh liệt, không 
                thích thú, không vừa ý. Và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn 
                chịu không để tâm tư buồn nản.
 
                - 
                3)     
                Rồi Ác ma đi 
                đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ này với Thế Tôn:
 
                - 
                Sao Ngài uể oải nằm,
 
                - 
                Hãy tìm thơ, tìm vận,
 
                - 
                Phải chăng việc sai 
                biệt,
 
                - 
                Không chờ đợi Ngài 
                làm,
 
                - 
                Phải một mình cô độc,
 
                - 
                Trên ghế giường nằm 
                ngồi,
 
                - 
                Với gương mặt ngái 
                ngủ,
 
                - 
                Sao Ngài ngủ như vậy?
 
                - 
                (Thế Tôn):
 
                - 
                Ta không uể oải nằm,
 
                - 
                Không tìm thơ, tìm 
                vận,
 
                - 
                Mục đích Ta đã đạt,
 
                - 
                Ðâu có sầu nuộn gì!
 
                - 
                Ta nằm ngồi một mình,
 
                - 
                Trên ghế giường vắng 
                lặng,
 
                - 
                Yên tĩnh Ta nằm nghỉ,
                
 
                - 
                Tâm từ thương chúng 
                sanh.
 
                - 
                Những kẻ ngực bị đâm,
 
                - 
                Hổn hển tim dồn dập,
 
                - 
                Vẫn tìm được giấc 
                ngủ, 
 
                - 
                Dầu bị thương tích 
                nặng.
 
                - 
                Sao Ta lại không ngủ,
 
                - 
                Khi không bị thương 
                tích,
 
                - 
                Khi thức không âu lo,
 
                - 
                Khi ngủ chẳng sợ hãi,
 
                - 
                Ngày đêm không khởi 
                lên,
 
                - 
                Phiền não bận lòng 
                Ta?
 
                - 
                Ta không thấy tai 
                hại,
 
                - 
                Một chỗ nào trên đời,
                
 
                - 
                Do vậy ta nằm nghỉ,
 
                - 
                Tâm từ thương chúng 
                sanh.
 
                - 
                          
                4)     
                Rồi Ác ma biết 
                được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta", buồn khổ, thất 
                vọng liền biến mất tại chỗ ấy.
 
                - 
                          (Adelaide - 
                Muà An Cư 2002)
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |