Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
Thọ Uẩn
---o0o---
  
Năm uẩn là thành phần cấu tạo nên con người gồm có sắc, thọ tưởng, hành, thức. Sắc là phần vật chất, bốn món sau thuộc về phần tinh thần hay còn gọi là tâm. Sắc và tâm, hai món này tùy thuộc vào nghiệp chúng sinh tạo tác mà lưu chuyển trong vòng sinh tử luân hồi.
Uẩn hay ấm là ngăn che, đã bị che rồi thì phải bị mê mờ thấy đâu ra được ánh sáng của chân tâm thường trú, thể tánh tịnh minh.
Thọ uẩn là uẩn thứ hai của năm uẩn trong Bát Nhã Tâm kinh, đồng thời là nhân duyên thứ bảy trong "Mười Hai Nhân Duyên".  Tuy là một nhân duyên nhưng vừa là nhân của ái vì có thọ cảm mới có trìu mến , là quả của xúc vì có đụng chạm mới có thọ cảm.  Thọ(vedanànupassanà) là cảm thọ hay cảm giác (feeling). Trong duy thức đề cập đến ba loại chính là:
Lạc thọ – Cảm thọ an lạc, hạnh phúc.
Khổ thọ  - Cảm thọ bất an, khổ đau.
Xả thọ - Cảm thọ trung tính, không bị chi phối bởi vui, buồn, khổ, lạc ...
Hay năm thọ là khổ thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ và xả thọ.
          Nguyên nhân chính gây ra cảm thọ là do năm căn khi tiếp xúc với năm trần (visaya) có tác ý, nghĩa là có sự quan tâm chú ý đến đối tượng như sau:
1.      Sắc cảnh -  Mắt nhìn thấy cảnh vật. Phân làm hai loại:
- Hiển sắc - Chỉ là màu sắc mhư xanh, vàng đỏ, trắng, sương mù .....
-         Hình sắc - Có hình dáng như dài, ngắn, vuông, tròn, cao thấp. ...
Sắc cảnh cộng chung có hai mươi thứ, nhưng không đề cập đến nơi đây.
2.      Thinh cảnh – Tai nghe được âm thanh. Phân làm hai loại:
- Hữu tình danh - những âm thanh ngôn ngữ có mang ý thức, chia làm hai:
          - Âm thanh có ý thức là những âm thanh làm vui tai như lời khen.
          - Âm thanh chẳng có ý thức là những âm thanh không làm vui tai như lời chê bai, mắng nhiếc.
- Phi hữu tình danh - Những âm thanh không có mang ý nghĩa, có hai:
          - Âm thanh có ý nghĩa là âm thanh làm vui tai như  tiếng vỗ tay.
          - Âm thanh không thể có mang ý nghĩa, những âm thanh không làm vui tai như  lời tiếng ngáy, tiếng ho, tiếng vật bị rớt.
3.      Hương cảnh – Mũi ngưởi lấy mùi hương. Có bốn loại tổng quát:
-   Thơm - Làm dễ chịu khi cảm thọ như mùi trầm hương, chiên đàn ...
-   Thối - Làm khó chịu khi cảm thọ như mùi hành, tỏi có mùi hăng nồng.
-   Ðẳng hương - Những mùi có lợi ích cho thân thể, như mùi dầu khuynh diệp trị nghẹt mũi ....
-  Bất đẳng hương - Những mùi có hại cho thân thể, như mùi xăng dầu, mùi gas ...làm hư não bộ.
4.      Vị cảnh - Lưởi nếm hương vị, có tất cả sáu vị là đắng, cay, mặn, lạt, chua, ngọt. Tùy theo tính ưu thích cảm thọ mà phân loại thành khả ý vị (ưu thích), bất khả ý vị (không ưu thích), xả vị (bình thường).
5.      Xúc cảnh - Thân thể đụng chạm, tiếp xúc với trần cảnh sinh cảm thọ. Chia làm hai:
-         Năng tạo xúc - Là hiển lộ của tứ đại đất, nước, gió lửa hoàn toàn như cứng, ướt, ấm, động.
-         Sở tạo xúc - Do tứ đại điều hoà mà sinh như láng, nhám, nặng, nhẹ, lạnh, đói, khát. Vì thọ nên chúng sinh chấp có Mình, có cái của Mình (Ngã,  Ngã sở), do đó tâm tánh, ý tưởng và kiến thức của họ trở nên điên đảo, mộng tưởng, tà loạn. Những sự trìu mến và khổ sở đều từ thọ mà sinh ra muôn vàn trần lao, phiền não.  Vì vậy, muốn dứt  ái, trước hết phải quán sát cảm thọ.
          Thọ chính là thức ăn để nuôi sống tâm thức con người. Cảm thọ như một dòng sông trôi chảy tương tục trong đời người, nó không hề ngừng nghỉ. Do đó, con đường giải thoát chính là sự thoát ly mọi nô lệ của con người về sự cảm thọ của tâm thức vô minh. Những quả báo xấu do thọ gây ra là vì muốn nhận lấy những sự vui sướng vô thường, bất tịnh, người ta bất chấp tất cả để làm điều độc ác, dứt các thiện căn của mình. Cũng chính vì thọ mà con người dễ sa đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cho đến chịu vô lượng khổ não trong tam giới vì luân hồi, sinh tử. 
          Năm uẩn gồm có thọ uẩn cũng là thành phần cấu tạo thành chúng sinh, thế giới. Vì thọ uẩn cũng là những thứ che khuất Phật tính của chúng sinh nên tâm bồ đề của chúng sinh bị lu mờ, không phát triển được. Bởi vì không thấy được bản tâm bồ đề nên đạo tâm không hiển lộ.  Ðạo tâm không hiển lộ thì làm sao đạt được niết bàn tịch tĩnh, thiện pháp lạc trú. Xưa nay, chúng sinh cứ bị năm thứ này che lấp nên không thấy được tự tánh của chính mình phải lặn ngụp trong biển ái sinh tử.
          Ðể đối trị với thọ uẩn, chúng ta có thể dùng nhiều phương pháp trong kinh điển. Ở đây, chỉ đề cập đến thiền Tứ niệm xứ vì phương pháp này của Phật Giáo Nguyên Thủy có quan hệ mật thiết với Bát Nhã Tâm kinh là tâm cang, huyết mạch của Phật Giáo Bắc Tông. Trí tuệ Bát Nhã là trí tuệ siêu việt từ dụng công tư duy, tu tập chứ không phải từ nơi học thức thế gian tích tụ lại. Thiền Tứ Niệm Xứ nói về bốn lãnh vực quán niệm, nói về cách thức tu tập, pháp hành. Còn Bát Nhã Tâm Kinh nói về triết lý cao siêu, pháp học nên hợp nhất và đi song song bên nhau, hổ trợ cho nhau. Có học phải có hành, thật ra cả hai đều nói về năm uẩn nói chung trong đó có thọ uẩn nói riêng.
Nếu trong kinh Bát Nhã đề cập đến "chiếu kiến ngũ uấn giai không độ nhất thiết khổ ách" nghĩa là phải nhận diện rõ ràng, chân thật năm uẩn nói chung và thọ uẩn nói riêng là không có gì thực tiễn, tồn tại cả. Nó chỉ là hoa đốm bay giữa hư không, là những lượn sóng nhấp nhô, gợn lên giữa biển tâm mênh mông, vắng lặng. Nếu nói là có nó, thì tại sao nó không tồn tại miên viễn chứ ? Hôm nay, tâm vui, ngày mai, tâm buồn, ngày mốt tâm hờn giận .....Ðiều này khiến cho hành giả cố gắng tìm tòi, suy tưởng, mượn những lý thuyết giúp cho hiểu thấu được tánh không của năm uẩn nói chung, thọ uẩn nói riêng. Cho nên mới tiếp nối là "Vô thọ tưởng hành, thức" tức là không có chi hết, từ thọ cho đến thức đều là một tánh không rổng rang. Nếu nhận thức được thọ uẩn vốn không tự tánh, hư dối thì tâm bồ đề sẽ phát xuất, nương theo tâm bồ đề mà tu cho đến ngày thành Phật.
          Lý thuyết Bát nhã như thế rồi thì phải thực hành làm sao để "Ðộ nhất thiết khổ ách" bây giờ ? Trong thiền "Tứ Niệm Xứ" có một phép quán gọi là "Quán Thọ thì khổ" để đối trị với thọ uẩn. Thọ khổ thì khổ đã đành rồi, nhưng thọ lạc tức là vui cũng vẫn cứ khổ như thường. Bởi vì trong cái vui đã hàm chứa một sự lo âu vì dính mắc niềm vui trong tâm, khi tâm muốn chỉ được vui thôi mà không được như ý vì nó không bao giờ vĩnh hằng cả, thì đã sinh ra cảm giác phiền não, ưu bi là khổ thọ. 
          Phép quán này chỉ dạy hành giả quán sát, ghi nhận trực tiếp và khách quan tính cách sinh diệt của thọ uẩn. Nếu tinh tấn thực tập, sẽ đích thân trực nghiệm được tính cách vô thường của thọ uẩn, khi hiểu được vô thường sẽ hiểu được vô ngã. Vô ngã (anatta) của Bát Nhã Tâm Kinh đứng trên phương diện một chúng sinh và không (sunyata) của Tứ Niệm Xứ là đứng trên phương diện pháp giới.
          Ðể thực hành phép quán này, hành giả hãy "niệm thọ" hay "cảm giác".  Thực tập quán niệm cảm giác, giác tỉnh đang hiện hữu rồi chú tâm ghi nhận "một cách khách quan" những cảm giác  hay cảm thọ của mình về vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ), không vui sướng hay đau khổ (xả thọ), xem chúng khởi lên ra sao, biến mất như thế nào, ghi nhận kỷ lưởng từng giai đoạn một mà tư duy từng cảm thọ một.
Thông thường, người ta hay thất vọng khi chứng nghiệm về thọ khổ, phấn khởi bằng lòng với thọ lạc. Tuy nhiên, trong công trình tu tập, theo dõi, niệm thọ sẽ giúp cho hành giả chứng nghiệm tất cả cảm giác một cách khách quan, với tâm xả thật bình thản, nhất là cố tránh cho con người khỏi bị chao động bởi cảm giác chi phối, phân biệt hai bên, phải buông bỏ tất cả những lệ thuộc nơi cảm giác để không làm nô lệ cho nó.
          Tóm lại, trong Bát Nhã Tâm kinh, thọ uẩn là cửa ngỏ, là quả của sắc, lànguyên nhân chính trong năm uẩn để gây nên điên đảo, mộng tưởng. Trong mười Hai Nhân Duyên, thọ là móc xích giữa xúc và ái, cũng là lý do để đi đến móc xích sinh, lão, tử.  Nếu không muốn cảm thọ thì nên vô tâm, nên thực hành hạnh xả ly từ năm giác quan. Mỗi ngày, đừng dụng tâm để năm giác quan tác ý gì nhiều với trần cảnh mỗi khi tiếp xúc. Dỉ nhiên là phải biết tất cả, nhưng biết để màsống và sinh hoạt, phải thực hành biết với tâm không phân biệt, thương ghét, dính mắc vào bất cứ pháp trần nào.  Nên ghi nhớ một chữ "LY" quan trọng khi tiếp xúc với trần cảnh.
          Ðể đạt đến trạng thái này, gọi là "như  như bất động",  "vững như bàn thạch" hay "bát phong bất động", hành giả phải trải qua một quá trình công năng thực hành, quán chiếu  theo dõi tâm thức đều đặn, thật lâu và liên tục mới biết được khi nào tâm bắt đầu cảm thọ. Chỉ biết và nhận diện nó thôi để dừng lại kịp thời cũng là có kết quả tốt rồi.  Các cụ ngày xưa vẫn dùng câu tục ngữ "dù ai nói ngữa nói nghiêng, ta đây vẫn vững như kiền ba chân"  để khuyên con cháu đừng chạy theo thinh trần bên ngoài, chạy theo lời nói, ý kiến người khác hầu thay đổi ý kiến mình.
          Không cảm thọ cũng giống như hai tờ giấy khi chồng lên nhau không có keo nên gở ra rất dễ dàng. Còn cảm thọ giống như hai tờ giấy chồng lên nhau có phết keo, rất khó khăn khi gở, tùy theo phết nhiều hay ít keo. Ðể tránh cảm thọ, phải thực tập chánh niệm, theo dõi hơi thở, câu niệm phật, trì chú, công án  ... tùy theo căn cơ hạp với phương pháp nào mà áp dụng.
Kinh Kim Cang có câu "Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm", không "TRỤ" hay "LY" cũng như vậy. Ðó là chận giặc từ bên ngoài, trước ngỏ. Người đời thường có câu rất hay nhưng thực tế như:
"Thây/mặc kệ nó đi", "Ðể ý làm gì cho mệt tâm", "Cho nó qua đi", "Ồ, đó đâu phải chuyện của mình"
Tuy bình dân, đơn giản mà rất hay, có lý lẽ lắm chứ vì thế nên các thiền sư thường dùng được ghi lại trong nhiều sách về tu thiền.
          Ngược lại, nếu chính hành giả cảm thấy, hay ai đó nói với hành giả rằng:
"Thật là chướng tai, gai mắt", "Thật là bực mình", "Tức quá đi thôi"
Khi ấy, hành giả phải hiểu là dòng sông cảm thọ đang nổi sóng ầm ì đi ngang qua cõi a tu la để nhà trống cho giặc cướp xông vào. Phải biết tỉnh thức ngay để còn nhận diện được chính mình mà dừng lại tức thì rồi dùng những phép quán như huyễn tam ma đề hay quán thọ thì khổ như đã nêu trên mà quán triệt nó hoàn toàn.
          Ðể kết thúc bài này, câu chuyện về đức Thế Tôn cảm thọ về thân ra sao, được kể lại trong bộ kinh Cõi Thiên Tương Ưng tập I, như sau:
 
Chương I
TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN
PHẨM IV. PHẨM QUẦN TIÊN
VIII.         MIẾNG ÐÁ VỤN
(Tạp, Ðại 2,355a) (Biệt Tạp, Ðại 2,473c) - (S.i,27) (trang 64)
1)      Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại vườn Nai(Maddakucchi).
2)      Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu không phiền não.
3)      Rồi Thế Tôn cho trãi áo Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh niệm tỉnh giác.
4)      Rồi bảy trăm quần tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
5)      Ðứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
- Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu không phiền não.
6)      Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
7)      Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn
-Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
8)      Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-Sa-môn Gotama thật là Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
9)      Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
10)  Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
- Sa-môn Gotama thật là bậc Khéo điều phục. Và với tư cách bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau ... không có phiền não.
11)   Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
-Hãy xem tâm của Ngài khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.
          Các vị Bà-la-môn,
Tinh thông năm Vệ-đà,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia,
Bị khát ái chi phối,
Bị giới cấm trói buộc,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia.
Ở đời không nhiếp phục,
Kiêu mạn cùng các dục,
Tâm không được an tịnh,
Không tu tập thiền định.
Ở trong rừng cô độc,
Nhưng tâm tư phóng dật,
Vị ấy khó vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
Nhiếp phục được kiêu mạn,
Khéo tu tập Thiền định,
Tâm tư khéo an tịnh,
Giải thoát được viên mãn,
Ở trong rừng cô độc,
Tâm tư không phóng dật,
Vị ấy khéo vượt khỏi, 
Sự chinh phục tử thần.
 
Chương IV
TƯƠNG ƯNG ÁC MA
PHẨM II. PHẨM THỨ HAI
III.               PHIẾN ÐÁ (S.i, 110) (Trang 245)
1)      Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Maddakucchi, vườn Nai (Migadaya).
2)      Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị phiến đá gây thương tích. Thế Tôn cảm xúc khốc liệt, toàn thân đau đớn, nhói đau, đau nhức mãnh liệt, không thích thú, không vừa ý. Và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu không để tâm tư buồn nản.
3)      Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ này với Thế Tôn:
Sao Ngài uể oải nằm,
Hãy tìm thơ, tìm vận,
Phải chăng việc sai biệt,
Không chờ đợi Ngài làm,
Phải một mình cô độc,
Trên ghế giường nằm ngồi,
Với gương mặt ngái ngủ,
Sao Ngài ngủ như vậy?
(Thế Tôn):
Ta không uể oải nằm,
Không tìm thơ, tìm vận,
Mục đích Ta đã đạt,
Ðâu có sầu nuộn gì!
Ta nằm ngồi một mình,
Trên ghế giường vắng lặng,
Yên tĩnh Ta nằm nghỉ,
Tâm từ thương chúng sanh.
Những kẻ ngực bị đâm,
Hổn hển tim dồn dập,
Vẫn tìm được giấc ngủ,
Dầu bị thương tích nặng.
Sao Ta lại không ngủ,
Khi không bị thương tích,
Khi thức không âu lo,
Khi ngủ chẳng sợ hãi,
Ngày đêm không khởi lên,
Phiền não bận lòng Ta?
Ta không thấy tai hại,
Một chỗ nào trên đời,
Do vậy ta nằm nghỉ,
Tâm từ thương chúng sanh.
          4)      Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta", buồn khổ, thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.
          (Adelaide - Muà An Cư 2002)
--o0o--