| 
           
      
  
           
                
            
              
              
                - Thư Viện Chùa Dược Sư
 
                - PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
                  
               
              
              
                
                   
                  - 
                  
                  Sống Trong Từng Sát Na
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Trường Ðinh
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  ---o0o---
 
                  
                
                
                   
                  -  
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  Mục Lục
 
                  
                
                - 
                 
 
                - 
                
                          1. quán thân
 
                - 
                
                          - quán về hơi thở
 
                - 
                - quán 
                về bốn oai nghi
 
                - 
                - quán 
                về thân hành
 
                - 
                - quán 
                về thân bất tịnh
 
                - 
                - quán 
                về thân tứ đại
 
                - 
                - quán 
                về cữu tưởng
 
                - 
                
                          2. quán thọ
 
                - 
                
                          - cảm thọ khoái lạc
 
                - 
                - cảm 
                thọ đau khổ
 
                - 
                - cảm 
                thọ trung tính
 
                - 
                
                          3. quán tâm 
 
                - 
                - tâm ý 
                tham dục
 
                - 
                - tâm ý 
                sân hận
 
                - 
                - tâm ý 
                si mê
 
                - 
                - tâm ý 
                thu nhiếp
 
                - 
                - tâm ý 
                tán loạn
 
                - 
                - tâm ý 
                trở thành rộng lớn
 
                - 
                - tâm ý 
                trở thành hạn hẹp
 
                - 
                - tâm ý 
                đạt đến trạng thái cao nhất
 
                - 
                - tâm ý 
                có định
 
                - 
                - tâm ý 
                giải thoát
 
                - 
                
                          4. quán pháp
 
                - 
                
                          - quán về ngũ triền cái
 
                - 
                - quán 
                về ngũ uẩn
 
                - 
                - quán 
                về sáu nội ngoại xứ
 
                - 
                - quán 
                về thất giác chi
 
                - 
                - quán 
                về tứ diệu đế
 
                - 
                
                          5. quả vị
 
                - 
                
                          6. kinh tứ niệm xứ
 
                - 
                Sống 
                Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống 
                và ý thức về sự sống trong từng phút giây. Ðây là phương thức tu 
                tập dựa trên tinh thần kinh bốn lãnh vực quán niệm. 
 
                - 
                
                          Kinh bốn lãnh vực quán niệm (satipatthana sutta), còn 
                gọi là kinh tứ niệm xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật 
                lại lời thuyết giảng của Ðức Phật lúc Ðức Phật đang cư trú tại 
                thành phố Kammasadamma, thủ phủ của xứ Kuru. 
 
                - 
                
                          Con đường tu tập bốn lãnh vực quán niệm là con đường 
                độc nhất một lối đi để đạt tới đích điểm, là con đường tu tập 
                tỉnh thức mà bản thân mình tự nỗ lực hành trì. Ðó là con đường 
                thiền quán mà Ðức Phật đã giác ngộ, là con đường đưa đến mục 
                tiêu giải thoát tâm linh, đạt tới niết bàn thanh tịnh ngay trong 
                giờ phút hiện tại.
 
                - 
                
                          Bốn lãnh vực quán niệm là phương pháp tu trì dùng trực 
                giác để ghi nhận và quán  sát về các sự kiện đang xảy ra liên 
                quan đến thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng của tâm thức. 
                Sự ghi nhận cần phải thật khách quan, nghĩa là ý thức về sự việc 
                không dính mắc đến đề mục "ta" trong quá trình quán niệm. 
 
                - 
                Phương 
                pháp tu tập tứ niệm xứ bao gồm 2 tiến trình là niệm và quán. 
                Niệm là chú tâm ghi nhận. Ghi nhận để thấy rõ quá trình sinh và 
                diệt của sự việc, để không bám víu vào năm uẩn. Quán là quán sát 
                khách quan. Quán sát để trực nghiệm về tánh vô thường và bản 
                chất vô ngã của mọi sự kiện. Như vậy, quán niệm là chú tâm ghi 
                nhận và quán sát khách quan về các sự việc đang xảy ra liên quan 
                đến thân thọ tâm pháp trong giờ phút hiện tại, còn được hiểu là 
                "niệm xứ" hay "niệm trú", nghĩa là an trú tâm trong ý thức giác 
                tỉnh.
 
                - 
                Lãnh 
                vực đầu tiên là quán thân nơi thân. Quán niệm về hơi thở, các tư 
                thế của thân thể, các cử động của thân thể, các bộ phận trong 
                thân thể, bốn yếu tố cấu thành thân thể, chín giai đoạn tan rã 
                của một tử thi.
 
                - 
                 Lãnh 
                vực thứ nhì là quán thọ nơi thọ. Quán niệm về các cảm giác khoái 
                lạc, cảm giác đau khổ, cảm giác trung tính không khoái lạc cũng 
                không đau khổ.
 
                - 
                
                          Lãnh vực thứ ba là quán tâm nơi tâm. Quán niệm về các 
                ý niệm tham dục, sân hận, si mê, tâm ý thu nhiếp, tán loạn, tâm 
                ý trở thành rộng lớn, hạn hẹp, tâm ý đạt đến trạng thái cao 
                nhất, tâm ý có định, tâm ý giải thoát.
 
                - 
                 Lãnh 
                vực thứ tư là quán pháp nơi pháp. Quán niệm về năm hiện tượng 
                ngăn che của sự giác ngộ, năm uẩn, sáu giác quan, sáu đối tượng 
                của giác quan, bảy yếu tố của sự giác ngộ, bốn sự thật cao quý.
 
                - 
                
                          Tại sao gọi là quán thân nơi thân, quán thọ nơi thọ, 
                quán tâm nơi tâm, quán pháp nơi pháp? Có nghĩa là ghi nhận và ý 
                thức về thân thể ở nơi thân thể của chính mình, về cảm thọ ở nơi 
                cảm thọ của chính mình, về tâm thức ở nơi tâm thức của chính 
                mình, về đối tượng tâm thức ở nơi đối tượng tâm thức của chính 
                mình. Ta chú tâm quán sát và ghi nhận, thân thể chỉ là thân thể, 
                cảm thọ chỉ là cảm thọ, ý niệm chỉ là ý niệm, các pháp chỉ là 
                các pháp. Không dựa vào nghĩ suy luận lý của tâm thức để phân 
                tích về cảm thọ, cũng không dùng cảm thọ để phân tích về thân 
                thể hay tâm thức hay đối tượng của tâm thức, cũng không dính mắc 
                vào đề mục "ta" "thuộc về ta" trong quá trình quán niệm. 
                
 
                - 
                
                          Yếu tố cần yếu trong quá trình tu tập là sự tinh tấn. 
                Bản thân nỗ lực tinh chuyên hành trì trong mọi phút giây. Thực 
                tập sống tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, bất cứ nơi 
                đâu, bất cứ lúc nào. Tu tập bốn lãnh vực quán niệm mà thiếu sự 
                tinh tấn thì không thể nào gặt hái được thành quả của sự tỉnh 
                thức.
 
                - 
                
                          1. Quán thân
 
                - 
                
                          Lãnh vực đầu tiên là niệm thân. Phương pháp căn bản 
                làm nền tảng cho quá trình tu tập quán thân là pháp quán niệm về 
                hơi thở.  
 
                - 
                Trước 
                hết, chọn một chỗ tương đối yên tịnh để hành thiền. Có thể vào 
                một khu rừng, tìm đến một gốc cây, hoặc một nơi im vắng nào đó, 
                ở phía sau vườn nhà, một căn phòng riêng, hay một thiền đường.  
 
                - 
                Khi tọa 
                thiền, ngồi theo tư thế kiết già. Ngồi trên gối dầy, hai chân 
                xếp chéo, bàn chân trái để lên đùi chân phải, bàn chân phải để 
                lên đùi chân trái. Hai bàn tay lật ngữa xếp lên nhau và đặt nhẹ 
                trên hai bàn chân. Bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, đầu hai 
                ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Mắt nhắm. Miệng ngậm. Thở vào và 
                thở ra bằng mũi. Mặt quay vào tường. Tập trung tâm ý vào một 
                điểm nhỏ nơi đầu mũi. Giữ lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng. 
                Thân tâm buông thả trong một tư thế thoải mái và vững chải.  
 
                - 
                Nếu 
                cách ngồi kiết già quá khó khăn trong bước đầu tu tập, có thể 
                ngồi theo tư thế bán già, một chân nầy xếp chéo lên đùi chân 
                kia:
 
                - 
                
                          - chân phải để lên đùi chân trái (tư thế hàng ma)
 
                - 
                - chân 
                trái để lên đùi chân phải (tư thế kiết tường)
 
                - 
                
                          Nếu không thể ngồi bán già được, có thể ngồi theo kiểu 
                Miến Ðiện. Hai chân xếp lại nhưng không cần chéo lên nhau, chân 
                phải để phía trước chân trái. 
 
                - 
                 Hoặc 
                có thể ngồi trên ghế theo kiểu Ai Cập. Hai chân chạm mặt đất. 
                Hai bàn tay úp xuống để nhẹ trên hai bắp đùi. Chủ yếu là giữ 
                lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng trong một tư thế thoải mái.
 
                - 
                
                          Cũng có thể thực tập bằng cách nằm dài trên giường hay 
                trên ghế dài. Nằm ngữa và thẳng lưng. Hai chân duỗi thẳng. Hai 
                tay lật úp xuống, xếp lên nhau và để nhẹ trên bụng. Phương pháp 
                nằm có thể được thực tập trên giường trước khi ngủ, hay khi mới 
                thức dậy, hoặc sau những giờ làm việc mệt mỏi khi thân xác và 
                tâm trí cần một sự nghỉ ngơi thư giãn. 
 
                - 
                
                          Khi xả thiền, trước hết dùng hai tay xoa nhẹ đều hai 
                mi mắt, xoa khắp trên mặt, hai bên vai phải trái. Sau đó xoa đều 
                trước ngực, chà xát phía sau hông nơi cuối cột xương sống. Rồi 
                từ từ tháo chân ra, xoa bóp từng chân cho bớt tê mỏi.
 
                - 
                
                          Theo tinh thần kinh tứ niệm xứ, pháp quán hơi thở cần 
                được thực tập trong tư thế kiết già. Nhưng trong giai đoạn đầu, 
                nếu chưa thể ngồi kiết già được, ta vẫn có thể thực tập theo tư 
                thế bán già hay Miến Ðiện. Ðiều quan trọng là ngồi trong một tư 
                thế vững chải và thoải mái. Chủ yếu là giữ lưng, vai, cổ và đầu 
                cho ngay thẳng.
 
                - 
                
                          Tư thế ngồi rất cần yếu cho việc tu tập thiền định. 
                Nên ngồi ít nhất mỗi ngày một lần hay nhiều hơn nữa. Mỗi lần 
                ngồi từ 15 phút đến một tiếng trở lên, thời điểm ngồi tốt nhất 
                là sáng sớm hay lúc chiều tối trước giờ ngủ nghỉ. Tu tập thiền 
                quán theo tinh thần kinh bốn lãnh vực quán niệm không phải chỉ 
                thực tập trong lúc ngồi không thôi mà cần phải tinh chuyên hành 
                trì trong mọi thời lúc. Pháp quán hơi thở có thể được thực tập 
                trong bất cứ tư thế nào của thân thể. Lúc đang đứng, đang ngồi, 
                đang nằm, hay đang đi, ngay cả trong khi đang làm việc hay ngủ 
                nghỉ cũng đều có thể áp dụng tu tập được.
 
                - 
                
                          Thiền, theo tinh thần kinh bốn lãnh vực quán niệm, là 
                thực tập sống tỉnh thức trong giờ phút hiện tại. Thiền là một 
                phương thức sống, một nghệ thuật sống, sống giác tỉnh trong từng 
                sát na của cuộc sống. Cố gắng không đánh mất chính mình trong 
                những nghĩ suy về tương lai, về dĩ vãng. Ðừng quá loạn náo trong 
                giờ phút hiện tại. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở nơi đâu, bất cứ 
                lúc nào, cố gắng nuôi giữ ý thức tỉnh giác trong từng hơi thở và 
                dùng phương tiện hơi thở để điều hòa thân tâm, làm lắng dịu mọi 
                sự điều hành trong thân thể. 
 
                - 
                Quán về 
                hơi thở
 
                - 
                
                          Ðối tượng thiền định căn bản trong pháp niệm thân là 
                hơi thở. Trong bốn lãnh vực quán niệm, các phương thức tu tập về 
                thiền quán đều được dựa trên nền tảng là pháp quán niệm hơi thở. 
                Quán hơi thở là chú tâm ghi nhận và quán sát về hơi thở.  Khi 
                thở vào, ta ý thức rõ ràng về hơi thở vào trong suốt quá trình 
                thở vào. Khi thở ra, ta ý thức rõ ràng về hơi thở ra trong suốt 
                quá trình thở ra.
 
                - 
                 Khi 
                quán niệm về hơi thở, ta tập trung tâm ý ở đầu chớp mũi, như thế 
                sẽ dễ dàng nhận biết được hơi thở vào ra và cũng dễ dàng thu 
                nhiếp tâm ý đi vào định. Con mắt tâm chỉ biết có hơi thở, không 
                nghĩ suy về bất cứ điều gì khác. Ở đây, chỉ có hơi thở là vấn đề 
                trọng yếu nhất mà ta phải để hết tâm trí vào. 
 
                - 
                
                          Khi thở, ta vẫn thở bình thường, thở một cách tự 
                nhiên. Tâm trí chỉ cần ghi nhận tỉnh biết từng mỗi một hơi thở 
                vào ra. Ta nhận biết rõ ràng ta đang ở đâu, ta đang làm gì. Thở 
                vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. 
                Ðiều quan trọng là tránh sự lập lại bằng từ ngữ trong tâm trí 
                "ta đang thở vào" "ta đang thở ra". Vấn đề quan trọng ở đây là 
                ghi nhận khách quan "ta đang thở vào" "ta đang thở ra", chứ 
                không phải đọc đi đọc lại mãi những từ ngữ đó trong tâm trí.
 
                - 
                 Khi 
                thở, đôi khi ta thở với hơi thở ngắn, đôi khi ta thở với hơi thở 
                dài. Ta chỉ cần ghi nhận một cách rõ ràng về chiều dài của mỗi 
                hơi thở. Ta ý thức sáng suốt về từng mỗi một hơi thở vào ra 
                trong từng mỗi sát na. 
 
                - 
                
                          Khi thở vào một hơi thở dài, ta biết ta đang thở vào 
                một hơi thở dài. Khi thở ra một hơi thở dài, ta biết ta đang thở 
                ra một hơi thở dài. Chỉ cần ý thức khách quan về điều đó một 
                cách đúng như thật. Tránh sự lập đi lập lại bằng từ ngữ "ta đang 
                thở vào một hơi thở dài" "ta đang thở ra một hơi thở dài".
                
 
                - 
                
                          Khi thở vào một hơi thở ngắn, ta biết ta đang thở vào 
                một hơi thở ngắn. Khi thở ra một hơi thở ngắn, ta biết ta đang 
                thở ra một hơi thở ngắn. Chỉ cần ý thức khách quan về điều đó 
                một cách đúng như thật. Tránh sự lập đi lập lại bằng từ ngữ "ta 
                đang thở vào một hơi thở ngắn" "ta đang thở ra một hơi thở 
                ngắn". 
 
                - 
                
                          Trong quá trình thực tập quán niệm về hơi thở dài 
                ngắn, ta chỉ cần ghi nhận một cách khách quan về chiều dài của 
                hơi thở trong suốt quá trình thở vào và trong suốt quá trình thở 
                ra. Khi hơi thở vào, ta biết là hơi thở vào. Khi hơi thở ra, ta 
                biết là hơi thở ra. Hơi thở vào không là hơi thở ra. Hơi thở ra 
                không là hơi thở vào. Khi hơi thở dài, ta biết là hơi thở dài. 
                Khi hơi thở ngắn, ta biết là hơi thở ngắn. 
 
                - 
                Hãy an 
                trú trong ý thức giác tỉnh. Tập trung tất cả tâm trí vào hơi thở 
                trong suốt quá trình thở vào và trong suốt quá trình thở ra. 
                Không dính mắc vào cái ta đang thở. Ngay lúc nầy và ở nơi đây, 
                chỉ có một điều quan trọng tối yếu là chú tâm tất cả vào hơi thở 
                và chỉ biết có hơi thở. Mỗi khi thở vào, mỗi khi thở ra, mỗi hơi 
                thở dài, mỗi hơi thở ngắn, ta đều có sự nhận biết rõ ràng về 
                điều đó. Thân tâm buông thả trong một tư thế thoải mái và vững 
                chải. Hãy nhìn thẳng vào giây phút thực tại. Ðừng tiếc nuối về 
                dĩ vãng. Ðừng nghĩ suy về tương lai. Ðừng mong cầu một điều gì. 
                Nếu như tâm ý vẫn còn cố bám víu vào những mong cầu trong giờ 
                phút quán niệm nầy, ngồi thiền để được an lạc, để đào luyện tính 
                khí, để duy trì sức khỏe... điều đó có nghĩa là tâm ý vẫn còn bị 
                trói buộc trong cái nhìn về tự ngã ta, về mục đích hành thiền 
                của ta trong giờ phút nầy. Như thế, sẽ gây nhiều chướng ngại cho 
                sự giải thoát và buông xả mọi vọng tưởng trong lúc thiền tập.
 
                - 
                
                          Khi thở vào, ta thở với hơi thở tự nhiên và bình 
                thường. Ta biết ta đang thở vào, ta ý thức về toàn hơi thở vào. 
                Ta biết ta đang ngồi và đang thở. Ta ý thức về toàn hơi thở vào 
                trong suốt quá trình thở vào, từ lúc hơi thở vào cho đến khi hơi 
                thở vào chấm dứt để bắt đầu cho một hơi thở ra. Hơi thở đang bắt 
                đầu đi vào thân thể, đang vào được nửa chừng, đang bắt đầu chấm 
                dứt, đã chấm dứt, ta đều nhận biết về điều đó một cách rõ ràng 
                đúng như thật.
 
                - 
                
                          Khi thở ra, ta thở với hơi thở tự nhiên và bình 
                thường. Ta biết ta đang thở ra, ta ý thức về toàn hơi thở ra. Ta 
                biết ta đang ngồi và đang thở. Ta ý thức về toàn hơi thở ra 
                trong suốt quá trình thở ra, từ lúc hơi thở ra cho đến khi hơi 
                thở ra chấm dứt để bắt đầu cho một hơi thở mới đi vào. Hơi thở 
                đang bắt đầu đi ra khỏi thân thể, đang ra được nửa chừng, đang 
                bắt đầu chấm dứt, đã chấm dứt, ta đều nhận biết về điều đó một 
                cách rõ ràng đúng như thật. 
 
                - 
                
                          Như người thợ tiện đang chú tâm làm việc. Trong từng 
                mỗi phút giây, người ấy đều nhận biết về sự việc mình đang làm 
                một cách giác tỉnh. Khi xoay một vòng dài trên món đồ đang tiện, 
                người ấy ý thức rằng đang xoay một vòng dài. Khi xoay một vòng 
                ngắn, người ấy ý thức rằng đang xoay một vòng ngắn. Cũng như khi 
                thở, ta ý thức về hơi thở bằng tất cả sự sáng suốt và tỉnh biết. 
                Khi thở vào, ta ý thức rõ ràng về toàn hơi thở vào trong suốt 
                quá trình thở vào, từ lúc bắt đầu thở vào cho đến lúc hơi thở 
                vào chấm dứt. Khi thở ra, ta ý thức rõ ràng về toàn hơi thở ra 
                trong suốt quá trình thở ra, từ lúc bắt đầu thở ra cho đến lúc 
                hơi thở ra chấm dứt. 
 
                - 
                
                          Kinh bốn lãnh vực quán niệm được áp dụng để tu tập bất 
                cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, đang đứng hay đang ngồi, đang nằm 
                hay đang đi, lúc nghỉ ngơi hay đang làm việc. Cũng như người thợ 
                tiện ý thức được công việc mình đang làm một cách giác tỉnh 
                trong từng mỗi sát na. 
 
                - 
                
                          Phương pháp thực tập về hơi thở khởi đầu là theo dõi 
                hơi thở vào ra để nuôi dưỡng ý thức chánh niệm. Ta ý thức về 
                chiều dài của hơi thở và toàn hơi thở. Khi hơi thở đã có sự lắng 
                dịu, ta ý thức về sự an tịnh nơi hơi thở và điều hòa thân tâm để 
                đi vào sự tịch tĩnh. Ta ý thức về hơi thở vào và sự lắng dịu nơi 
                hơi thở vào trong suốt quá trình thở vào. Ta ý thức về hơi thở 
                ra và sự lắng dịu nơi hơi thở ra trong suốt quá trình thở ra.
 
                - 
                
                          Khi hơi thở trở nên nhẹ nhàng, tưởng chừng như có như 
                không, mọi sự vận hành trong thân thể bắt đầu tĩnh lặng. Ngay 
                đây, ta phải dồn hết mọi nỗ lực để có thể ý thức được rõ ràng về 
                hơi thở. Hãy tập trung tất cả tâm ý vào một điểm nhỏ nơi đầu 
                mũi, như thế sẽ dễ dàng nhận biết được sự vào ra vi tế của hơi 
                thở. Có sự tập trung mãnh liệt vào một điểm duy nhất như thế sẽ 
                giúp ta an tịnh được hơi thở và đi vào sự định tâm tương đối dễ 
                dàng hơn.
 
                - 
                
                          Khi thở một hơi thở vào, ta ý thức về hơi thở đang đi 
                vào thân thể trong suốt quá trình thở vào. Ta ý thức hơi thở bắt 
                đầu vào (sự sinh khởi của hơi thở vào). Ta ý thức hơi thở vào 
                bắt đầu chấm dứt (sự hủy diệt của hơi thở vào). 
 
                - 
                 Khi 
                thở một hơi thở ra, ta ý thức về hơi thở đang đi ra khỏi thân 
                thể trong suốt quá trình thở ra. Ta ý thức hơi thở bắt đầu ra 
                (sự sinh khởi của hơi thở ra). Ta ý thức hơi thở ra bắt đầu chấm 
                dứt (sự hủy diệt của hơi thở ra). 
 
                - 
                
                          Ta quán niệm "có hơi thở đây" và hơi thở chỉ là hơi 
                thở. Không có ta đang thở. Tất cả chỉ là hơi thở và hơi thở ở 
                nơi hơi thở. Với sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát khởi 
                được ý thức về hơi thở, để quán chiếu về sự vô thường của hơi 
                thở.
 
                - 
                
                          Quán về bốn oai nghi
 
                - 
                
                          Khi ta muốn đi, tâm trí phát khởi ý định muốn đi. Ý 
                định muốn đi sinh khởi trước, kế đó sự đi mới bắt đầu. Trước 
                nhất, ta ghi nhận về sự sinh khởi của ý định muốn đi. Khi bắt 
                đầu đi, ta ý thức rõ ràng sự bắt đầu đi. Khi đang đi, ta ý thức 
                rõ ràng sự đang đi và từng cử động của chân. Ta có sự ghi nhận 
                bàn chân dở lên, bước tới, hạ xuống trên từng mỗi bước đi.
 
                - 
                
                          - chân phải dở lên, bước tới và hạ xuống
 
                - 
                - chân 
                trái dở lên, bước tới và hạ xuống 
 
                - 
                Ðừng 
                nghĩ suy về nơi ta sẽ đến. Hãy tập trung tâm trí vào sự đang đi 
                trong giây phút thực tại nầy. Ta ý thức và nhận biết từng sự xúc 
                chạm của bàn chân với mặt đất trên từng mỗi nhịp bước trong suốt 
                quá trình đi.
 
                - 
                
                          Khi ta muốn đứng, tâm trí phát khởi ý định muốn đứng. 
                Ý định muốn đứng sinh khởi trước, kế đó sự đứng mới bắt đầu. 
                Trước nhất, ta ghi nhận về sự sinh khởi của ý định muốn đứng. 
                Khi bắt đầu đứng lên, ta ý thức rõ ràng sự bắt đầu đứng lên. Khi 
                đang đứng, ta ý thức rõ ràng sự đang đứng. Ta nhận biết từng cử 
                động của chân tay, từng sự di động của thân thể lúc bắt đầu đứng 
                lên. Ta ý thức từng sự xúc chạm của bàn chân với mặt đất trong 
                khi đang đứng.
 
                - 
                
                          Khi ta muốn ngồi, tâm trí phát khởi ý định muốn ngồi. 
                Ý định muốn ngồi sinh khởi trước, kế đó sự ngồi mới bắt đầu. 
                Trước nhất, ta ghi nhận về sự sinh khởi của ý định muốn ngồi. 
                Khi bắt đầu ngồi xuống, ta ý thức rõ ràng sự bắt đầu ngồi xuống. 
                Khi đang ngồi, ta ý thức rõ ràng sự đang ngồi. Ta nhận biết từng 
                cử động của chân tay, từng sự di động của thân thể lúc bắt đầu 
                ngồi xuống. Ta ý thức từng sự xúc chạm của thân thể với mặt ghế 
                trong khi đang ngồi.
 
                - 
                Khi ta 
                muốn nằm, tâm trí phát khởi ý định muốn nằm. Ý định muốn nằm 
                sinh khởi trước, kế đó sự nằm mới bắt đầu. Trước nhất, ta ghi 
                nhận về sự sinh khởi của ý định muốn nằm. Khi bắt đầu nằm xuống, 
                ta ý thức rõ ràng sự bắt đầu nằm xuống. Khi đang nằm, ta ý thức 
                rõ ràng sự đang nằm. Ta nhận biết từng cử động của chân tay, 
                từng sự di động của thân thể lúc bắt đầu nằm xuống. Ta ý thức 
                từng sự xúc chạm của thân thể với mặt giường trong khi đang nằm.
 
                - 
                
                          Trong bất cứ tư thế nào của thân thể, ta cũng đều ý 
                thức về toàn thân thể và tư thế của thân thể. Khi đi, ta ý thức 
                về toàn thân thể và tư thế đang đi của thân thể. Khi đứng, ta ý 
                thức về toàn thân thể và tư thế đang đứng của thân thể. Khi 
                ngồi, ta ý thức về toàn thân thể và tư thế đang ngồi của thân 
                thể. Khi nằm, ta ý thức về toàn thân thể và tư thế đang nằm của 
                thân thể. 
 
                - 
                
                          Ta ghi nhận về ý định muốn đi, muốn đứng, muốn ngồi, 
                muốn nằm đã sinh khởi và tan biến trong sát na đó. Ta ý thức về 
                từng cử động bắt đầu và chấm dứt nơi thân thể khi bắt đầu đi, 
                bắt đầu đứng, bắt đầu ngồi, bắt đầu nằm. Ta ghi nhận về từng chi 
                tiết bắt đầu và chấm dứt của từng cử động nơi thân thể trong 
                suốt quá trình đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm.
 
                - 
                
                          Thí dụ, khi đang ngồi, ta muốn đứng dậy để đi. Trước 
                nhất, tâm thức phát khởi ý định muốn đứng. Ta ghi nhận sự sinh 
                khởi của ý định đó. Ta ghi nhận thân thể đang bắt đầu cử động để 
                đứng dậy. Ta ghi nhận từng cử động bắt đầu và chấm dứt của thân 
                thể. Ta ý thức về toàn thân thể và tư thế của thân thể khi bắt 
                đầu đứng dậy, bắt đầu cử động để đi. Ta ý thức từng sự xúc chạm 
                của bàn chân với mặt đất trong suốt quá trình đi. 
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có sự đi đây" "có sự 
                đứng đây" "có sự ngồi đây" "có sự nằm đây" và tất cả chỉ là sự 
                đi, sự đứng, sự ngồi, sự nằm. Không có ta đang cử động. Tất cả 
                chỉ là ý định muốn đi muốn đứng muốn ngồi muốn nằm và tất cả chỉ 
                là sự đi đứng ngồi nằm của thân thể. Với sự quán chiếu như thế 
                đủ để giúp ta phát khởi được ý thức về các tư thế của thân thể, 
                để quán chiếu về sự vô thường của các tư thế của thân thể.
                
 
                - 
                
                          Quán về thân hành
 
                - 
                
                          Cũng như ý thức về các tư thế của thân thể khi đi đứng 
                ngồi nằm, bất cứ thân thể đang cử động trong việc gì, ăn hay 
                uống, nhai hay nếm, cúi xuống hay đứng lên, đi tới hay đi lui, 
                nhìn trước hay nhìn sau, mặc áo cà sa hay mang bình bát, đi đại 
                tiện hay tiểu tiện, ngủ hay thức, nói hay im lặng... ta đều phải 
                ý thức được sự sinh khởi của từng ý định "muốn" của tâm thức, 
                từng cử động của thân thể, đang làm gì, đang ở đâu một cách rõ 
                ràng tỉnh biết. 
 
                - 
                
                          Khi nói hay im lặng, ta ý thức rõ ràng về điều đó. Khi 
                im lặng, ta ý thức là đang im lặng. Khi nói, ta ý thức về từng 
                lời nói. Khi lắng nghe, ta ý thức là đang lắng nghe. Ta ý thức 
                rõ ràng và sáng suốt trong mọi lúc mọi nơi, nhận biết mình đang 
                ở đâu, đang nói với ai, đang nói những gì, đang lắng nghe những 
                gì.
 
                - 
                
                          Khi ngủ hay thức, ta ý thức rõ ràng về điều đó. Khi 
                nằm ngủ, ta an trú tâm nơi hơi thở. Thở vào, ta biết ta đang thở 
                vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Tập trung tất cả tâm ý vào 
                hơi thở và chỉ biết có hơi thở. Ta ghi nhận sự xúc chạm của thân 
                thể với mặt giường khi đang nằm. Ta ý thức về toàn thân thể và 
                tư thế đang nằm của thân thể. Những khi thân thể thay đổi tư thế 
                nằm, hoặc chân tay cử động, ta không bỏ sót bất cứ một chi tiết 
                nào mà không có sự ghi nhận. Ta theo dõi hơi thở cho đến khi hơi 
                thở trở nên nhẹ nhàng, mọi sự điều hành trong thân thể trở nên 
                lắng dịu. Và rồi, giấc ngủ an bình tự nhiên đến, ta an giấc 
                trong sự thư thái của thiền định.  
 
                - 
                Những 
                khi chợt giật mình thức giấc nửa đêm, điều trước tiên mà ta cần 
                ý thức là biết mình đã thức giấc. Ta ý thức về tư thế đang nằm 
                của thân thể. Ta ghi nhận sự xúc chạm của thân thể với mặt 
                giường. Ta trở về với hơi thở và chỉ biết có hơi thở. Và cứ như 
                thế, cho đến khi giấc ngủ trở lại một cách tự nhiên, ta đi vào 
                giấc ngủ trong sự bình an của tâm thức. 
 
                - 
                
                          Khi thức dậy, ý thức đầu tiên là ghi nhận mình đã thức 
                và đang nằm trên giường. Ta ghi nhận về tư thế đang nằm của thân 
                thể. Ta ý thức rõ ràng về từng hơi thở. Ta ghi nhận về ý định 
                muốn thức dậy. Ta ghi nhận từng cử động của thân thể khi trở 
                mình, bắt đầu ngồi dậy, đứng lên, cử động chân tay, thân thể di 
                chuyển tới lui thu dọn chăn mền. Ta ý thức một ngày mới đang 
                sinh khởi và tất cả mọi sự việc ngày hôm nay đều mới lạ như 
                chiếc lá bình minh vừa đâm trổ đầu cành.
 
                - 
                
                          Cố gắng tinh chuyên hành trì nắm giữ hơi thở trong mọi 
                lúc. Với ảnh hưởng của ánh sáng chánh niệm, mọi cử động của thân 
                thể sẽ tự động giảm chậm xuống. Thư thả, nhẹ nhàng và vững chải. 
                Một kinh nghiệm đầu tiên vừa phát khởi trên bước đầu của sự tỉnh 
                thức. Ðó là định lực do kết quả hành thiền không ngoài yếu chỉ 
                "động tịnh thể an nhiên" trong chứng đạo ca của đại sư Huyền 
                Giác - "đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói im động tịnh thảy 
                đều an nhiên" (hành diệc thiền, tọa diệc thiền, ngữ mặc động 
                tịnh thể an nhiên).
 
                - 
                
                          Bất cứ đang làm việc gì, ở nơi đâu, trong hoàn cảnh 
                nào, một mình, hay đang tiếp xúc với người, ta cố gắng đừng để 
                đánh mất sự ghi nhận và quán sát về hơi thở, về tư thế của thân 
                thể, về các cử động của thân thể. Ý thức từng mỗi phút giây sống 
                trong giờ phút hiện tại. Khi đang làm một việc gì, ta tập trung 
                tất cả tâm ý vào công việc đó. Ta biết ta đang thở vào. Ta biết 
                ta đang thở ra. Ta ý thức về công việc đang làm. Ta ghi nhận về 
                tư thế của thân thể, về từng cử động của chân tay, từng sự di 
                động của thân thể, từng sự xúc chạm của tay chân với vật thể 
                trong khi đang làm công việc đó. 
 
                - 
                
                          Ta ghi nhận về sự sinh khởi của ý định muốn đi tới đi 
                lui, đứng lên cúi xuống, ăn uống, nhai nếm... Ta ý thức từng cử 
                động của thân thể trong sự bắt đầu của các cử động. Ta ý thức 
                từng cử động bắt đầu và chấm dứt của thân thể trong suốt quá 
                trình đi tới đi lui, đứng lên cúi xuống, nhai nếm, ăn uống, nói 
                hay im lặng... Ta ý thức từng cử động sinh khởi và chấm dứt nơi 
                thân thể trong từng mỗi phút giây vô thường trong suốt quá trình 
                cử động của thân thể.
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có sự đi tới đây" "có sự 
                đi lui đây" "có sự đứng lên đây" "có sự cúi xuống đây" "có sự ăn 
                đây" "có sự uống đây"... và tất cả chỉ là các cử động của thân 
                thể. Không có ta đang cử động. Tất cả chỉ là ý định và các cử 
                động của thân thể.  Với sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát 
                khởi được ý thức về các cử động của thân thể, để quán chiếu về 
                sự vô thường của các cử động nơi thân thể.
 
                - 
                
                          Quán về thân bất tịnh
 
                - 
                
                          Ta quán niệm về thân thể nầy, từ đỉnh đầu đến gót 
                chân, được bao bọc bởi một lớp da, bên trong chứa đầy các loại 
                bất tịnh. Ta quán niệm về các loại bất tịnh bên trong và bên 
                ngoài thân thể, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, 
                tủy, thận, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, 
                phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước 
                mủ, nước khớp xương, nước tiểu.
 
                - 
                
                          Thí dụ, một cái bao tải chứa đựng các loại ngũ cốc. 
                Khi mở bao ra, ta có thể thấy đủ các loại hạt chứa đựng trong 
                đó, nào là các loại gạo, đậu, lúa, mè... Ta quán chiếu thân nầy 
                cũng vậy, tất cả được bao bọc bởi một lớp da, bên trong chứa đầy 
                các loại bất tịnh và nhơ nhớp. 
 
                - 
                
                          Ta quán chiếu về các loại bất tịnh sinh khởi từ thân 
                thể, bị hủy diệt từ thân thể, bị thải bỏ ra ngoài thân thể như 
                mủ, đàm, mồ hôi, nước tiểu, phân... Ta an trú trong sự quán niệm 
                "có các chất bất tịnh trong thân thể đây" "có các chất bất tịnh 
                từ thân thể thải bỏ ra ngoài đây". Ta ý thức về các chất bất 
                tịnh và tất cả chỉ là các chất bất tịnh. Không có ta liên hệ đến 
                các chất bất tịnh nơi thân thể. Ta ý thức các chất bất tịnh chỉ 
                là các chất bất tịnh, không có người thọ lãnh hay thải bỏ. Với 
                sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát khởi được ý thức về các 
                chất bất tịnh trong thân thể, để quán chiếu về sự vô thường của 
                các chất bất tịnh nơi thân thể.  
 
                - 
                
                Quán về 
                thân tứ đại
 
                - 
                
                          Trong bất cứ tư thế nào của thân thể, thường xuyên 
                quán chiếu xác thân nầy do bởi bốn yếu tố chính cấu tạo thành là 
                đất, nước, lửa và gió. 
 
                - 
                
                          - yếu tố đất như da, xương, thịt, tim, gan...
 
                - 
                - yếu 
                tố nước như máu, mủ, đàm...
 
                - 
                - yếu 
                tố lửa như sức nóng trong người...
 
                - 
                - yếu 
                tố gió như hơi thở vô ra...
 
                - 
                
                          Thí dụ, một người đồ tể giết bò, ngồi giữa ngả tư và 
                cắt xẻ con bò ra thành nhiều mảnh nhỏ. Mỗi một phần để riêng ở 
                mỗi một góc đường. Nhìn lại, thân thể đây cũng vậy, do bởi bốn 
                yếu tố căn bản cấu thành gồm đất nước lửa và gió.
 
                - 
                
                          Do bởi hành trì tinh chuyên pháp quán tứ đại, ta có 
                thể trực nghiệm được bản chất không và yếu tố vô ngã của ngũ uẩn 
                tự thân. Tánh không ở đây có nghĩa là những gì hiện hữu ở xác 
                thân hoàn toàn không có tự tánh riêng biệt. Nếu như một mai thân 
                xác ta có mất đi, có tan rã, thì gió sẽ về với gió, lửa sẽ về 
                với lửa, nước sẽ về với nước, cát bụi sẽ trở về với cát bụi. 
                Không có sự mất. Không có sự được. Không có sự thêm. Không có sự 
                bớt. Tất cả chỉ là sự trở về và là sự trở về với đất nước lửa 
                gió. Do bởi quán chiếu như vậy, ta sẽ không còn quá đắm mê thân 
                xác và sẽ có cái nhìn đúng đắn hơn về bản chất thật của tất cả 
                mọi sự vật hiện hữu trong cuộc đời.
 
                - 
                
                          Ta quán niệm về các yếu tố của tứ đại bên trong và bên 
                ngoài thân thể, như hơi thở từ ngoài vào, hơi thở từ trong ra, 
                sức nóng trong thân thể, nhịp đập của con tim, mồ hôi, phân, 
                nước tiểu... Tất cả chỉ là đất nước lửa gió tạm bợ hòa hợp trong 
                một xác thân vô thường.
 
                - 
                
                          Ta quán niệm về các yếu tố của tứ đại sinh khởi từ 
                thân thể và bị thải bỏ ra ngoài thân thể, như hơi thở vô ra, 
                nước mắt, nước tiểu, mồ hôi... Tất cả chỉ là đất nước lửa gió 
                sinh sinh diệt diệt mãi trong một xác thân tạm bợ vô thường.
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có yếu tố đất đây" "có 
                yếu tố nước đây" "có yếu tố lửa đây" "có yếu tố gió đây". Tất cả 
                chỉ là các yếu tố cấu thành thân thể và chỉ là các yếu tố đất 
                nước lửa gió. Không có ta gắn liền với tứ đại nơi thân thể. Với 
                sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát khởi được ý thức về bốn 
                yếu tố cấu thành thân thể, để quán chiếu về sự vô thường của tứ 
                đại. 
 
                - 
                
                          Quán về cữu tưởng
 
                - 
                
                          9 giai đoạn tan rã của một tử thi:
 
                - 
                - xác 
                chết sình trương, thâm tím và thối rữa
 
                - 
                - bị 
                diều hâu và sói rừng gặm xé
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại xương, thịt và máu
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại xương và máu
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại bộ xương
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại đống xương rời rạc khắp đó đây
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại đống xương trắng màu vỏ ốc
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại đống xương khô
 
                - 
                - chỉ 
                còn lại đống xương đã hóa thành tro bụi 
 
                - 
                Ta 
                trình tự quán chiếu qua từng giai đoạn của cữu tưởng, từng mỗi 
                giai đoạn ta trở lại quán chiếu về xác thân của chính ta, da 
                thịt xương cốt thận gan tim phổi... bên trong cũng như bên 
                ngoài, tất cả và tất cả rồi cũng sẽ sình trương, cũng sẽ thối 
                rữa, cũng sẽ hoại tàn tro bụi.
 
                - 
                
                          Thân thể đây, đã được sinh ra từ máu huyết mẹ cha, mà 
                khi đã có sự sinh ra thì sẽ có sự mất đi. Rồi một ngày, thân xác 
                đây cũng sẽ hư hoại. Cuộc đời người, ai cũng phải một lần chết. 
                Khi sự chết đến, ta không thể nào trốn thoát. Cuối cùng, xác 
                thân đây cũng sẽ bị tiêu hoại. Không có bất cứ gì gọi là riêng 
                mãi của ta đối với mọi vật thể vô thường trong vũ trụ.
 
                - 
                
                          Thường xuyên quán niệm như vậy, ta sẽ có cái nhìn bình 
                tỉnh hơn đối với sự sống, bình thản hơn đối với sự chết. Một 
                ngày mai đây, những người thân của ta sẽ ra đi và chính bản thân 
                ta cũng sẽ ra đi. Tất cả sẽ là vậy. Có sinh ắt có diệt. Có được 
                ắt có mất. Sự sống không thể nào tránh né. Sự chết chẳng thể nào 
                đổi thay.
 
                - 
                
                          Ta quán niệm "có thân thể đây" và tất cả chỉ là thân 
                thể. Không có thân thể của ta. Tất cả chỉ là thân thể và là thân 
                thể ở nơi thân thể. Với sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát 
                khởi được ý thức về thân thể, để quán chiếu về sự vô thường của 
                thân thể.
 
                - 
                
                          Quán niệm về cữu tưởng tinh cần sẽ giúp ta bình tỉnh 
                hơn khi đối diện với sự chết. Bản thân không còn quá luyến tiếc 
                xác thân nầy và cảm thấy rất bình thản để ra đi. Tất cả có đến 
                và có đi như gió hoàng hôn đưa lá thu vàng về cùng cát bụi.
 
                - 
                
                          2. quán thọ
 
                - 
                
                          Lãnh vực thứ hai là niệm thọ, nghĩa là quán sát và ghi 
                nhận về các cảm giác đang xảy ra trong ta. Khi cảm thọ phát 
                khởi, ta cần phải bình tâm để tiếp xúc với cảm thọ. Ðiều nên 
                tránh trong lúc thực tập là không trốn chạy với chính mình, 
                không bất mãn với nội tâm. Cố gắng tinh chuyên hành trì để gặt 
                hái những hoa trái của thiền tập, để có thể soi thấu được bản 
                chất vô thường và tánh không của mọi cảm thọ.
 
                - 
                
                          Trong pháp niệm thọ, ta ghi nhận về các cảm giác mà ta 
                đang xúc cảm:
 
                - 
                
                          - khoái lạc về thể xác
 
                - 
                - khoái 
                lạc về tinh thần
 
                - 
                - đau 
                khổ về thể xác
 
                - 
                - đau 
                khổ về tinh thần
 
                - 
                - không 
                khoái lạc cũng không đau khổ về thể xác
 
                - 
                - không 
                khoái lạc cũng không đau khổ về tinh thần 
 
                - 
                Khi bản 
                thân trực nhận bất cứ một cảm giác gì, vui mừng khi được người 
                khác khen ngợi, xấu hổ bực tức khi bị người khác sỉ nhục... Ta 
                hãy trở về nắm lấy hơi thở và chú tâm quán sát cảm giác đó trong 
                sự tỉnh thức. Ta ý thức rằng ta đang có một cảm giác dễ chịu. Ta 
                ý thức rằng ta đang có một cảm giác khó chịu.  
 
                - 
                Trong 
                lúc ngồi thiền, khi mà hơi thở đã trở nên nhẹ nhàng, thân thể đã 
                bắt đầu an tịnh, tâm ý đã tương đối thu nhiếp, ta sẽ có một cảm 
                giác vui mừng hoan hỷ phát khởi trong tâm thức. Khi cảm giác hỷ 
                và lạc sinh khởi, ta hãy nhận biết về cảm giác đó một cách sáng 
                suốt và tỉnh giác. Khi hoan hỷ sinh khởi, nó đến như một cơn 
                bão, gây tạo cho ta những xúc cảm vui mừng thật sống động và 
                thật mạnh mẽ. Khi an lạc phát sinh, nó như một giòng nước trôi 
                êm ả, gây tạo cho ta những cảm giác nhẹ nhàng và thanh thản. Các 
                cảm giác hoan hỷ và an lạc sinh khởi là kết quả tự nhiên có được 
                khi hơi thở đã trở nên lắng dịu và tâm thức đã có sự an định 
                trong lúc nhập thiền.
 
                - 
                
                          Khi cảm thọ sinh khởi, bất cứ cảm thọ gì, vui buồn hay 
                trung tính, ta hãy trở về quán sát và chú tâm ghi nhận về cảm 
                thọ đó một cách khách quan. Ðừng phân tích đi sâu vào sự kiện. 
                Hãy thực tập thản nhiên mà ngắm nhìn mọi xúc cảm. 
 
                - 
                
                          Cố gắng không để bị quay cuồng trong chán chường hay 
                khoái lạc xác thân. Ta chỉ cần ghi nhận ta đang có một cảm giác 
                sinh khởi. Ta ý thức rằng ta đang có sự vui mừng, đang hồi hộp, 
                đang sợ hãi, đang buồn phiền, đang giận dữ, hay đang si mê... Ta 
                chỉ cần ghi nhận khách quan thế thôi. Hãy nắm giữ lấy hơi thở. 
                Tập trung tất cả tâm trí vào hơi thở. Hơi thở vào, ta biết là 
                hơi thở vào. Hơi thở ra, ta biết là hơi thở ra. Ta biết rằng ta 
                đang thở và đang buồn phiền. Ta biết rằng ta đang thở và đang sợ 
                hãi. Ta biết rằng ta đang thở và đang âu lo. Ta biết rằng ta 
                đang thở và đang vui mừng. Ta biết rằng ta đang thở và đang có 
                một cảm giác trung tính không đau khổ cũng không khoái lạc.
 
                - 
                
                          Bởi nắm giữ lấy hơi thở nên ý thức được duy trì sáng 
                suốt, ta sống trọn vẹn trong sát na đó. Khi cảm thọ sinh khởi, 
                cứ thản nhiên ghi nhận và quán sát. Ðừng trốn chạy hèn nhát. 
                Ðừng phản kháng bất mãn với nội tâm. Ðừng phấn khởi với nỗi vui 
                mừng. Ðừng sầu ưu với cơn buồn thảm. Hãy nhìn thẳng nó, nhận 
                biết nó, thụ động tiếp xúc với mọi cảm thọ trong ta. 
                
 
                - 
                
                          Khi vui sướng, ta biết ta đang vui sướng. Khi sầu khổ, 
                ta biết ta đang sầu khổ. Khi chán chường, ta biết ta đang chán 
                chường. Khi sợ hãi, ta biết ta đang sợ hãi. Ta ý thức và ghi 
                nhận về mọi cảm giác một cách khách quan. Thực tập thản nhiên 
                với cảm xúc để thấy rằng cảm giác đến và đi, tăng trưởng và giảm 
                suy, chuyển hóa và tan biến trong từng phút giây vô thường. Ta 
                thở vào và thở ra trong ý thức đó và làm an tịnh mọi cảm thọ 
                đang phát khởi trong ta.
 
                - 
                
                          Có sự ghi nhận về cảm thọ một cách tỉnh thức, ta sẽ 
                giảm bớt được phần nào sự giao động bất an. Tâm thức sẽ trở nên 
                trầm lắng, thân tâm sẽ bình thản và trở nên thư thái. Sự phục 
                hồi nhanh chóng lại chính con người mình, với ít nhiều kết quả 
                trên sự bình tâm thản nhiên với mọi cảm xúc, là tùy kinh nghiệm 
                cá biệt trong quá trình tu tập tinh tấn pháp quán cảm thọ.
                
 
                - 
                
                          Khi có một cảm thọ đau khổ về thể xác, ta ý thức ghi 
                nhận ta đang có sự đau khổ về thể xác: Ta biết ta đang nhức 
                răng, đang đau bụng, đang nhức đầu, đang tê chân... Ta duy trì 
                hơi thở trong ý thức, ta biết ta đang thở vào, ta biết ta đang 
                thở ra. Ta chỉ cần ghi nhận khách quan về điều đó và tập trung 
                tâm ý vào vùng cảm xúc đó. Hãy nhìn ngắm nó, đón chào nó, tiếp 
                xúc nó, để nhận thấy mọi cảm thọ đang sinh khởi, tăng trưởng, 
                giảm suy và tan biến vô thường.
 
                - 
                
                          Trong lúc ngồi thiền, nếu có những cảm giác diễn biến 
                trên thân thể, ngứa ngáy như bị côn trùng bò trên mặt, cảm giác 
                tê chân, cơ thể nóng bức... Hãy tập trung tâm ý nơi vùng cảm xúc 
                đó, nhận biết nó một cách khách quan. Ta ý thức rằng ta đang có 
                một cảm giác khó chịu trên thân thể. Cố gắng duy trì hơi thở ý 
                thức. Thản nhiên nhìn ngắm và tiếp xúc êm dịu với mọi cảm giác. 
                Cố gắng giữ sự giác tỉnh để nhận biết về cảm thọ trong từng hơi 
                thở. Thở vào, ta biết đang thở vào. Thở ra, ta biết đang thở ra. 
                Ta ghi nhận về những cảm giác đang xảy ra trong ta. Nhìn biết để 
                thấy sự sinh khởi, tăng trưởng, suy giảm và tan biến của nó. Khi 
                cảm giác đang suy giảm, ta ý thức cảm giác đang suy giảm. Khi 
                cảm giác đã tan biến, ta ý thức cảm giác đã tan biến. Khi cảm 
                giác đã tan biến, ta trở về tập trung tâm ý nơi hơi thở. Tất cả 
                mọi cảm giác có đến và có đi, sinh khởi và hủy diệt trong từng 
                mỗi phút giây biến dịch vô thường.
 
                - 
                
                          Khi có một cảm giác đau khổ về tinh thần, ta ý thức 
                ghi nhận ta đang có sự đau khổ về tinh thần: Ta biết ta đang 
                chán chường, đang sợ hãi, đang tuyệt vọng... Ta duy trì hơi thở 
                trong ý thức, ta biết ta đang thở vào, ta biết ta đang thở ra. 
                Ta chỉ cần ghi nhận khách quan về điều đó. Hãy nhìn ngắm nó, đón 
                chào nó, tiếp xúc nó, để nhận thấy mọi cảm thọ đang phát khởi, 
                tăng trưởng, chuyển hóa và biến diệt vô thường.
 
                - 
                
                          Khi có một cảm giác trung tính không khoái lạc cũng 
                không đau khổ, ta cũng liền nhận biết được điều đó. Ta chỉ cần 
                khách quan ghi nhận về sự phát khởi của cảm giác trung tính đó. 
                Ta chú tâm quán sát sự tăng trưởng, giảm suy và hủy diệt của nó. 
                Trực nghiệm bản chất vô thường biến diệt của mọi cảm giác trung 
                tính.
 
                - 
                
                          Tóm lại, với bất cứ cảm giác nào đang phát khởi trong 
                ta, dễ chịu, khó chịu, hay trung tính, ta cũng đều ý thức về sự 
                bắt đầu khởi dậy của nó, sự tăng trưởng, chuyển hóa, suy giảm và 
                tan biến của nó. Khách quan ghi nhận "có cảm thọ đây" và tất cả 
                chỉ là cảm thọ. Không có ta cảm thọ. Với sự quán niệm như vậy, 
                đủ để giúp cho ta ý thức được sự có mặt của cảm thọ, để quán 
                chiếu về sự vô thường của cảm thọ.
 
                - 
                
                          3. Quán tâm
 
                - 
                
                          Lãnh vực thứ ba là pháp quán tâm, được áp dụng phối 
                hợp với pháp quán hơi thở để giúp ta giữ vững định lực. Phần 
                niệm tâm rất quan trọng bởi sự thụ động đối trị của tâm thức gắn 
                liền với những tưởng vọng của tâm thức.
 
                - 
                
                          Trong pháp quán tâm, bất cứ ý tưởng nào khởi dậy trong 
                tâm thức, ta cần tỉnh táo nhận biết về sự phát khởi của ý tưởng 
                đó. Sự ghi nhận tương đối dễ dàng nếu hơi thở được duy trì có ý 
                thức. Ta giữ sự tỉnh biết bằng cách theo dõi hơi thở. Hơi thở 
                vào, ta biết hơi thở vào. Hơi thở ra, ta biết hơi thở ra. Sự tập 
                trung tâm ý vào hơi thở là phương tiện mầu nhiệm để giúp ta nhận 
                biết về sự phát khởi của các ý niệm trong tâm thức.  
 
                - 
                Khi có 
                một ý tưởng phát sinh, ta ghi nhận có một ý tưởng phát sinh, rồi 
                nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Không bực bội với nó. Không hoan 
                hỷ với nó. Tâm trí không theo đuổi hay phân tích bất cứ ý niệm 
                nào. Ta chỉ khách quan nhận biết vậy, thế thôi. Ta biết nó vừa 
                mới sinh khởi. Ta biết nó đang tăng trưởng. Ta biết nó đang giảm 
                suy. Ta biết nó đã hủy diệt. Con mắt tâm tập trung vào hơi thở 
                và ghi nhận những diễn biến sinh diệt của các ý niệm nơi tâm 
                thức. Cố gắng nuôi giữ sự tỉnh thức trong mọi phút giây, bất cứ 
                nơi đâu, bất cứ lúc nào. 
 
                - 
                
                          Giai đoạn đầu khi mới học thiền, dĩ nhiên tâm trí rất 
                khó có thể tập trung an định được. Có nhiều khi ý nghĩ sinh khởi 
                liên tục, dẫn kéo ta đi xa vào những tưởng vọng mông lung. Nhưng 
                nếu cố gắng hành thiền thường xuyên, sự giác tỉnh sẽ được nâng 
                cao. Khi một ý tưởng bắt đầu sinh khởi, ta liền nhận biết ngay 
                về sự sinh khởi của ý tưởng đó. Ta chú tâm nhận biết sự tan biến 
                của nó. Sự tập trung của tâm ý cũng theo đó phát triển và định 
                lực cũng nhờ đó mà được nâng cao.
 
                - 
                 Khi có 
                một ý tưởng vừa phát khởi, ta nhận định về điều đó và quán niệm 
                rằng "có một ý nghĩ đang phát sinh". Với sự quán niệm như vậy đủ 
                để giúp ta ý thức được sự có mặt của tâm thức. Ngay khi ta vừa 
                nhận biết có một ý nghĩ đang phát sinh thì ngay khi ấy ý nghĩ đó 
                cũng đã bị suy yếu và tan biến đi. Ta ý thức về tất cả những 
                biến động sinh diệt vô thường của các ý niệm và làm cho tâm ý ta 
                trở thành hoan lạc tươi mát. 
 
                - 
                
                          Ðây là yếu chỉ hành trì của phương pháp hàng phục tâm 
                mà Ðức Phật đã thuyết giảng trong kinh kim cang - "một niệm dấy 
                lên là chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh, đó là hàng 
                phục tâm" (thiền sư Thích Thanh Từ dịch và chú giải). 
                
 
                - 
                
                          Các lãnh vực của tâm ý:
 
                - 
                
                          - Tâm ý tham dục 
 
                - 
                
                          Những khi trong tâm khởi dậy bất cứ một ý nghĩ tham 
                dục nào, ta cần nhận biết về sự phát khởi của những dục niệm đó. 
                Nếu như tinh chuyên nắm giữ hơi thở trong mọi lúc, thì khi bất 
                cứ ý nghĩ tham dục nào phát khởi, ta liền nhận biết được ngay. 
                Ta ghi nhận sự sinh khởi và hủy diệt của những dục tưởng để trực 
                nghiệm bản chất vô thường của nó. Khi trong tâm không còn ý nghĩ 
                tham dục nữa, ta cũng liền giác tỉnh nhận biết đúng như vậy.
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có một ý nghĩ tham dục 
                đang phát sinh trong tâm thức". Với sự quán niệm như vậy đủ để 
                giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của các ý niệm tham 
                dục. 
 
                - 
                
                          - Tâm ý sân hận 
 
                - 
                
                          Cũng như phápï quán chiếu về tâm ý tham dục, mỗi khi 
                trong tâm có những ý nghĩ sân hận, ta ý thức về sự phát khởi của 
                những ý nghĩ sân hận đó, khách quan ghi nhận "có một ý niệm sân 
                hận đang phát khởi". Với sự ghi nhận như thế đủ để giúp ta ý 
                thức được sự có mặt của sân hận trong tâm thức. 
 
                - 
                Khi có 
                sự chú tâm ghi nhận về ý nghĩ giận dữ thì ngay đó sân niệm suy 
                yếu và tan biến trong ánh sáng chánh niệm. Hãy cố gắng duy trì 
                hơi thở trong ý thức. Biết rõ ta đang thở vào. Biết rõ ta đang 
                thở ra. Biết ta đang có một ý nghĩ giận dữ. Hãy đối trị thụ động 
                với tâm hoàn toàn giác tỉnh. Hãy xem những sân niệm như gió 
                thoảng như mây bay. Cố gắng đừng để bị não phiền vì những sân 
                niệm sinh diệt. Như trong chứng đạo ca - "ba món độc tham sân si 
                như bọt nước hiện ra rồi mất đi" (tam độc thủy bào hư xuất một). 
                Hãy nhận biết tỉnh giác từ khi những sân niệm phát sinh cho đến 
                khi hoàn toàn bị hủy diệt để trực nghiệm bản chất vô thường của 
                sân niệm.
 
                - 
                
                          Ngay khi ý niệm sân hận đã tan biến, tâm thức không 
                còn sự sân hận nữa, ta cũng liền nhận biết điều đó. Ta biết ta 
                đang thở và ý thức rằng trong tâm ta không còn sự sân hận. Ta 
                duy trì hơi thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào 
                và nhận biết tâm thức ta không còn sự giận dữ. Thở ra, ta biết 
                ta đang thở ra và nhận biết tâm thức ta không còn sự sân hận.
 
                - 
                
                          - Tâm ý si mê 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có những tưởng vọng u mê, ta liền nhận 
                biết được sự phát khởi đó. Khi nhận diện được trong tâm đang có 
                những ý tưởng si mê, thì sự si mê đó đã đang được chuyển hóa, để 
                hướng về cái nhìn trong sáng hơn. Như vậy thì sự nhận biết đó đã 
                là một sự giác tỉnh rồi. Và, khi trong tâm không còn có sự u mê, 
                ta cũng nhận biết rõ ràng và sáng suốt rằng mình không có những 
                ý tưởng u mê trong lúc nầy. 
 
                - 
                
                          Ðiều quan trọng là sự nhận biết về ý thức đó chỉ là 
                một sự giác tỉnh trong nhất thời. Tế nhị không để tâm thức bị 
                trói buộc trong nội dung si mê đó. Nếu không khéo léo lại bị mờ 
                mịt trong chán chường tự trách, chỉ bởi sự lầm lẫn với những u 
                mê nhất thời.
 
                - 
                
                          - Tâm ý thu nhiếp 
 
                - 
                
                          Khi tâm ý có sự thu nhiếp, hơi thở trở nên êm dịu, 
                thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng và tươi mát. Ta thở vào và thở ra 
                trong sự giác tỉnh, ghi nhận từng hơi thở vào ra nhẹ nhàng trong 
                tỉnh biết. Trong nhất thời đó, vọng tưởng không còn quá loạn 
                náo, tâm trí đã có sự tập trung về hơi thở tương đối vững chải. 
                Ta ý thức và ghi nhận về cảm giác dịu lắng nơi thân tâm. Ta biết 
                ta đang thở vào, ta biết ta đang thở ra trong ý thức sáng suốt 
                về cảm giác đó. 
 
                - 
                
                          Giá trị cuộc sống đây, nghệ thuật thiền học nầy, thật 
                bình dị trên hơi thở tĩnh lặng và ý thức. Hãy an trú trong sự 
                quán niệm "tâm thức đang có sự thu nhiếp". Khi tâm thức không 
                còn có sự thu nhiếp, ta cũng nhận biết rõ ràng về điều đó. Với 
                sự ghi nhận như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có mặt của tâm 
                thức. 
 
                - 
                
                          - Tâm ý tán loạn 
 
                - 
                
                          Trong bước đầu thực tập quán niệm, rất khó giữ tâm ý 
                tập trung trên hơi thở cho được liên tục, rất khó có thể duy trì 
                ý thức trên từng hơi thở trong mỗi phút giây. Khi nhìn vào nội 
                thức, tâm trí nghĩ suy đủ mọi vấn đề. Những nghĩ suy tuôn bờ ào 
                ạt như sóng vỗ. Ðấy là lúc tâm trí tán loạn, tư duy mông lung, 
                chập chờn biết bao ý tưởng. Từ những ý nghĩ nhỏ nhặt nhất, cho 
                đến những tiếc nuối về quá khứ, những lo lắng về tương lai, 
                những mộng ước về ngày mai.
 
                - 
                
                          Ðấy là giai đoạn tâm trí náo loạn khó thể dừng nghỉ 
                được. Hãy cố gắng ý thức phút giây tâm trí đang cuồng loạn. Hãy 
                cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức.    Thở vào, ta biết ta 
                đang thở vào, ta biết tâm trí ta đang tán loạn. Thở ra, ta biết 
                ta đang thở ra, ta biết tâm trí ta đang cuồng quay. Hãy quán 
                niệm "tâm thức đang có sự tán loạn". Hơi thở ý thức là phương 
                tiện khả dĩ làm nền tảng để có thể chuyển hóa được nội tâm. Hãy 
                nhận biết sự phát khởi của nó. Hãy ghi nhận sự suy yếu và tan 
                biến của nó. Hiệu năng của hơi thở ý thức sẽ giúp cho tâm trí 
                trầm lắng xuống. Sự tán loạn vọng động sẽ giảm bớt và thân tâm 
                sẽ cảm thấy dễ chịu hơn ít nhiều. 
 
                - 
                
                          Tâm ý thu nhiếp và tâm ý tán loạn là hai lãnh vực 
                tương phản nhất thời của tâm thức. Khi vọng tưởng tương đối dừng 
                lặng, hơi thở trở nên nhẹ nhàng, thân và tâm tương đối dịu lắng 
                trong sự định tỉnh sáng suốt, ta nhận biết ta đang có sự thu 
                nhiếp. Ngược lại, khi tâm trí náo động, vọng tưởng phát khởi, 
                nghĩ suy không theo trình tự, hơi thở trở nên thô tháo, đầu óc 
                không còn sáng suốt, khó có thể tập trung tinh thần, là lúc tâm 
                thức đang có sự tán loạn.
 
                - 
                
                          Nếu tâm trí có sự tán loạn không thể dừng nghỉ được, 
                ta có thể áp dụng phương pháp đếm hơi thở để định tâm (sổ tức). 
                Khi ý thức tâm đã tương đối an định và đã bắt đầu có sự thu 
                nhiếp, số đếm không còn lộn, thì lúc đó ta nên bỏ đếm để trở về 
                với sự chú tâm quán sát hơi thở.
 
                - 
                
                          Tập trung tâm ý vào hơi thở, khởi sự bắt đầu đếm hơi 
                thở để định tâm: 
 
                - 
                
                          - thở vào đếm "một", thở ra đếm "một"
 
                - 
                - thở 
                vào đếm "hai", thở ra đếm "hai"
 
                - 
                - thở 
                vào đếm "ba", thở ra đếm "ba" ...
 
                - 
                
                          Cứ thế, đếm từ "một" đến "mười", rồi trở lại bắt đầu 
                từ "một". Nếu đếm giữa chừng bị lộn số hay quên đếm thì bắt đầu 
                trở lại từ "một". Tiếp tục đếm cho đến khi số đếm không còn lộn, 
                hơi thở trở nên nhẹ nhàng, tâm thức bắt đầu có sự an định, thì 
                lúc đó nên bỏ đếm để trở về theo dõi hơi thở.
 
                - 
                
                          - Tâm ý trở thành rộng lớn 
 
                - 
                
                          Với mức độ hành thiền tinh chuyên, sự tập trung tỉnh 
                thức nâng cao, tâm ý vượt lên trên những nhận thức hạn hẹp, 
                không còn bị trói buộc trong tri kiến chủ quan, không còn bị chi 
                phối bởi những biệt phân riêng rẽ, là lúc tâm thức đang trở 
                thành rộng lớn, với cái nhìn độ lượng, với đôi mắt hòa đồng trên 
                mọi sự việc. 
 
                - 
                
                          Khi ấy, những ý nghĩ vọng động cũng đã lặng dừng, ta 
                có cái nhìn sâu vào sự việc trên mối tương duyên và tương sinh 
                của sự việc. Không phân chia tẻ biệt. Tâm trí hiểu biết và hành 
                động thương yêu mọi loài với đức độ từ bi và hỷ xả.  
 
                - 
                Tâm trí 
                có cái nhìn sáng suốt, độ lượng và cảm thông với muôn loài. Sự 
                giác tỉnh không còn nằm trong lãnh vực tẻ phân tri kiến, thân 
                tâm trở nên nhẹ nhàng và thư thái. Ðây là lúc tâm thức đang bắt 
                đầu trở thành rộng lớn. Ta nhận biết tỉnh thức rằng tâm trí mình 
                đang trở thành rộng lớn. Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta 
                ý thức được sự có mặt của tâm thức, để quán chiếu về sự vô 
                thường của tâm thức. 
 
                - 
                
                          - Tâm ý trở thành hạn hẹp 
 
                - 
                
                          Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta 
                đang thở ra. Ta biết tâm thức ta đang trở thành hạn hẹp. Hạn hẹp 
                từ cái nhìn, cái thấy, cái hiểu, cái suy xét trong ta. Ta biết 
                ta đang có những ý nghĩ tầm thường, những cái nhìn ích kỷ tư 
                riêng, gói trọn trong bản ngã thấp hèn. Sự bẩn chật bần cùng 
                trong tâm thức đang sống trong ta. Ta nhìn sự vật trong nhỏ bé 
                tự thân, trong tư hữu lợi danh, trong bần tiện xét suy việc 
                đời. 
 
                - 
                Tâm ý 
                trở thành rộng lớn và tâm ý trở thành hạn hẹp là hai lãnh vực 
                tương phản nhất thời của tâm thức. Khi tâm ý có cái nhìn tương 
                đối tỉnh thức khách quan và quảng đại trong cái hiểu cái biết có 
                chiều sâu, là lúc tâm thức đang bắt đầu trở thành rộng lớn. 
                Ngược lại, khi tâm ý có cái nhìn hạn hẹp tẻ phân trong phiếm 
                diện và tự kỷ, là lúc tâm ý đang trở thành hạn hẹp.
 
                - 
                
                          - Tâm ý đạt đến trạng thái cao nhất 
 
                - 
                
                          Trong lúc ngồi thiền, khi mà vọng tưởng gần như vắng 
                lặng, thân tâm dịu lắng với cảm giác khinh an, hơi thở như có 
                như không, ý thức an bình, tâm trí sáng suốt trong tĩnh lặng. 
                Ðấy là lúc tâm thức có sự thu nhiếp, là giai đoạn tâm thức đang 
                đi vào trạng thái cao nhất của tâm linh, thực sự bắt đầu để đi 
                vào các cõi thiền.
 
                - 
                
                          Hãy duy trì hơi thở trong sự tỉnh thức. Thở vào, ý 
                thức là đang thở vào. Thở ra, ý thức là đang thở ra. Ta tỉnh 
                biết rằng ta đang thở trong phút giây nầy với một tâm trí định 
                tỉnh, với sự nhận hiểu sáng suốt. Ta ý thức và ghi nhận rằng tâm 
                thức ta đang ở trong trạng thái cao nhất của tâm linh, một trạng 
                thái khinh an với những làn gió nhẹ nhàng và thanh thản đang 
                trôi chảy trong ta. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức không còn ở trong trạng thái cao nhất của 
                tâm linh, ta nhận biết được điều đó. Ta an trú trong sự quán 
                niệm như vậy đủ để ý thức được sự có mặt của tâm thức, để quán 
                chiếu về sự vô thường của tâm thức.
 
                - 
                
                          - Tâm ý có định 
 
                - 
                
                          Hành trì tứ niệm xứ tinh chuyên và đúng phương pháp, 
                tâm thức sẽ dần lắng động và định tỉnh, lực tập trung vào hơi 
                thở cũng sẽ tăng trưởng. Ta ý thức về hơi thở trong từng mỗi 
                phút giây, ghi nhận mọi sự việc khách quan và sáng suốt. Ta sống 
                tỉnh thức trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Sự bình tâm và an 
                lạc đến với ta như những hoa trái đã gặt hái được từ vùng trời 
                tâm linh. 
 
                - 
                
                          Trong lúc ngồi thiền, khi mà tâm thức đã trở nên vắng 
                lặng, đang bắt đầu đi vào sự thu nhiếp, là khi tâm thức đã đạt 
                đến trạng thái cao nhất của tâm linh, là khi những vọng tưởng 
                không còn phát khởi loạn cuồng. Khi ấy, tâm thức chỉ hoàn toàn ý 
                thức về hơi thở và chỉ hơi thở. Ðây là lúc tâm ý đang bắt đầu đi 
                vào định. 
 
                - 
                Trong 
                giai đoạn bắt đầu định tâm, sự tỉnh biết vẫn sáng tỏ chiếu soi. 
                Những gì xảy ra chung quanh, ta đều nhận biết rõ nhưng không bị 
                lôi cuốn vào đó. Những náo nhiệt chung quanh không thể gây tạo 
                cho tâm trí loạn động. Tất cả nếu có, chỉ là ngọn gió khinh an 
                mát lạ trong tâm thức, tưởng như hoa xuân tươi nở muôn sắc màu - 
                "ao hồ ngàn nước ngàn trăng hiện, vạn dặm không mây vạn dặm 
                xanh" (thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt, vạn lý vô vân vạn lý 
                thiên). Ðây là giai đoạn tâm thức đang thực sự bắt đầu đi vào 
                các cõi định.
 
                - 
                
                          Khi tâm ý có định, ta có cảm thức thân tâm nhẹ nhàng 
                như mây bay, hơi thở lắng dịu hoàn toàn như có như không, vọng 
                tưởng chẳng còn chút gì vọng động. Sự an lạc đến như một cảm 
                nhận từ kinh nghiệm tâm linh cá biệt. Một điều cần nhấn mạnh, 
                trong thiền Phật giáo, ở giai đoạn bắt đầu đi vào định, tâm trí 
                vẫn tỉnh biết hoàn toàn trong sự sáng suốt. Nếu như  tâm trí mịt 
                mờ ảo ảnh trong giai đoạn đó, thì cái gọi là định, chỉ là một 
                hiện tượng biến trạng của hôn trầm, chưa thể được gọi là định. 
                
 
                - 
                Trong 
                giao tiếp hằng ngày, tâm thức được xem là có định là khi 8 ngọn 
                gió lợi danh vinh nhục không làm chao động tâm thức. Ngược bằng, 
                một trong những ngọn gió tài lợi, suy hao, hủy nhục, công kênh, 
                ngợi khen, chê bai, đau khổ, vui thú gây tạo cho tâm trí ít 
                nhiều xao xuyến, thì như vậy chưa thể nói là tâm trí đã có sự 
                định tỉnh.
 
                - 
                
                          Những khi bắt đầu đi vào định, tâm thức vẫn sáng suốt 
                giác tỉnh trong từng mỗi sát na, ta nhận biết rằng "tâm thức ta 
                đang có định". Ðó gọi là chánh định - "như như chẳng động, lặng 
                tĩnh thường sáng" (như như bất động, liễu liễu thường minh). Khi 
                tâm thức không có định, vọng tưởng phát khởi không ngừng, ta 
                cũng nhận biết rõ ràng như vậy. Ta ghi nhận rằng "tâm thức không 
                có định". Với sự ghi nhận như vậy đủ để giúp ta an trú trong sự 
                tỉnh biết và ý thức về sự có mặt của tâm thức.
 
                - 
                - Tâm ý 
                giải thoát 
 
                - 
                
                          Trong khi ngồi thiền, khi tâm trí đã thu nhiếp và đi 
                vào trạng thái cao nhất của tâm linh, khi mà tâm thức đã thực sự 
                bắt đầu đi vào các cõi định, khi ấy vọng tưởng không còn chút gì 
                loạn động, tâm thể hoàn toàn vắng lặng an bình. Ðó là lúc tâm ý 
                đang nhất thời có sự giải thoát khỏi những não phiền tư duy. 
                Trong giai đoạn nhất thời nầy, tâm ý an trú trong sự vắng lặng 
                hoàn toàn. Tâm không còn bị trói buộc vào bất cứ gì nơi tư duy. 
                Ðây là giai đoạn tâm thức đang có sự giải thoát vô ngại, thực sự 
                an trú hoàn toàn trong tỉnh thức sáng suốt và tự do an bình.
                
 
                - 
                
                          Trong giai đoạn khi mà những vọng động náo nhiệt bên 
                ngoài không còn gây tạo tâm thức bấn loạn, những ngọn gió lợi 
                danh vinh nhục không còn làm bận trí sầu ưu. Khi mà sự tập trung 
                của tâm trí đã đạt đến cao độ. Tâm thức đã thực sự vắng lặng. 
                Ðịnh lực phát triển vững mạnh. Ðấy là lúc thực sự tâm thức đang 
                đi vào định, giai đoạn bắt đầu để bước vào ngưỡng cửa tâm linh 
                của sự giải thoát. Như thiền sư Nyogen Senzaki đã nói "hãy cứ 
                đơn thân ngồi nhìn im lặng, dẫu trời cao quay vòng, dẫu đất bằng 
                loạn động, người chả thèm chớp mắt bận tâm". Ðấy là giai đoạn 
                định tâm bắt đầu khi mà tâm thức đã thực sự an trú hoàn toàn 
                trong lặng tĩnh.
 
                - 
                 
 
                - 
                Và, khi 
                trong tâm thức đang bắt đầu có sự giải thoát, đã thực sự vượt 
                lên trên tất cả những buộc ràng của tư duy, ta quán sát nhận 
                biết đúng như vậy. Ta an trú trong quán niệm "tâm thức có sự 
                giải thoát". Và khi tâm trí không có sự giải thoát, ta cũng liền 
                nhận biết như vậy. Ta thở vào thở ra trong ý thức, biết rõ từng 
                hơi thở một. Ta chú tâm ghi nhận rằng "tâm trí không có sự giải 
                thoát". Và với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự 
                có mặt của tâm thức.
 
                - 
                
                          Tóm lại, những khi tâm thức có tham dục, sân hận, si 
                mê, có thu nhiếp hay tán loạn, có định hay không định, có giải 
                thoát hay không giải thoát, ta cũng đều ý thức được sự sinh khởi 
                và hủy diệt của nó. Ta chú tâm quán sát quá trình sinh diệt của 
                tất cả mọi tưởng vọng nơi tâm thức, nhận biết sự vô thường của 
                nó, sự phát sinh, tăng trưởng, suy yếu và hoại diệt của nó.
                
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi và 
                quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Khi có một ý tưởng tham dục hay 
                sân hận phát khởi, tâm trí liền ghi nhận ý tưởng tham dục hay 
                sân hận đó. Khi ý tưởng tham dục hay sân hận bị suy yếu và tan 
                biến đi, ta cũng tỉnh biết ghi nhận về điều ấy. Không để ý niệm 
                trói buộc dẫn đưa ta vào những suy tưởng đắm say, những phiền 
                lụy khổ não. Hãy buông xả mọi vướng mắc trong tâm thức. Hãy ý 
                thức về hơi thở và cố gắng thu giữ thân tâm dịu lắng trong an 
                bình.
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có tâm thức đây" và chỉ 
                có tâm thức. Không có ta trong tâm thức. Chỉ có tâm thức và là 
                tâm thức nơi tâm thức. Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý 
                thức được sự có mặt của tâm thức, để quán chiếu về sự vô thường 
                của mọi ý niệm trong tâm thức. 
 
                - 
                4. quán 
                pháp 
 
                - 
                Lãnh 
                vực thứ tư là quán pháp. Về phần niệm pháp, đây là pháp quán về 
                các đối tượng của tâm thức, bao gồm các lãnh vực về thân thể, 
                cảm thọ và tâm thức. 
 
                - 
                
                          Trong bốn lãnh vực quán niệm, pháp căn bản làm nền 
                tảng cho sự tu tập là pháp quán hơi thở. Phương pháp quán niệm 
                hơi thở rất thiết thực cho cuộc sống, đơn giản, dễ hành trì, 
                hiệu lực lại rất cao. Nuôi giữ ý thức trên hơi thở có thể giúp 
                cho thân tâm được vững chải, phát triển định lực tập trung, duy 
                trì được tính khí và sức khỏe. Do vậy, pháp quán niệm hơi thở 
                được coi là trọng tâm điểm của sự tu tập bốn lãnh vực quán niệm.
                
 
                - 
                
                          Trong phần thực tập về tuệ quán ở các lãnh vực thân 
                thọ tâm, đã có đề cập đến ít nhiều về các pháp quán vô thường, 
                tàn hoại, giải thoát và buông bỏ. Ở đây, phương pháp quán niệm 
                về các đối tượng của tâm thức, tức pháp quán về các pháp, được 
                đặt trên căn bản các pháp quán vô thường và tàn hoại. Thực tập 
                thiền quán mà không đi vào cửa ngõ của các pháp quán về vô 
                thường thì chẳng thể nào soi thấu được bản chất thật của mọi 
                phiền trược khổ đau và phù du khoái lạc trong cuộc đời.
 
                - 
                
                          Các đối tượng của tâm thức:
 
                - 
                
                          - năm hiện tượng ngăn che của tâm thức (ngũ triền cái)
 
                - 
                - năm 
                uẩn (ngũ uẩn)
 
                - 
                - sáu 
                giác quan và sáu đối tượng của giác quan (sáu nội ngoại xứ)
 
                - 
                - bảy 
                yếu tố của sự giác ngộ (thất giác chi)
 
                - 
                - bốn 
                sự thật cao quý (tứ diệu đế)
 
                - 
                
                          Quán về ngũ triền cái
 
                - 
                
                          Ðây là 5 hiện tượng phóng túng gây nhiều trở ngại cho 
                sự giác ngộ tâm linh, gồm ái dục, sân hận, mê muội và buồn ngủ, 
                giao động bất an và hối hận, nghi ngờ.
 
                - 
                
                          - Ái dục 
 
                - 
                
                          Hiện tượng ngăn che đầu tiên của sự giác ngộ là dục 
                niệm. Theo quan điểm Phật giáo, dục niệm bao gồm năm phương diện 
                tham đắm của con người (ngũ dục) là tiền của, sắc đẹp, danh 
                vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Năm nhóm ái dục nầy là những trở ngại 
                rất lớn cho người hành giả trên con đường tu tập thiền quán.
 
                - 
                
                          Khi trong tâm chợt phát khởi một ý niệm ái dục, tâm 
                thức chỉ cần ghi nhận rõ ràng về sự phát khởi của dục niệm đó. 
                Ngay khi một ý niệm ái dục phát khởi và tâm thức đã giác tỉnh 
                nhận biết được liền thì ngay đó làn sóng dục niệm cũng đã bị 
                giảm suy. Hãy đưa tâm ý trở về với hơi thở ý thức. Thở vào, ta 
                biết ta đang thở vào và ta biết có một dục niệm đang sinh khởi. 
                Thở ra, ta biết ta đang thở ra và ta biết dục niệm đó đang suy 
                diệt. 
 
                - 
                
                          Ta quán sát và ghi nhận sự phát khởi, tăng trưởng, suy 
                yếu và hủy diệt của dục niệm. Chỉ cần khách quan ghi nhận về 
                điều đó. Hãy nhìn ngắm mọi dục niệm như  gió thoảng như mây bay, 
                tâm thức sẽ tìm thấy được sự bình an ít nhiều.
 
                - 
                
                          - Sân hận 
 
                - 
                
                          Khi sân niệm trổi dậy trong tâm thức, ta cần ghi nhận 
                khách quan về sự phát khởi đó. Nhận biết trong tâm đang có một ý 
                niệm sân hận. Cũng như phương thức đối trị về dục niệm, tâm ý 
                hoàn toàn thụ động để ghi nhận sự việc. 
 
                - 
                
                          Hãy bình tâm để quán sát mọi sân niệm. Hãy nhận biết 
                một cách tỉnh thức trong suốt quá trình sinh khởi, tăng trưởng, 
                giảm suy và hủy diệt của nó. Hãy cố gắng giữ thân tâm bình thản 
                với lửa lòng sân niệm. Ðừng nói một lời nào. Ðừng suy nghĩ bất 
                cứ điều chi. Cũng đừng làm bất cứ việc gì. Hãy đưa tâm ý trở về 
                với hơi thở ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào và ta biết 
                có một sân niệm đang sinh khởi. Thở ra, ta biết ta đang thở ra 
                và ta biết sân niệm đó đang suy diệt. 
 
                - 
                
                          Khi ý niệm giận dữ phát sinh, tâm thức tỉnh giác nhận 
                biết được liền thì ngay đó ngọn đuốc sân hận cũng đã bị giảm suy 
                ít nhiều. Hãy duy trì hơi thở trong ý thức. Khách quan ghi nhận 
                mọi vận hành biến chuyển và suy diệt của sân niệm. Với hơi thở ý 
                thức, với sức mạnh của định lực tập trung và ý thức chánh niệm, 
                thân tâm sẽ trở nên tươi mát lại và sân niệm cũng dần tan biến 
                đi. 
 
                - 
                
                          - Mê muội và buồn ngủ (hôn trầm)
 
                - 
                
                          Khi đang ngồi thiền, đôi lúc trong tâm có sự mờ mịt, 
                tưởng thức mơ màng như buồn ngủ, ta hãy liền ý thức về điều đó. 
                Khách quan ghi nhận về sự phát khởi của nó. Hãy đưa tâm ý trở về 
                với hơi thở. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết 
                ta đang thở ra. Ta biết ta đang có sự mê muội và buồn ngủ. Ngay 
                khi nhận biết có sự mê muội phát sinh thì ánh sáng tâm thức cũng 
                đã tự tỏ sáng.
 
                - 
                
                          Ðối với tất cả ý niệm mơ màng buồn ngủ trổi dậy trong 
                lúc ngồi thiền, ta chỉ cần chú tâm quán sát khách quan và ghi 
                nhận tất cả mọi diễn biến của nó trong suốt quá trình sinh diệt. 
                Ta an trú trong sự quán niệm "có sự mê muội và buồn ngủ đây". 
                Với sự ghi nhận như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được 
                sự có mặt của mê muội và buồn ngủ trong tâm thức.
 
                - 
                
                          - Giao động bất an (trạo cữ) và hối hận
 
                - 
                
                          Lúc đang ngồi thiền, đôi khi có những giao động trong 
                tâm trí, cảm thức như thân xác động chuyển, gây tạo cho tâm thức 
                bất an. Khi ấy, cảm thức của thân và tâm trong sự giao động cũng 
                giống như đang ngồi trên con thuyền giữa biển khơi. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức xao xuyến bất an, hãy cố gắng nhận biết 
                về điều đó. Khách quan ghi nhận như vậy đúng như thật. Hãy giữ 
                sự bình tâm để quán sát sự việc. Hãy bình thản nhẹ nhàng đưa tâm 
                ý trở về với hơi thở. Tập trung tất cả tâm trí vào hơi thở. Thở 
                vào, ta biết ta đang thở vào và ta biết thân thể đang có sự giao 
                động. Thở ra, ta biết ta đang thở ra và ta biết tâm thức đang có 
                sự bất an.
 
                - 
                
                          Hãy thực tập thản nhiên để nhìn sự việc, ghi nhận về 
                sự giao động bất an trong suốt quá trình sinh khởi và hoại diệt 
                của nó.
 
                - 
                
                          Ngoài những giao động trạo cử trong khi ngồi thiền, 
                còn có những ảnh hưởng giao động khác ở thân thể, ngay trên lời 
                nói và trong tâm thức (làm việc cẩu thả, đi đứng thiếu chỉnh tề, 
                hành động vụït chạt, nói năng lung tung, tư tưởng tán loạn...) 
                Tất cả đó đều là những giao động bất an.
 
                - 
                Lúc 
                ngồi thiền, đôi khi tâm thức trổi dậy với những ý tưởng hối hận 
                về hành vi của mình, về công việc mình bất cẩn, về ngôn từ mình 
                đã nói trong lúc giận dữ, về cách cư xử thô tệ với người... gây 
                tạo cho ta những buồn phiền hối hận trong nội tâm. Ðối với những 
                ý niệm sầu ưu như vậy, tâm thức cần tỉnh giác ghi nhận về điều 
                đó. Hãy đưa tâm ý trở về với hơi thở ý thức. Thực tập bình thản 
                mà nhìn sự kiện từ lúc nó phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho 
                đến khi nó hoàn toàn tan biến đi. 
 
                - 
                Hãy 
                nhìn ngắm sự kiện một cách khách quan. Không dính mắc vào đề mục 
                ta, những việc ta đã làm, những lời ta đã nói. Chỉ cần nhận biết 
                khách quan "đang có những ý tưởng hối hận phát sinh". Tỉnh giác 
                nhận biết như vậy và thản nhiên trở về với hơi thở ý thức. Thở 
                vào, ta biết ta đang thở vào và nhận biết ta đang có sự hối hận. 
                Thở ra, ta biết ta đang thở ra và nhận biết đang có sự ray rứt 
                trong ta. Thực tập ghi nhận và tiếp xúc với sự hối hận một cách 
                thản nhiên, như nước nhìn trời, như mây nhìn trăng. 
 
                - 
                Sự ghi 
                nhận và quán sát về sự hối hận cần phải thật khách quan. Ðừng 
                suy nghĩ quá nhiều về ta. Cố gắng tỉnh giác không để bị rơi vào 
                vòng quay náo loạn của tư duy.
 
                - 
                Sự ghi 
                nhận về hối hận nên hiểu là khách quan nhận biết về những sai 
                lầm ta đã làm để không tạo dựng thêm khổ đau. Tự tâm ta quán 
                chiếu để soi sáng tâm thức ta với ngọn đuốc giác tỉnh, để sẽ 
                không tạo tác thêm ra những lỗi lầm cho mình cho người.
 
                - 
                Như 
                vậy, sự nhận biết về hối hận không phải để ưu tư ray rứt mà trở 
                lại xâu xé cõi lòng. Cần tỉnh biết mà ngắm nhìn từng đợt sóng 
                sầu ưu đó. 
 
                - 
                Bất cứ 
                sự giao động nào gây tạo cho tâm thể bất an, hãy liền nhận biết 
                đúng như vậy. Biết đang có sự giao động. Biết đang có sự bất an. 
                Chỉ khách quan nhận biết như vậy, thế thôi. Không chạy đuổi phân 
                tích sự kiện. Hãy đưa tâm ý nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Chỉ 
                hơi thở đây là vấn đề tối quan trọng mà ta phải để hết tâm sức 
                vào sự an trú. Cố gắng không nghĩ gì khác, cũng không bận tâm về 
                bất cứ điều gì khác. Tâm trí chỉ cần ghi nhận sáng suốt, nhận 
                biết rõ ràng ngay khi vọng tưởng phát sinh, tăng trưởng, suy yếu 
                và tan biến. Thản nhiên mà nhìn sự kiện phát khởi đổi thay trong 
                từng mỗi phút giây vô thường.
 
                - 
                Nếu có 
                một ý nghĩ trổi dậy, nhận biết "có một ý nghĩ", rồi nhẹ nhàng 
                trở về với hơi thở. Nếu có một cảm giác phát sinh, nhận biết "có 
                một cảm giác", rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Có sự giao động 
                trên thân xác, ta nhận biết thân xác đang có sự giao động. Có sự 
                bất an trong tâm thức, ta nhận biết tâm thức đang có sự bất an. 
                Rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thực tập bình thản trong ý 
                thức đó. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta 
                đang thở ra. Cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức và thản nhiên 
                mà nhìn sự việc. 
 
                - 
                Mọi ý 
                tưởng có sinh có diệt. Sự giao động có đến có đi. Cảm thức có 
                phát khởi có tan biến. Những gì đến cứ để nó đến, không xao 
                xuyến mến ưa. Những gì đi cứ để nó đi, không nuối tiếc sầu tư. 
                Hãy thực tập nhận định sự kiện như thiền sư Shunryu Suzuki - 
                "chính ngươi đã tạo dựng ra những làn sóng trong tâm tư ngươi, 
                nếu cứ thản nhiên để tâm trí như bình thường thì tâm trí sẽ tự 
                trở thành vắng lặng" (zen mind). Một ý tưởng khởi dậy, một cảm 
                thức phát sinh, tất cả cũng chỉ là những trổi dậy diệt sinh vô 
                thường của các ý niệm.
 
                - 
                Sự ghi 
                nhận về giao động bất an không những chỉ thực tập trong lúc ngồi 
                thiền mà phải tỉnh biết ghi nhận về điều đó trong mọi thời lúc. 
                Khi đang đi, đang ngồi, đang nằm, đang đứng, hay đang làm việc, 
                nếu tâm thức bất an, thần trí giao động, hãy liền tỉnh biết ghi 
                nhận về điều đó. Những khi không còn sự giao động bất an, tâm 
                trí cũng nhận biết sáng suốt như vậy. Hãy cố gắng duy trì hơi 
                thở trong ý thức. Hãy nhìn vào tâm thức mình để thấy rõ sự sinh 
                khởi và hoại diệt của mọi vọng động biến sinh. 
 
                - 
                Ma cảnh
                
 
                - 
                Riêng 
                về phần giao động bất an, cần nói thêm về các cảnh giới huyễn ảo 
                gây tác hại đến tâm thức, tạo cho tâm trí bất an và sợ hãi. Ðó 
                là kinh nghiệm khi đi vào thiền định, ở giai đoạn khi mà hơi thở 
                trở nên vi tế, tâm thể vắng lặng, thỉnh thoảng có những cảnh 
                giới khác nhau xuất hiện trong tâm thức.
 
                - 
                Hãy 
                kinh nghiệm lấy chính mình: Trong bất cứ cảnh giới nào, tốt đẹp, 
                xấu ác, siêu nhiên, hay ghê gớm, cũng phải thật bình tâm quán 
                chiếu "tất cả các pháp đều như mộng huyễn" - nhất thiết chư pháp 
                giai như huyễn (ngộ tánh luận). Hãy quán chiếu đấy chỉ là những 
                tưởng vọng lung linh của nội thức. Tất cả không có thật. Chỉ ảo 
                ảnh, chỉ tưởng suy, gây ra những biến hình muôn trạng. Những gì 
                có hình tướng đều là giả dối hư tạo (phàm sở hữu tướng giai thị 
                hư vọng - kim cang).
 
                - 
                Hãy cố 
                gắng định tỉnh. Khách quan ghi nhận rằng: "có một cảnh giới ảo 
                tưởng đang phát sinh". Rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Hãy cố 
                gắng duy trì hơi thở trong ý thức. Tỉnh biết rằng tất cả cảnh 
                giới đều là huyễn mộng. Hãy tỉnh biết: "tất cả những gì có hình 
                tướng, như chiêm bao huyễn ảo, như bọt nước bóng mờ, như sương 
                rơi, như ánh chớp, phải luôn xem là vậy" (nhất thiết hữu vi 
                pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như 
                thị quán - kim cang). 
 
                - 
                - Nghi 
                ngờ 
 
                - 
                Ðây là 
                hiện tượng ngăn che thứ năm trong ngũ triền cái. Có thể sự nghi 
                ngờ trổi dậy trong lúc ngồi thiền nhưng cũng có thể phát khởi 
                trong mọi thời lúc khác. Tất cả bao gồm những nghi ngờ về lời 
                kinh Phật, về chân lý Như Lai, về công phu hành trì, về kinh 
                nghiệm thiền tập, về những sự việc đã xảy ra, về những người 
                chung quanh. Tất cả đều xem như sự nghi ngờ phát sinh từ tâm 
                thức.
 
                - 
                Những 
                khi trong tâm có sự nghi ngờ, ta liền nhận biết như vậy. Chú tâm 
                quán sát và ghi nhận sự diễn biến của các ý niệm nghi ngờ. Nhận 
                biết về quá trình sinh khởi và hoại diệt của nó bằng tất cả sự 
                sáng suốt. An trú trong sự quán niệm "có sự nghi ngờ đây", như 
                vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của nghi 
                ngờ trong tâm thức. 
 
                - 
                Cố gắng 
                không để bị vướng mắc trong nội dung của sự nghi ngờ. Không chạy 
                đuổi theo nó. Không phân tích mổ xẻ vấn đề. Cố gắng duy trì hơi 
                thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta 
                biết ta đang thở ra. Ta ý thức rõ ràng về từng hơi thở. Tâm trí 
                chỉ cần ghi nhận khách quan "đang có sự nghi ngờ trong tâm 
                thức", thế thôi. Hãy thực tập an nhiên tiếp xúc với mọi biến 
                động của tâm thức.
 
                - 
                Quán về 
                ngũ uẩn
 
                - 
                Thực 
                tập quán chiếu về sự bám víu vào ngũ uẩn và sự ràng buộc của các 
                nội ngoại xứ là những bước thực tập chính yếu trong quá trình 
                quán niệm về các đối tượng của tâm thức. Lãnh vực đầu tiên của 
                ngũ uẩn là sắc. Tự mình quán niệm như sau: "đây là hình sắc, đây 
                là sự phát sinh của hình sắc, đây là sự hủy diệt của hình sắc".
 
                - 
                Sắc ở 
                đây có nghĩa là thân xác, do tứ đại đất nước lửa gió hợp thành, 
                trong đó có gan, tim, máu, mủ, hơi thở, nhiệt... Khi xác thân bị 
                hủy diệt, các cấu thể từ thân xác trở về với vũ trụ. Không có sự 
                thêm. Không có sự bớt. Không có sự được. Không có sự mất. Hãy 
                quán chiếu: "năm uẩn như mây bay qua rồi bay lại" (ngũ ấm phù 
                vân không khứ lai - chứng đạo ca). Hãy chú tâm quán sát về quá 
                trình sinh khởi và hoại diệt của hình sắc. Tất cả mọi vật thể 
                đều không có tự tánh riêng biệt. Tất cả đều không. Như thiền sư 
                Shunryu Suzuki đã nhận định: "cái mà chúng ta gọi là "tôi" chỉ 
                là cánh cửa đong đưa đang di động khi chúng ta hít vào và khi 
                chúng ta thở ra" (zen mind). 
 
                - 
                Nếu như 
                thân xác một mai bị tan hoại, tim gan gởi về cho đất, hơi thở 
                gởi về cho gió, sức nóng trong cơ thể gởi về cho lửa, mủ máu gởi 
                về cho nước... rồi thì thân xác đây không còn gọi là thân xác 
                nữa. Ðó là sự tan rã của hình sắc. Tất cả và tất cả đều không có 
                tự tánh. Mọi sự việc đều vô thường biến đổi. Ðó là bản chất thật 
                của cuộc đời. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không có gì 
                thêm, không có gì bớt. Không có gì tăng, không có gì giảm. Tất 
                cả chỉ là sự biến dịch và trở về. Với sự hành trì tinh chuyên 
                pháp niệm thân, có thể đạt được sự hiểu biết lớn về tánh không, 
                khổ và vô ngã của sắc uẩn.
 
                - 
                Lãnh 
                vực thứ hai trong ngũ uẩn là thọ. Tự mình quán niệm như sau: 
                "đây là cảm thọ, đây là sự phát sinh của cảm thọ, đây là sự hủy 
                diệt của cảm thọ".
 
                - 
                Như đã 
                trình bày nơi phần niệm thọ, cảm thọ là những xúc cảm thọ nhận, 
                gồm các cảm giác dễ chịu, khó chịu, không dễ chịu cũng không khó 
                chịu. Cảm thọ phát khởi do sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. 
                Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là hình sắc, 
                âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và tư tưởng. Mắt thấy sắc 
                màu nên sinh mến chuộng, tai nghe tiếng chửi nên sinh buồn khổ, 
                mũi ngửi mùi hôi nên sinh khó chịu, lưỡi nếm vị ngọt nên sinh ưa 
                thích, thân xúc chạm vật thể nên sinh mến yêu, ý khởi niệm phiền 
                lo nên sinh sợ hãi. Với sự hành trì pháp niệm thọ thật tinh 
                chuyên và đúng phương pháp, ta có thể đạt được sự hiểu biết lớn 
                về tánh vô thường, khổ và vô ngã của thọ uẩn. 
 
                - 
                Riêng 
                trong pháp hành thiền tứ niệm xứ, không cần dùng đến óc suy 
                nghiệm (chiếu kiến) để phân tích tự tánh không của ngũ uẩn như 
                trong bát nhã tâm kinh (Ngài Quán tự tại bồ tát thực hành sâu xa 
                trí tuệ bát nhã, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt qua 
                tất cả mọi khổ nạn - tâm kinh).
 
                - 
                Ở đây, 
                ta chỉ cần tỉnh biết sáng suốt và ghi nhận rõ ràng về từng cảm 
                giác đang thọ nhận ngay lúc nó phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, 
                cho đến khi bị hủy diệt. Như khi nhận biết mình đang có một cảm 
                giác sợ hãi thì ngay đó sự sợ hãi đã bị giảm suy bởi ảnh hưởng 
                của sự định tỉnh có được từ hơi thở ý thức. Ta khách quan quán 
                sát và ghi nhận sáng suốt về sự kiện để trực nghiệm bản chất vô 
                thường và tánh không của cảm thọ, để không còn bám víu vào những 
                phù du ngũ uẩn trong cuộc đời.
 
                - 
                Lãnh 
                vực thứ ba trong ngũ uẩn là tưởng. Tự mình quán niệm như sau: 
                "đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri giác, đây là sự 
                hủy diệt của tri giác".
 
                - 
                Tưởng 
                có nghĩa là tri giác, tức sự nhận biết của các giác quan, phát 
                sinh từ sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. 
 
                - 
                - mắt 
                thấy hình sắc
 
                - 
                - tai 
                nghe âm thanh
 
                - 
                - mũi 
                ngửi mùi hương 
 
                - 
                - lưỡi 
                nếm các vị
 
                - 
                - thân 
                xúc chạm vật thể 
 
                - 
                - ý 
                biết các tư tưởng
 
                - 
                Do có 
                mắt và hình sắc, mắt tiếp xúc với hình sắc mà phát sanh sự nhận 
                biết về cái thấy. Do có tai và âm thanh, tai tiếp xúc với âm 
                thanh mà phát sanh sự nhận biết về cái nghe. Do có mũi và mùi 
                hương, mũi tiếp xúc với mùi hương mà phát sanh sự nhận biết về 
                cái ngửi. Do có lưỡi và vị nếm, lưỡi tiếp xúc với vị nếm mà phát 
                sanh sự nhận biết về cái nếm. Do có thân và vật thể, thân tiếp 
                xúc với vật thể mà phát sanh sự nhận biết về sự xúc chạm. Do có 
                tâm ý và tư tưởng, tâm ý tiếp xúc với tư tưởng mà phát sanh sự 
                nhận biết về các ý niệm.
 
                - 
                Ta quán 
                sát và ghi nhận đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri 
                giác, do bởi có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với hình 
                sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng mà có được 
                sự nhận biết của tri giác. 
 
                - 
                Lãnh 
                vực thứ tư trong ngũ uẩn là hành. Tự mình quán niệm như sau: 
                "đây là sự vận hành tâm tư, đây là sự phát sinh của sự vận hành 
                tâm tư, đây là sự hủy diệt của sự vận hành tâm tư".
 
                - 
                Hành có 
                nghĩa là tâm tư, tức sự vận hành lưu chuyển của các luồn tư 
                tưởng phát khởi và diễn biến liên tục trong tâm thức. Dòng suy 
                tưởng không bao giờ ngừng nghỉ. Hết ý niệm nầy đến suy tưởng 
                khác. Vừa nghĩ đến ý tưởng nầy thì ý tưởng kia đã tan biến. Vừa 
                nghĩ đến ý tưởng nọ thì ý tưởng kia đã lặn chìm. Ðây là sự phát 
                sinh của tâm tư. Ðây là sự hủy diệt của tâm tư. Những niệm tưởng 
                nghĩ suy sinh sinh diệt diệt vô cùng tận. 
 
                - 
                Hành 
                trì pháp niệm tâm nghiêm mật và đúng phương thức, có thể đạt 
                được sự hiểu biết lớn về tánh vô thường, khổ và vô ngã của tưởng 
                uẩn, hành uẩn và thức uẩn. 
 
                - 
                Lãnh 
                vực thứ năm trong ngũ uẩn là thức. Tự mình quán niệm như sau: 
                "đây là ý thức phân biệt, đây là sự phát sinh của ý thức phân 
                biệt, đây là sự hủy diệt của ý thức phân biệt".
 
                - 
                Thức có 
                nghĩa là ý thức hiểu biết phân biệt về sự việc. Thức phát sinh 
                do sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần. Tất cả bao gồm có sáu 
                loại:
 
                - 
                - nhãn 
                thức (sự phân biệt của mắt)
 
                - 
                - nhĩ 
                thức (sự phân biệt của tai)
 
                - 
                - tỷ 
                thức (sự phân biệt của mũi)
 
                - 
                - thiệt 
                thức (sự phân biệt của lưỡi)
 
                - 
                - thân 
                thức (sự phân biệt của thân)
 
                - 
                - ý 
                thức (sự phân biệt của ý)
 
                - 
                Khi mắt 
                nhìn thấy hình thể vật sắc, tâm có sự nhận biết về hình sắc 
                (tưởng) và có sự phân biệt đẹp xấu trắng đen (thức).
 
                - 
                Khi tai 
                nghe thấy một tiếng động, tâm có sự nhận biết về âm thanh 
                (tưởng) và phân biệt loại âm thanh gì, lớn nhỏ, ồn náo hay dễ 
                chịu (thức). Khi mũi ngửi thấy mùi hương, tâm có sự nhận biết về 
                mùi hương (tưởng) và có sự phân biệt thơm hôi (thức). 
                
 
                - 
                Khi 
                lưỡi nếm mùi vị, tâm có sự nhận biết về mùi vị (tưởng) và phân 
                biệt mặn ngọt hay đắng nồng ra sao (thức). Khi thân có sự sờ 
                chạm vào một vật thể, tâm có sự nhận biết về sự xúc chạm (tưởng) 
                và có sự phân biệt vật đó là vật gì, lớn hay nhỏ, mềm hay cứng 
                (thức). Khi tâm ý sinh khởi một ý tưởng, tâm có sự nhận biết về 
                ý niệm (tưởng) và phân biệt ý niệm đó tốt hay xấu, thiện hay ác 
                (thức).
 
                - 
                Ta 
                khách quan quán sát và ghi nhận "đây là năm uẩn" "đây là sự phát 
                sinh của năm uẩn" "đây là sự hủy diệt của năm uẩn", do bởi có 
                mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (sáu căn) tiếp xúc với hình sắc, âm 
                thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng (sáu trần) mà có sự 
                nhận biết của tưởng, có sự lưu chuyển tâm tư của hành, có sự 
                phân biệt của thức. 
 
                - 
                Từ sự 
                quán sát khách quan về ngũ uẩn, ta ghi nhận về sự ràng buộc của 
                sáu căn và sáu trần, để soi thấu bản chất vô thường vô ngã của 
                sáu nội ngoại xứ, để không còn bám víu chấp chặt vào năm uẩn.
 
                - 
                Quán về 
                sáu nội ngoại xứ
 
                - 
                Bước kế 
                tiếp là quán niệm về sáu giác quan và sáu đối tượng của giác 
                quan. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu đối 
                tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, 
                xúc chạm và tư tưởng. 
 
                - 
                Những 
                ràng buộc của sáu nội ngoại xứ:
 
                - 
                - sự 
                ràng buộc của mắt và hình sắc 
 
                - 
                - của 
                tai và âm thanh 
 
                - 
                - của 
                mũi và mùi hương
 
                - 
                - của 
                lưỡi và vị nếm
 
                - 
                - của 
                thân và xúc chạm 
 
                - 
                - của ý 
                và tư tưởng
 
                - 
                Khi mắt 
                nhìn thấy sự vật là do bởi có mắt và có sự vật, có sự tiếp xúc 
                của mắt với sự vật nên ta có sự thấy biết của mắt (tưởng) và 
                nhận thức phân biệt về sự vật (thức). Ðấy là sự ràng buộc tạo 
                nên do mắt tiếp xúc với hình sắc. Khi ý thức về sự ràng buộc, 
                hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Ý thức khách 
                quan và tỉnh biết từ lúc sự ràng buộc chưa phát sinh, nay đang 
                phát sinh, do bởi sự tiếp xúc của mắt với hình sắc. Khi ý thức 
                được sự ràng buộc đang phát sinh, hãy tập trung tâm trí vào hơi 
                thở, quán chiếu rằng mắt và hình sắc không có tự tánh riêng. Và 
                khi sự ràng buộc bị suy yếu và tan biến đi, ta cũng ý thức về 
                điều đó. Về những lãnh vực khác của sáu nội ngoại xứ cũng tương 
                tự như vậy.
 
                - 
                 
 
                - 
                Khi tai 
                nghe thấy một âm thanh là do bởi có tai và có âm thanh, có sự 
                tiếp xúc của tai với âm thanh, gây tạo cho tâm thức sự nghe biết 
                (tưởng) và nhận thức phân biệt về âm thanh (thức). 
 
                - 
                Khi mũi 
                ngửi thấy một mùi hương là do bởi có mũi và có mùi hương, có sự 
                tiếp xúc của mũi với mùi hương, gây tạo cho tâm thức sự ngửi 
                biết (tưởng) và nhận thức phân biệt về mùi hương (thức). 
                
 
                - 
                Khi 
                lưỡi nếm biết một vị nếm là do bởi có lưỡi và có vị nếm, có sự 
                tiếp xúc của lưỡi với vị nếm, gây tạo cho tâm thức sự nếm biết 
                (tưởng) và nhận thức phân biệt về vị nếm (thức). 
 
                - 
                Khi 
                thân chạm biết vật thể là do bởi có thân và có vật thể, có sự 
                tiếp xúc của thân với vật thể, gây tạo cho tâm thức sự chạm biết 
                (tưởng) và nhận thức phân biệt về vật thể (thức). 
 
                - 
                Khi tâm 
                ý khởi biết có một niệm tưởng là do bởi có tâm ý và có tư tưởng, 
                có sự tiếp xúc của ý với tư tưởng, gây tạo cho tâm thức sự khởi 
                biết về tư tưởng (tưởng) và nhận thức phân biệt về các ý niệm 
                (thức). 
 
                - 
                Thí dụ, 
                về sự ràng buộc của mắt và hình sắc, khi nhìn thấy một cô gái 
                trẻ đẹp với thân hình duyên dáng và nụ cười hồn nhiên (ảnh hưởng 
                từ bên ngoài) gây tạo cho ta một sự mê thích của dục tính (ảnh 
                hưởng bên trong). Về sự ràng buộc của tai và âm thanh, khi nghe 
                một âm thanh chửi bới (ảnh hưởng từ bên ngoài) gây tạo cho ta sự 
                nghe hiểu và cảm giác khó chịu (ảnh hưởng bên trong). 
                
 
                - 
                Trong 
                kinh kim cang, Ðức Phật đã thuyết giảng về yếu nghĩa của việc 
                sanh tâm không trụ nơi sáu trần:
 
                - 
                
                          "bất ưng trụ sắc sanh tâm
 
                - 
                bất ưng 
                trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm
 
                - 
                ưng vô 
                sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
 
                - 
                 
 
                - 
                Chẳng 
                nên trụ vào hình sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ vào âm thanh, 
                mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng mà sanh tâm, nên trụ vào 
                chỗ không chỗ trụ để mà sanh tâm.
 
                - 
                Theo 
                tinh thần kinh bốn lãnh vực quán niệm, an trụ tâm mà Ðức Phật đã 
                đề cập trong kinh kim cang có nghĩa là tâm khởi niệm không chấp 
                chặt vào sáu trần, không vướng kẹt nơi cái thấy ở màu sắc, nơi 
                cái nghe ở âm thanh, nơi cái ngửi ở mùi hương, nơi cái nếm ở mùi 
                vị, nơi cái cảm biết từ sự xúc chạm của xác thân, nơi ý thức 
                phân biệt của suy tưởng. An trụ như thế gọi là trụ tâm vào chỗ 
                không chỗ trụ, nghĩa là không chấp chặt vào trần cảnh mà sanh 
                tâm thanh tịnh vậy. Con đường thánh đạo để hành giả nương dựa 
                vào đó tu tập sống tỉnh thức, an trụ tâm trong ý thức chánh 
                niệm, vượt bỏ sự bám víu vào ngũ uẩn - đó là con đường của tứ 
                niệm xứ, tức bốn lãnh vực quán niệm.
 
                - 
                 
 
                - 
                Khi 
                quán niệm về sự ràng buộc của các giác quan và các đối tượng của 
                giác quan, hãy khách quan ghi nhận sự gây tạo ảnh hưởng của nó 
                đến tâm thức và cảm thọ. Ta ý thức sự ràng buộc ngay khi nó bắt 
                đầu phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho đến khi bị hủy diệt 
                hoàn toàn. Ta an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi 
                và quá trình hủy diệt của nó để thấy rõ bản chất vô thường của 
                sự ràng buộc nơi các giác quan. Ta quán niệm rằng "có sáu giác 
                quan đây" "có sáu đối tượng của giác quan đây" và tất cả chỉ là 
                sáu giác quan, sáu đối tượng của giác quan. Với sự quán niệm như 
                vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có mặt của các pháp đối tượng 
                của tâm thức. 
 
                - 
                Quán về 
                thất giác chi
 
                - 
                
                          Bước tiếp đó là quán niệm về bảy yếu tố của sự giác 
                ngộ (thất giác chi / thất bồ đề phần). Bảy yếu tố của sự giác 
                ngộ bao gồm chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, 
                định và xả.
 
                - 
                
                          - Chánh niệm 
 
                - 
                Yếu tố 
                giác ngộ đầu tiên là chánh niệm. Chánh niệm là ý thức sáng suốt 
                và giác tỉnh về những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
                
 
                - 
                Những 
                khi tâm thức có chánh niệm, ý thức mình đang có chánh niệm. 
                Trong pháp hành thiền tứ niệm xứ, sự quán niệm phải được dựa 
                trên tinh thần vô ngã, không có sự liên hệ buộc ràng với cái 
                nhìn về "ta" "của ta". Ðó là vấn đề căn bản của sự ghi nhận sáng 
                suốt và quán sát khách quan, rất quan trọng cho sự hành trì tu 
                tập đúng phương thức. Ðây cũng là điều căn bản trong việc thực 
                tập vô ngã - "học đạo của Phật là học về chính mình, học về 
                chính mình là quên đi chính mình" (three pillars of zen).
 
                - 
                Khi tâm 
                thức không có chánh niệm, ta cũng nhận biết về điều đó. Duy trì 
                hơi thở trong ý thức, nhận biết tâm thức mình không có chánh 
                niệm. Khi có ý thức sáng suốt để nhận biết về việc mình không có 
                chánh niệm thì ngay phút giây đó chánh niệm  đã đang bắt đầu 
                được thiết lập trong tâm thức. Hãy tỉnh biết với ý thức chánh 
                niệm ngay đó để nhận biết rằng tâm mình đang có chánh niệm. Ðấy 
                chính là giây phút tỉnh thức để quán chiếu về yếu tố chánh niệm 
                đang phát sinh. Hãy khách quan quán sát và ghi nhận từ khi chánh 
                niệm chưa phát sinh, nay đang bắt đầu phát sinh. Nếu đã phát 
                sinh, bây giờ đang bắt đầu thành tựu.
 
                - 
                - Trạch 
                pháp
 
                - 
                Yếu tố 
                giác ngộ thứ hai là trạch pháp. Trạch pháp là sự quyết trạch về 
                các pháp, nghĩa là sự nghiên cứu tìm hiểu về Phật pháp. Như khi 
                đọc kinh tứ niệm xứ, ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền diệu của 
                từng câu từng chữ trong bài kinh, bằng cách thọ trì đọc tụng 
                hằng đêm để cố gắng thể nhập mọi nghĩa lý. Tất cả như vậy đều 
                được xem là trạch pháp.
 
                - 
                Khi yếu 
                tố quyết trạch chưa phát sinh, nay đang phát sinh, ta ý thức rõ 
                ràng về điều đó. Khách quan ghi nhận trong tâm đang có sự quyết 
                trạch về các pháp.    Ngay khi không có sự quyết trạch về các 
                pháp, ta cũng nhận biết tỉnh giác về điều đó. 
 
                - 
                Với ánh 
                sáng chánh niệm, ta ý thức tâm mình còn thiếu sót yếu tố trạch 
                pháp, ta suy xét để phát triển sự thiếu sót đó, đưa đến sự phát 
                sinh yếu tố trạch pháp. Và khi trạch pháp đã phát sinh, sẽ đi 
                đến thành tựu. Do bởi trạch pháp thành tựu, ta thấu hiểu được ý 
                nghĩa của lời kinh tâm yếu và phương thức hành trì, để áp dụng 
                vào đời sống tu trì.
 
                - 
                
                          - Tinh tấn 
 
                - 
                Yếu tố 
                giác ngộ thứ ba là sự tinh tấn. Như đã đề cập ở phần đầu, yếu tố 
                tinh tấn rất quan trọng trong quá trình tu tập tứ niệm xứ. Thực 
                tập quán niệm mà thiếu sự tinh chuyên thì khó thể thành đạt được 
                ý nguyện. Hãy nỗ lực tu tập. Hãy kiên nhẫn hành trì. Thực tập 
                sống tỉnh thức trong từng sát na. Sống trong hành động hiện tại.
 
                - 
                Khi 
                thực tập bốn pháp quán niệm nghiêm túc và cần mẫn, ta ý thức 
                được tâm mình đang có sự tinh tấn hành trì. Khi có yếu tố tinh 
                tấn, ta ý thức mình có tinh tấn. Khi không có tinh tấn, ta ý 
                thức mình không có tinh tấn. Ta ý thức về sự tinh tấn ngay khi 
                nó bắt đầu phát sinh. Khi đã phát sinh, ta ý thức về sự thành 
                tựu của nó. Ta an trú trong sự quán niệm "có sự tinh tấn đây", 
                như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của 
                yếu tố tinh tấn trong tâm thức.
 
                - 
                
                          - Hoan hỷ 
 
                - 
                Yếu tố 
                giác ngộ thứ tư là sự hoan hỷ. Do bởi chánh niệm phát khởi và 
                thành tựu, tâm trí ta sáng suốt ghi nhận sự việc, cố công nghiên 
                cứu tìm học Phật pháp. Những yếu chỉ lời kinh được tỏ bày trong 
                ánh sáng trí tuệ, bản thân nỗ lực tinh chuyên hành trì, thực tập 
                sống trong từng sát na. Ta tỉnh biết và ghi nhận sáng suốt về 
                mọi sự việc đang diễn biến trong giờ phút hiện tại. Ta ý thức 
                sống trong từng mỗi hơi thở, trong từng nhịp đập con tim, trong 
                mọi tư thế và cử động của thân thể, trong mọi diễn biến vận hành 
                của tâm tư. Ta thực tập sống tỉnh thức trong mọi phút giây.
 
                - 
                Ánh 
                đuốc chánh niệm sáng soi đưa đến sự chứng nghiệm về bản chất vô 
                ngã của mọi sự thể và lý nghĩa vô thường của cuộc đời người. Tâm 
                thức sáng tỏ trong hân hoan vui mừng, đưa đến sự phát sinh của 
                yếu tố hoan hỷ. 
 
                - 
                
                          Khi yếu tố hoan hỷ bắt đầu phát sinh, ta ý thức về sự 
                phát sinh của nó. Và khi đã phát sinh, ta ý thức về sự thành tựu 
                của nó. Ta an trú trong sự quán niệm "có sự hoan hỷ đây", như 
                vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của yếu tố 
                hoan hỷ trong tâm thức.
 
                - 
                
                          - Khinh an 
 
                - 
                
                          Yếu tố giác ngộ thứ năm là sự khinh an, tức cảm giác 
                thảnh thơi nhẹ nhàng trong tâm thức. Trước hết là yếu tố chánh 
                niệm đã thành tựu, đưa đến sự tăng trưởng yếu tố trạch pháp và 
                sự tinh tấn phát sinh và thành tựu. Sau đó, sự hoan hỷ bắt đầu 
                phát khởi và đi đến thành tựu, thân tâm cảm nhận nhữngï thư thái 
                nhẹ nhàng và bình an. Mọi sự vận hành của thân tâm trong vững 
                chải, tâm trí thảnh thơi và thư thái, đưa đến yếu tố khinh an 
                phát sinh. 
 
                - 
                
                          Khi sự khinh an bắt đầu phát sinh, hãy tỉnh giác và 
                nhận biết về điều đó. Ta ý thức tâm mình đang có sự khinh an. 
                Khi yếu tố khinh an thành tựu, ta ý thức rõ ràng về sự thành tựu 
                của nó. Khi yếu tố khinh an đã thành tựu, thân tâm cảm nhận sự 
                nhẹ nhàng, ung dung và vững chải. Hơi thở ý thức trong từng mỗi 
                phút giây tĩnh lặng. 
 
                - 
                
                          - Ðịnh 
 
                - 
                
                          Yếu tố giác ngộ thứ sáu là định. Từ sự thành tựu của 
                các yếu tố giác ngộ căn bản đã đưa đến sự thành tựu của yếu tố 
                khinh an. Khi sự khinh an thành tựu, sẽ đưa đến sự phát sinh của 
                yếu tố định. Ngay giờ đây, mọi hơi thở vào ra trong ý thức. Tâm 
                thể vắng lặng tịch tĩnh. Vọng tưởng đọng lắng. Tâm thức bình an 
                như mặt hồ thu sớm. Chánh niệm sáng tỏ trong từng mỗi hơi thở, 
                trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Ðây là giai đoạn yếu tố 
                định đang bắt đầu thành tựu.
 
                - 
                
                          Trong phần niệm tâm, yếu tố định đã được đề cập chi 
                tiết. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh, yếu tố định được xem như hoa 
                trái của sự giác tỉnh. Khi tâm thức có định, ta ý thức rõ ràng 
                tâm thức đang có định. Khi tâm thức không có định, ta cũng ý 
                thức rõ ràng tâm thức không có định.
 
                - 
                
                          Ta ý thức về sự định tâm từ khi nó chưa phát sinh, nay 
                đang phát sinh. Khi phát sinh, ta ý thức về sự phát sinh của nó. 
                Và khi thành tựu, ta ý thức rõ ràng về sự thành tựu của nó.
                
 
                - 
                
                          - Xả 
 
                - 
                
                          Yếu tố giác ngộ cuối cùng là hành xả, tức sự buông bỏ. 
                Khi định lực phát triển, lúc đó tâm trí đi vào sự tịch tĩnh vắng 
                lặng không một móng niệm. Khi ấy, tâm thức hoàn toàn thật sự 
                buông xả tất cả. Thân và tâm không còn bị trói buộc vào bất cứ 
                gì trong cuộc đời. Ta sống tự tại ung dung với đất trời như mây 
                đi như gió về - "nhập triền thùy thủ" (thỏng tay vào chợ - thập 
                mục ngưu đồ).  Ta sống trong cuộc đời nhưng không bị cuộc đời 
                làm não loạn sầu tư. Những sự việc biến động chung quanh cũng 
                không làm chao động não tâm ("bất dĩ ngoại vật động kỳ tâm").
                
 
                - 
                
                          Người hành giả sống ung dung và thản nhiên như mây như 
                gió, thanh thản như ngọn cỏ như lá hoa, điềm nhiên như hạt nắng 
                chiều tà, tự tại như giọt sương rơi sớm. Không bị hoàn cảnh trói 
                buộc. Không bị vọng tưởng gây não phiền. Không náo động trong 
                hiện tại. Không bấn loạn phân tâm với sự đời.
 
                - 
                
                          Do bởi sống an nhiên và tỉnh thức, trực nghiệm sự 
                nhiệm mầu của tạo hóa, ý nghĩa và sự hiện hữu của đời người. Sự 
                sống chết cũng không luống hề bận tâm - "túng ngộ phong đao 
                thường thản thản, giả nhiên độc dược giã nhàn nhàn" - nếu gặp 
                gươm đao vẫn cứ đùa giỡn, ví nhằm thuốc độc vẫn cứ an nhàn 
                (chứng đạo ca).  Sống trọn vẹn với chính ta, hoan hỷ an vui 
                trong hiện tại. Sống và thật sự sống trong từng sát na nhiệm mầu 
                của cuộc sống. 
 
                - 
                
                          Sống vẫn sống, sống để sống, sống thật sự với cuộc 
                sống nhưng không chấp chặt vào đó - "hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, 
                vô vi nhi vô bất vi" của Lão Tử nào có khác chi (hòa chung ánh 
                sáng, đồng cùng bụi bặm, không làm nhưng không có gì không làm). 
                Một cái phất tay rũ sạch tất cả mọi não phiền. Thong dong tự 
                tại. An nhiên tịch tĩnh.  "không dứt trừ vọng tưởng cũng không 
                cầu chân giác" (chứng đạo ca). Sống hoàn toàn với cái tâm "không 
                không". Ðó là yếu chỉ "vô tướng vô không vô bất không" trong 
                chứng đạo ca của đại sư Huyền Giác (không hình tướng, không phải 
                không, cũng không phải chẳng không). 
 
                - 
                
                          Khi biết tâm thức có sự buông xả hay không có buông 
                xả, ta đều nhận biết đúng như vậy. Ta ý thức ngay khi sự buông 
                xả phát sinh, ý thức về sự tăng trưởng của nó, sự thành tựu của 
                nó. Yếu tố hành xả đưa đến sự thảnh thơi và giải thoát hoàn toàn 
                cho tâm thức. Nó là điểm linh quang của trí tuệ. Ðại sư Huyền 
                Giác đã chỉ rõ tinh túy của sự hành thiền là yếu tố buông xả -  
                "thị dĩ thiền môn liễu khước tâm" - cho nên thiền học dạy buông 
                hết (chứng đạo ca). Ðiều đó có nghĩa là tiến lên một bước nữa 
                trên sự buông xả để xả cái xả, buông bỏ cái buông bỏ vậy.
 
                - 
                
                          Quán về tứ diệu đế
 
                - 
                
                          Bước kế tiếp, thực tập quán niệm về bốn sự thật cao 
                quý.
 
                - 
                
                          - Khổ đế 
 
                - 
                
                          Sự thật cao quý thứ nhất là khổ đế, tức sự khổ đau của 
                con người: "khi sự kiện là đau khổ, hành giả quán niệm đây là 
                đau khổ".
 
                - 
                
                          Tất cả những gì trên thế gian vô thường nầy đều là 
                khổ. Mọi sự việc luôn biến dịch đổi dời - "sinh sinh chi vị 
                dịch" (sinh ra sinh ra mãi nên gọi là biến dịch - kinh dịch). 
                Không một hình tướng nào, một tưởng suy nào nằm nguyên một trạng 
                thái ("vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản" là vậy - vạn vật đến 
                chỗ cùng sẽ biến đổi, mọi vật đến điểm cuối sẽ quay lại). Ðó là 
                chân lý biến dịch vô thường của vạn vật. Và bởi sự vô thường 
                biến đổi luôn có mặt trên cuộc đời đã gây tạo biết bao đổi thay, 
                từ sinh khởi, rồi biến thể, rồi hư hoại, do đó nên có sự đau 
                khổ. Khi đã biến thể, đã hư hoại, tất phải tan biến với thời 
                gian nên cuối cùng tất cả đều là không. Tất cả mọi sự thể đều 
                không có tự tánh riêng biệt.
 
                - 
                
                          Khi nhìn sự việc, quán chiếu sự việc và cảm nhận sự 
                việc là đau khổ, ta ý thức rõ ràng "đây là đau khổ". Sự đau khổ 
                của con người kể cả tinh thần lẫn thể xác có tới 84.000 thứ 
                phiền não, không thể nào nói hết cùng tận được. Từ lúc mới sinh 
                ra, ngây dại cất tiếng khóc chào đời thì đó đã là khổ rồi. Lớn 
                lên, già yếu, bệnh tật, chết đi... tất cả đều là khổ. Người mình 
                thương mà phải xa lìa cũng là khổ. Những mong cầu mơ ước không 
                đạt được cũng là khổ. Kẻ oán thù mà phải sống chung cũng là khổ. 
                Những khống chế buộc ràng gắn liền với thân xác  ngũ uẩn đây 
                cũng đều là khổ.
 
                - 
                
                          Những khi mắt chứng kiến sự kiện xảy ra trong cuộc 
                đời, cảm nhận sự khổ của chính mình, ta tỉnh biết ghi nhận về 
                điều đó và tập trung quán chiếu về sự khổ. Biết rằng "đây là đau 
                khổ". Cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta 
                đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Dùng hơi thở làm 
                nền tảng để nuôi giữ sự tỉnh thức, để nhìn sâu vào sự kiện, để 
                thấy rõ sự đau khổ và gốc nguồn của đau khổ. 
 
                - 
                
                          - Tập đế 
 
                - 
                
                          Chân lý cao cả thứ hai là tập đế, tức nguyên nhân của 
                sự đau khổ: "khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến đau khổ, hành 
                giả quán niệm đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ".
 
                - 
                
                          Khi quán chiếu về sự khổ, ta nhìn thấy được nguyên 
                nhân đưa đến sự đau khổ cho con người. Những ái dục tham mê, 
                những oán hờn ganh ghét, những si mờ chấp ngã, những nghi oan 
                ngờ vực, những ngã mạn cao ngạo, những ác kiến tà ý... Tất cả 
                vậy đều là những nguyên nhân gây tạo nên sự đau khổ cho con 
                người. 
 
                - 
                
                          Ngay cả sự chấp dính buộc ràng của mắt, tai, mũi, 
                lưỡi, thân, ý với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc 
                chạm, tư tưởng cũng đều là những khổ đau dày xé tâm linh con 
                người. Trong kinh phú lâu na, Phật đã thuyết: "mắt thấy sắc đuổi 
                theo chấp chặt là đau khổ, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi 
                nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp, tất cả chấp chặt đuổi theo 
                đều là đau khổ".
 
                - 
                
                          Cũng như thân xác do tứ đại hợp thành, do duyên mà 
                sinh khởi, hết duyên lại hoại tàn. Nhưng nếu ta cứ chấp chặt vào 
                đó và cho thân xác là mãi của ta thì đó là u mê khổ ải. Cũng như 
                cố chấp mà nhận lầm vọng tưởng là tâm ta, mãi sống với những 
                nghĩ suy tham cuồng, gây tạo biết bao nghiệp chướng ưu phiền. 
                Ðau khổ cũng bởi từ sự chấp chặt cuồng mê nơi thân tâm mãi mãi 
                không thôi ("ấm giới sáu trần dậy, ách nạn nghiệp theo kề" - 
                thiếu thất lục môn).
 
                - 
                
                          Khi cảm nhận sự khổ, hãy quán chiếu để nhìn thấy rõ 
                nguyên nhân đã đưa đến sự đau khổ cho con người. Duy trì sự quán 
                niệm trong hơi thở ý thức. Ta biết ta đang thở vào. Ta biết ta 
                đang thở ra. Ta chú tâm quán sát mọi gốc nguồn của sự kiện, để 
                thấy rõ bản chất của đau khổ và nguyên nhân đã đưa đến đau khổ. 
                Ta quán niệm "đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ". 
 
                - 
                
                          - Diệt đế 
 
                - 
                
                          Chân lý cao cả thứ ba là diệt đế, tức sự chấm dứt của 
                đau khổ: "khi sự kiện là sự chấm dứt đau khổ, hành giả quán niệm 
                đây là sự chấm dứt đau khổ".
 
                - 
                
                          Do bởi quán chiếu về đau khổ, ta nhận hiểu và thấy rõ 
                gốc nguồn của đau khổ, nguyên nhân đã đưa đến sự đau khổ cho con 
                người. Ngay đây, nếu bản thân nỗ lực tiêu trừ những tà kiến của 
                sự chấp ngã thì tâm trí cũng sẽ vơi đi ít nhiều thống khổ.
                
 
                - 
                
                          Khi đau khổ đã thật sự chấm dứt thì con đường giải 
                thoát là trước mắt. Ðiều đó được hiểu như một chân lý niết bàn 
                tuyệt đối của tâm linh con người. Ðó là sự bình an và tự tại vô 
                ngại của tâm thức. 
 
                - 
                
                          Chúng ta, nếu như cứ mãi chấp chặt xác thân là của ta 
                chơn thật, mãi đắm mê thân xác, mãi bám víu và tiếc thương thì 
                ta vẫn mãi khổ đau phiền não. Sự bám víu vào thân xác cũng là 
                gốc nguồn của sự sợ hãi. Như trong đạo đức kinh - "ngô sở dĩ hữu 
                đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà 
                hoạn!" (ta sở dĩ có lo lớn là vì ta có thân, nếu ta không có 
                thân, ta nào có lo). Hãy nhận thức rằng: Sống là sống trong cuộc 
                đời, là sống với xác thân đây, nhưng tâm trí không bám chặt vào 
                tham đắm, không quay cuồng trong bão gió lòng đời. Sống là để 
                sống trong đời. Không nhàm chán sự sống. Không mê lụy sắc thân. 
                Ðó là sống đúng với ý nghĩa của cuộc sống làm người.
 
                - 
                
                          Thân xác đây, theo duyên mà hình thành, hết duyên mà 
                hư hủy. Có đó rồi mất nó. Biết vậy, nên tâm đừng quá nuối tiếc 
                khi phải mất thân. Ðây không những với cái nhìn về thân ta mà 
                ngay cả cái nhìn của ta đối với người thân ta cũng thế. Kẻ sinh 
                ra, kẻ mất đi, tất cả là đau khổ, diệt diệt sinh sinh vô cùng 
                tận ("sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ" - sinh diệt biến thay 
                đổi dời, hư giả cũng không có chủ thể - kinh bát đại nhân giác).
                
 
                - 
                
                          Do bởi nhận thức như vậy nên khi thân nầy sắp mất đi, 
                ta không mấy não phiền hối tiếc. Hãy dửng dưng mà ra đi. Hãy an 
                nhiên mà trở về. Hãy thực tập quán niệm về sự sống và sự chết 
                như thiền sư Mumon: "đời sống như cụm mây bay ngang đỉnh núi, sự 
                chết như mặt trăng vượt biển khơi". 
 
                - 
                
                          Khi người thân ta mất đi, ta biết ta đã mất thể xác 
                người, đã mất tiếng nói và hành động của người. Và, bởi tình 
                luyến ái, ta sầu bi, ta khổ ải. Ðó có sinh, đó có mất, cũng theo 
                duyên mà tạo dựng, cũng tùy duyên mà hư hoại. Tất cả đều vô 
                thường. Cuộc đời người khác nào như mộng ảo ("xử thế nhược đại 
                mộng" - Lý Bạch). 
 
                - 
                
                          Hãy nhìn cuộc đời bằng ánh mắt vô thường. Hãy vui với 
                đời như hoa nở. Hãy đi vào cuộc đời như đang đi trong giấc mộng 
                ("gá thân mộng, dạo cảnh mộng, mộng tan rồi, cười vỡ mộng" - 
                thiền sư Thích Thanh Từ). Hãy nhận biết sự việc như vậy. Những 
                người thân ta rồi cũng sẽ ra đi. Ta thản nhiên nhìn sự việc với 
                con mắt hiểu và biết, không quá khổ đau sầu muộn. Trong kinh bát 
                đại nhân giác, Phật đã thuyết - "thế gian vô thường, ngũ ấm vô 
                ngã" (cuộc đời là vô thường, thân năm ấm cũng không có tự ngã 
                riêng biệt). Hãy hằng luôn nhắn nhủ với chính mình: "người có 
                đến và người sẽ ra đi, ta đã đến và rồi ta sẽ đi, há luống bận 
                tâm chi những vô thường!" 
 
                - 
                
                          Do bởi ý thức được sự vô thường của cuộc đời, khi 
                những người thân của ta còn sống thì ta nên biết quý trọng những 
                giây phút còn có mặt của người bên ta. Nếu lỡ ngày mai, khi 
                người đã ra đi, thâm tình đã vỡ, thì hối tiếc chi chữ hiếu chưa 
                kịp báo đền, chữ ân chưa kịp trả, tất cả còn lại là suối lệ sầu 
                vương trong thương tiếc muộn màng.
 
                - 
                Trong 
                giai đoạn đầu tu tập, chúng ta đây vẫn là con người đầy ắp những 
                ray rứt sầu tư. Nếu như, những người thân của ta một mai ra đi, 
                thân ta chắc cũng phải úa sầu hoen lệ. Nhưng bởi hiểu và biết 
                gốc nguồn của ái dục si mê, rễ nguồn của đau khổ muôn đời, chúng 
                ta có thể giảm bớt được ít nhiều mức độ sầu bi. Ðược vậy thì mục 
                đích hành thiền đây cũng đã gặt hái được ít nhiều lợi ích lắm 
                thay! Hãy cố gắng tinh chuyên hành trì cho đến giây phút cuối 
                cùng của cuộc sống thì định lực đã được tu bồi vững mạnh. Và 
                rồi, khi sự việc đến, cứ thanh thản ra đi, cứ an nhiên trở về, 
                như gió bay xa, như mây trở lại.
 
                - 
                
                          - Ðạo đế 
 
                - 
                
                          Chân lý cuối cùng là đạo đế, tức con đường diệt khổ để 
                giải thoát tâm linh: "khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm 
                dứt đau khổ, hành giả quán niệm đây là con đường đưa đến sự chấm 
                dứt đau khổ".
 
                - 
                
                          Khi nhìn thấy sự đau khổ, cảm nhận được sự đau khổ, ta 
                nhận biết "đây là đau khổ". Quán chiếu về sự kiện để thấy rõ đâu 
                là gốc nguồn của đau khổ. An trú tâm trong sự quán niệm "đây là 
                nguyên nhân đưa đến đau khổ". Và khi sự kiện là con đường đưa 
                đến sự chấm dứt đau khổ, ta quán niệm và ghi nhận "đây là con 
                đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ". 
 
                - 
                
                          Ta an trú trong sự quán niệm "có bốn sự thật cao quý", 
                như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của 
                các đối tượng của tâm thức.
 
                - 
                
                          Hãy nỗ lực tinh chuyên hành trì sống tỉnh thức trong 
                từng mỗi phút giây. Cố gắng tinh tấn thọ trì kinh điển, thực tập 
                thiền định, để chiếu soi bước đường trí tuệ, đem giới luật và 
                yếu nghĩa kinh pháp áp dụng vào con đường tu tập cho bản thân.
                
 
                - 
                
                          Hãy thực tập sống tỉnh thức và sống với tâm nguyện: 
                "nâng cao ngọn lửa hồng trí tuệ, để giải thoát cho tâm linh 
                chính mình, và để cùng chiếu soi đến tất cả những ai đang cùng 
                trên con thuyền trôi dạt hữu duyên".
 
                - 
                
                          Ðể khử trừ những chướng ngại của ái dục, sân, si, ngã 
                mạn, ngông tàn... tất phải dùng đến phương tiện. Cho nên Ðức 
                Phật đã đưa ra con đường bát chánh đạo, tức con đường trung đạo, 
                với tám phạm trù cần yếu và chân chánh để giúp người hành giả 
                nương dựa vào đó mà tu trì:
 
                - 
                
                          - chánh kiến (thấy biết chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                tư duy (nghĩ suy chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                ngữ (lời nói chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                nghiệp (hành động chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                mạng (sinh sống chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                tinh tiến (cố gắng chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                niệm (ý thức chân chánh)
 
                - 
                - chánh 
                định (tập trung chân chánh)
 
                - 
                
                          Tám phạm trù trên được chia thành ba nhóm là giới, 
                định và huệ: 
 
                - 
                
                          - giới (đạo đức) gồm chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh 
                mạng
 
                - 
                - định 
                (tâm linh) gồm chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định
 
                - 
                - huệ 
                (tri thức) gồm chánh tư duy và chánh kiến
 
                - 
                
                          Nền tảng của bát chánh đạo là giới với 3 phạm trù căn 
                bản về đạo đức (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng). Con đường 
                nương dựa để tu tập chánh niệm và để thành tựu về chánh định là 
                con đường tứ niệm xứ, tức bốn lãnh vực quán niệm. 
 
                - 
                 
 
                - 
                Trên 
                bước đường tu tập, yếu tố chánh tinh tiến là để trợ lực cho ta 
                có một ý chí mạnh mẽ trong quá trình tu tập chánh niệm, từ đó mở 
                rộng 2 phạm trù tri thức là chánh kiến và chánh tư duy, giúp ta 
                ý thức được vai trò quan trọng của con đường giải thoát tâm 
                linh. Khi yếu tố chánh niệm thành tựu, đưa đến sự phát sinh và 
                thành tựu yếu tố chánh định, giúp ta vượt thắng những phiền não 
                và đạt đến sự giải thoát cho tâm linh.
 
                - 
                
                          5. quả vị
 
                - 
                
                          Phần cuối của bài kinh, Ðức Phật đề cập đến quả vị 
                chánh trí mà người hành giả có thể chứng đạt được ngay trong 
                kiếp đời hiện tại. Thành quả đưa đến một cách tự nhiên không 
                mong cầu từ công phu tu trì tinh tấn. Ðức Phật cũng nhấn mạnh về 
                quả vị bất lai có thể chứng đạt được cho kiếp mai sau từ những 
                dư báo của công phu tu tập thiền tứ niệm xứ.
 
                - 
                
                          Quả vị chánh trí (còn gọi là vô sinh hay bất sinh) là 
                quả vị cao nhất trong tứ quả thanh văn, tức sự chứng đắc a la 
                hán (viên mãn tuệ). Chữ a la hán có thể được hiểu là một bậc đạo 
                sư xứng đáng được mọi người cúng dường và kính nể. Ðây là người 
                đã thật sự trừ diệt được tất cả mọi não phiền trên cõi thế gian 
                ta bà nầy. 
 
                - 
                
                          Quả vị "không còn trở lại" (bất lai) là quả vị thứ ba 
                trong tứ quả thanh văn, còn được gọi là quả vị a na hàm (viên 
                mãn định). Hành giả có thể đạt được quả vị nầy do từ những dư 
                báo gặt hái được từ công phu hành trì tinh tấn. Ðạt được quả vị 
                tu chứng a na hàm sẽ không còn phải trở lại nơi chốn trần gian 
                nầy nữa.
 
                - 
                
                          Ðức Phật còn nhấn mạnh thêm rằng, không cần phải tu 
                trì cho đến bảy năm mới có thể chứng đắc được quả vị bất sinh. 
                Có thể chứng đạt được quả vị chánh trí a la hán trong thời gian 
                tu luyện một hay hai năm, hay có thể ngắn hơn như hai tháng, một 
                tháng, nửa tháng, một tuần. 
 
                - 
                
                          Kết thúc buổi thuyết giảng về bốn lãnh vực quán niệm, 
                Ðức Phật một lần nữa nhấn mạnh về mục đích và thành quả của công 
                phu tu trì pháp quán tứ niệm xứ:
 
                - 
                
                          - thanh tịnh hoá thân tâm trước cuộc sống náo động
 
                - 
                - vượt 
                thắng những phiền não tâm linh
 
                - 
                - diệt 
                trừ những ưu tư sầu khổ trước cuộc đời
 
                - 
                - đạt 
                đến con đường chánh pháp của sự hiểu biết
 
                - 
                - thể 
                nhập niết bàn tâm linh ngay trên cõi đời nầy
 
                - 
                
                          Những thành quả đây được coi là những hoa trái đã gặt 
                hái được do kết quả tu trì tinh tấn. Ðó là những gì thực hữu 
                nhiệm mầu có thể chứng nghiệm được ngay trong giờ phút hiện tại.
 
                - 
                
                          Hãy tinh chuyên bền chí và vững tâm hành trì trong mọi 
                phút giây của cuộc sống. Hãy tin tưởng vững mạnh sự hành trì bốn 
                lãnh vực quán niệm sẽ đưa con người đến bến bờ giải thoát ngay 
                trong kiếp đời nầy, chứng nghiệm được sự vô thường, khổ và vô 
                ngã của năm uẩn, từ đó soi thấu rõ bản chất thật của cuộc đời, 
                của con người, của vũ trụ.
 
                - 
                
                          Hãy ghi nhớ rằng, phương thức tu tập bốn lãnh vực quán 
                niệm có thể được thực tập trong bất cứ lúc nào và bất cứ nơi 
                đâu. Không nhất thiết chỉ phải thực tập trong những lúc tọa 
                thiền. Cách thức tu trì dựa trên con đường giải thoát trung đạo, 
                không tham đắm dục thú, không nhàm chán sự đời, không sợ hãi 
                cuộc sống. Sống để sống. Sống và ý thức về sự sống trong từng 
                mỗi phút giây thực tại.
 
                - 
                
                          Hãy nhất tâm tinh chuyên hành trì pháp quán niệm xứ 
                một cách đúng đắn. Soi thấu bản chất vô thường của tất cả mọi sự 
                vật. Trực nghiệm bản chất khổ của cuộc đời người, tánh vô ngã 
                của ngũ uẩn tự thân. Chú tâm quán sát và ghi nhận mọi quá trình 
                sinh khởi, tăng trưởng, suy giảm và hủy diệt của tất cả mọi hiện 
                tượng liên hệ đến thân, thọ, tâm, pháp trong từng mỗi phút giây.
                
 
                - 
                
                          Cố gắng thực tập sống trong hành động hiện tại, ý thức 
                tỉnh giác trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Cảm nghiệm sự mầu 
                nhiệm của phút giây tỉnh thức. Cố gắng tu dưỡng định lực và sự 
                tỉnh thức, vượt thoát phần nào những phiền não tâm linh những 
                chấp cứ buộc ràng của ngũ uẩn. Thực tập sống và sống an nhiên 
                với đời. Hãy nhìn thẳng vào thực tại, đón chào thực tại với tất 
                cả từ bi và khiêm tốn. Sống và thực tập sống với đời bằng nghệ 
                thuật thức tỉnh của thiền học. Sống để sống và sống đúng ý nghĩa 
                của cuộc sống làm người.
 
                - 
                
                          Hãy thực tập an nhiên thanh thoát sống. Sống cứ sống. 
                Sống để mà sống. Tinh tấn tu tập và thường xuyên quán niệm về vô 
                thường và buông xả. Thực tập sống tỉnh thức và thản nhiên đón 
                chào cuộc đời. Với ý thức chánh niệm, nhìn cuộc trần đời như một 
                bình minh sáng, như mây trắng nhìn trăng, như gió lặng nhìn 
                trời. 
 
                - 
                
                          Và, khi sự việc đến, hãy an nhiên ra đi, hãy thanh 
                thản trở về - một sự trở về với miền xưa a lan nhã.
 
                - 
                
                          6. kinh bốn lãnh vực quán niệm 
 
                - 
                
                          Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Ðức Phật đang cư trú ở 
                Kammasadamma, một khu phố của dân Kuru. Một hôm, Ngài gọi các vị 
                chư tăng: "Nầy các thầy". 
                Chư 
                tăng đáp: "Thưa Ðức Thế Tôn". Ðức Phật nói: "Nầy các vị, đây là 
                con đường duy nhất để thanh tịnh thân tâm, vượt thắng phiền não, 
                diệt trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn - đó 
                là con đường của bốn lãnh vực quán niệm". 
 
                - 
                
                          Bốn lãnh vực quán niệm là những lãnh vực gì? 
                
 
                - 
                
                          Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt 
                về thân thể, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời.
                
 
                - 
                
                          Người ấy an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm 
                thọ, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về cảm thọ, xa lìa 
                mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời. 
 
                - 
                 
 
                - 
                Người 
                ấy an trú trong sự quán niệm về tâm thức nơi tâm thức, tinh cần, 
                ý thức rõ ràng và sáng suốt về tâm thức, xa lìa mọi tham đắm và 
                ưu tư đối với cuộc đời. 
 
                - 
                 
 
                - 
                Người 
                ấy an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức nơi đối 
                tượng của tâm thức, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về đối 
                tượng của tâm thức, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc 
                đời. 
 
                - 
                
                          Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể như thế nào? 
 
                - 
                
                          Người ấy tìm đến một khu rừng, tới một gốc cây, hay 
                một nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình 
                ngay thẳng và thiết lập sự quán niệm trên đối tượng thiền định. 
                Với ý thức rõ ràng và sáng suốt, người ấy thở vào. Với ý thức rõ 
                ràng và sáng suốt, người ấy thở ra. 
 
                - 
                
                          Thở vào một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: "ta 
                đang thở vào một hơi thở dài". Thở ra một hơi thở dài, người ấy 
                ý thức rằng: "ta đang thở ra một hơi thở dài". 
 
                - 
                
                          Thở vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: "ta 
                đang thở vào một hơi thở ngắn". Thở ra một hơi thở ngắn, người 
                ấy ý thức rằng: "ta đang thở ra một hơi thở ngắn". 
 
                - 
                
                          Người hành giả tự mình thực tập như sau:
 
                - 
                
                          Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý 
                thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.
 
                - 
                
                          Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở 
                vào. Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở ra.
 
                - 
                
                          Như người thợ tiện khéo tay hay người thợ học nghề, 
                khi xoay một vòng dài, người ấy ý thức rằng: "ta đang xoay một 
                vòng dài". Hay xoay một vòng ngắn, người ấy ý thức rằng: "ta 
                đang xoay một vòng ngắn".
 
                - 
                 
 
                - 
                Cũng 
                như người hành giả thở vào một hơi thở dài, người ấy ý thức 
                rằng: "ta đang thở vào một hơi thở dài". Thở ra một hơi thở dài, 
                người ấy ý thức rằng: "ta đang thở ra một hơi thở dài". 
                
 
                - 
                
                          Thở vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: "ta 
                đang thở vào một hơi thở ngắn". Thở ra một hơi thở ngắn, người 
                ấy ý thức rằng: "ta đang thở ra một hơi thở ngắn". 
 
                - 
                
                          Người hành giả tự mình thực tập như sau:
 
                - 
                
                          Với ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý 
                thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.
 
                - 
                
                          Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở 
                vào. Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở ra.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Khi đi, người hành giả ý thức rằng: "ta đang đi". Khi 
                đứng, người hành giả ý thức rằng: "ta đang đứng". Khi ngồi, 
                người hành giả ý thức rằng: "ta đang ngồi". Khi nằm, người hành 
                giả ý thức rằng: "ta đang nằm". Bất cứ thân thể đang ở trong tư 
                thế nào, người hành giả cũng ý thức về tư thế đó.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Khi đi tới hay đi lui, người hành giả ý thức rõ ràng 
                về việc đó. Khi nhìn trước hay nhìn sau, cúi xuống hay đứng lên, 
                người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi mặc áo cà sa hay 
                mang bình bát, người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi ăn 
                hay uống, nhai hay nếm, người hành giả ý thức rõ ràng về việc 
                đó. Khi đi đại tiện hay tiểu tiện, người hành giả ý thức rõ ràng 
                về việc đó. Khi đi hay đứng, nằm hay ngồi, ngủ hay thức, nói hay 
                im lặng, người hành giả cũng ý thức rõ ràng về việc đó. 
                
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Người hành giả quán niệm về chính thân thể nầy, từ gót 
                chân trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, bao bọc bởi một lớp da và 
                chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về thân thể nầy: "tóc, lông, 
                móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, gan, hoành cách 
                mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ 
                hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước mủ, nước khớp xương, nước 
                tiểu". 
 
                - 
                
                          Nầy các vị, thí dụ có một cái bao đựng các loại ngũ 
                cốc như gạo lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo 
                trắng. Hai đầu bao có thể mở ra được. Một người có mắt tốt khi 
                mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng trong đó. Ðây là gạo 
                lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh, đậu ngự, mè, gạo trắng. 
                
 
                - 
                 
 
                - 
                Cũng 
                như thế, khi quán niệm về thân thể nầy, người hành giả thấy được 
                mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu và từ đỉnh đầu xuống gót chân, 
                bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về 
                thân thể nầy: "tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, 
                thận, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, 
                mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước mủ, nước 
                khớp xương, nước tiểu".
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Lại nữa, nầy các vị. Trong bất cứ tư thế nào của thân 
                thể, người hành giả cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo thành 
                thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có yếu tố nước, có 
                yếu tố lửa, có yếu tố gió. Như người đồ tể rành nghề hay người 
                thợ học nghề, khi giết một con bò, ngồi giữa ngả tư và xẻ con bò 
                ra thành nhiều phần. Người hành giả cũng vậy, trong bất cứ tư 
                thế nào của thân thể, cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo 
                thành thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có yếu tố 
                nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Lại nữa, nầy các vị. Như khi thấy một xác chết bị bỏ 
                nơi bãi tha ma, đã được một ngày, hai ngày, hoặc ba ngày, sình 
                trương, thâm tím và thối rữa. Người hành giả quán niệm về thân 
                thể đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào 
                tránh thoát.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, bị quạ 
                rỉa, bị diều hâu, kên kên và chó sói rừng gặm xé, bị dòi bọ rúc 
                rỉa. Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng vậy, cũng sẽ 
                trở thành như thế, không có cách nào tránh thoát.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại bộ xương dính ít thịt và máu, các khớp xương còn gắn 
                liền nhau bởi gân cốt. 
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại bộ xương không còn chút thịt nào nhưng vẫn còn dính chút 
                máu, các khớp xương còn gắn liền nhau bởi gân cốt. 
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại bộ xương không còn chút thịt nào và cũng không còn chút 
                máu nào, các khớp xương còn gắn liền nhau bởi gân cốt. 
                
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại đống xương rời rạc, chỗ nầy là xương tay, xương chân, 
                chỗ kia là xương đùi, xương mông, xương sống, đầu lâu. 
                
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại đống xương trắng màu vỏ ốc. 
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại đống xương khô đã hơn một năm. 
 
                - 
                
                          Rồi như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ 
                còn lại đống xương rã nát thành tro bụi. 
 
                - 
                
                          Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng vậy, 
                cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh thoát.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về thân thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có thân thể đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                Nầy các 
                vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm 
                thọ như thế nào? 
 
                - 
                
                          Khi có một cảm giác khoái lạc, người hành giả ý thức: 
                "ta đang có một cảm giác khoái lạc". Khi có một cảm giác đau 
                khổ, người hành giả ý thức: "ta đang có một cảm giác đau khổ". 
                Khi có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ, người 
                hành giả ý thức: "ta đang có một cảm giác không khoái lạc cũng 
                không đau khổ". 
 
                - 
                
                          Khi có một cảm giác khoái lạc về thể xác, người hành 
                giả ý thức: "ta đang có một cảm giác khoái lạc về thể xác". Khi 
                có một cảm giác khoái lạc về tinh thần, người hành giả ý thức: 
                "ta đang có một cảm giác khoái lạc về tinh thần". 
 
                - 
                Khi có 
                một cảm giác đau khổ về thể xác, người hành giả ý thức: "ta đang 
                có một cảm giác đau khổ về thể xác". Khi có một cảm giác đau khổ 
                về tinh thần, người hành giả ý thức: "ta đang có một cảm giác 
                đau khổ về tinh thần". 
 
                - 
                
                          Khi có một cảm giác không khoái lạc cũng không đau khổ 
                về thể xác, người hành giả ý thức: "ta đang có một cảm giác 
                không khoái lạc cũng không đau khổ về thể xác". Khi có một cảm 
                giác không khoái lạc cũng không đau khổ về tinh thần, người hành 
                giả ý thức: "ta đang có một cảm giác không khoái lạc cũng không 
                đau khổ về tinh thần".
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về cảm thọ nơi cảm thọ, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên 
                trong và bên ngoài cảm thọ. Người ấy an trú trong sự quán niệm 
                về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình 
                sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi cảm thọ. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có cảm thọ đây", như thế đủ để phát khởi sự quán 
                chiếu và ý thức về cảm thọ. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ 
                gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc 
                đời. Người hành giả quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ là như vậy, 
                thưa các vị.
 
                - 
                
                          Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về tâm thức nơi tâm thức như thế nào? 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có tham dục, người hành giả ý thức là tâm 
                thức mình có tham dục. Khi tâm thức không có tham dục, người 
                hành giả ý thức là tâm thức mình không có tham dục. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có sân hận, người hành giả ý thức là tâm 
                thức mình có sân hận. Khi tâm thức không có sân hận, người hành 
                giả ý thức là tâm thức mình không có sân hận. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có si mê, người hành giả ý thức là tâm 
                thức mình có si mê. Khi tâm thức không có si mê, người hành giả 
                ý thức là tâm thức mình không có si mê. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có thu nhiếp, người hành giả ý thức là 
                tâm thức mình có thu nhiếp. Khi tâm thức có tán loạn, người hành 
                giả ý thức là tâm thức mình có tán loạn. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức trở thành rộng lớn, người hành giả ý thức 
                là tâm thức mình trở thành rộng lớn. Khi tâm thức trở thành hạn 
                hẹp, người hành giả ý thức là tâm thức mình trở thành hạn hẹp.
                
 
                - 
                
                          Khi tâm thức đạt đến trạng thái cao nhất, người hành 
                giả ý thức là tâm thức mình đạt đến trạng thái cao nhất. Khi tâm 
                thức không đạt đến trạng thái cao nhất, người hành giả ý thức là 
                tâm thức mình không đạt đến trạng thái cao nhất. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có định, người hành giả ý thức là tâm 
                thức mình có định. Khi tâm thức không có định, người hành giả ý 
                thức là tâm thức mình không có định. 
 
                - 
                
                          Khi tâm thức có giải thoát, người hành giả ý thức là 
                tâm thức mình có giải thoát. Khi tâm thức không có giải thoát, 
                người hành giả ý thức là tâm thức mình không có giải thoát.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về tâm thức nơi tâm thức, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc 
                bên trong và bên ngoài tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán 
                niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá 
                trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Hoặc người 
                ấy quán niệm rằng: "có tâm thức đây", như thế đủ để phát khởi sự 
                quán chiếu và ý thức về tâm thức. Người ấy không lệ thuộc vào 
                bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong 
                cuộc đời. Người hành giả quán niệm về tâm thức nơi tâm thức là 
                như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Nầy các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức như thế 
                nào? 
 
                - 
                
                          Trước hết, người hành giả quán niệm về năm hiện tượng 
                ngăn che như đối tượng  của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. 
                Quán niệm bằng cách nào? 
 
                - 
                
                          Khi có một niệm ái dục, người hành giả ý thức mình có 
                một niệm ái dục. Khi không có một niệm ái dục, người hành giả ý 
                thức mình không có một niệm ái dục. 
 
                - 
                
                          Khi một niệm ái dục chưa phát sanh, nay bắt đầu phát 
                sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm 
                ái dục đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức 
                được sự khử diệt ấy. Khi một niệm ái dục đã được khử diệt và 
                không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về 
                điều đó. 
 
                - 
                
                          Khi có một niệm sân hận, người hành giả ý thức mình có 
                một niệm sân hận. Khi không có một niệm sân hận, người hành giả 
                ý thức mình không có một niệm sân hận. 
 
                - 
                
                          Khi một niệm sân hận chưa phát sanh, nay bắt đầu phát 
                sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi một niệm 
                sân hận đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức 
                được sự khử diệt ấy. Khi một niệm sân hận đã được khử diệt và 
                không còn phát khởi lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về 
                điều đó.        
 
                - 
                Khi có 
                sự mê muội và buồn ngủ, người hành giả ý thức mình có sự mê muội 
                và buồn ngủ. Khi không có sự mê muội và buồn ngủ, người hành giả 
                ý thức mình không có sự mê muội và buồn ngủ. 
 
                - 
                
                          Khi sự mê muội và buồn ngủ chưa phát sanh, nay bắt đầu 
                phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự mê 
                muội và buồn ngủ đã phát sanh, đang được khử diệt, người hành 
                giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đã 
                được khử diệt và không còn phát khởi lại nữa, người hành giả 
                cũng ý thức được về điều đó. 
 
                - 
                
                          Khi có sự giao động bất an và hối hận, người hành giả 
                ý thức mình đang có sự giao động bất an và hối hận. Khi không có 
                sự giao động bất an và hối hận, người hành giả ý thức mình không 
                có sự giao động bất an và hối hận. 
 
                - 
                
                          Khi sự giao động bất an và hối hận chưa phát sanh, nay 
                bắt đầu phát sanh, người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. 
                Khi sự giao động bất an và hối hận đã phát sanh, đang được khử 
                diệt, người hành giả ý thức được sự khử diệt ấy. Khi sự giao 
                động bất an và hối hận đã được khử diệt và không còn phát khởi 
                lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó. 
                
 
                - 
                
                          Khi có sự nghi ngờ, người hành giả ý thức mình đang có 
                sự nghi ngờ. Khi không có sự nghi ngờ, người hành giả ý thức 
                mình không có sự nghi ngờ. 
 
                - 
                
                          Khi sự nghi ngờ chưa phát sanh, nay bắt đầu phát sanh, 
                người hành giả ý thức được sự sanh khởi ấy. Khi sự nghi ngờ đã 
                phát sanh, đang được khử diệt, người hành giả ý thức được sự khử 
                diệt đó. Khi sự nghi ngờ đã được khử diệt và không còn phát khởi 
                lại nữa, người hành giả cũng ý thức được về điều đó.
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên 
                trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của 
                tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh 
                khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá 
                trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có đối tượng của tâm thức đây", như thế đủ để phát 
                khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy 
                không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu 
                vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về năm 
                hiện tượng ngăn che như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của 
                tâm thức là như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Tiếp đó, người hành giả quán niệm về sự bám víu vào 
                năm uẩn như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. 
                Quán niệm bằng cách nào? 
 
                - 
                
                          Người hành giả quán niệm như sau: 
 
                - 
                
                          "đây là hình sắc, đây là sự phát sinh của hình sắc, 
                đây là sự hủy diệt của hình sắc". 
 
                - 
                
                          "đây là cảm thọ, đây là sự phát sinh của cảm thọ, đây 
                là sự hủy diệt của cảm thọ". 
 
                - 
                
                          "đây là tri giác, đây là sự phát sinh của tri giác, 
                đây là sự hủy diệt của tri giác". 
 
                - 
                
                          "đây là sự vận hành tâm tư, đây là sự phát sinh của sự 
                vận hành tâm tư, đây là sự hủy diệt của sự vận hành tâm tư".
                
 
                - 
                
                          "đây là ý thức phân biệt, đây là sự phát sinh của ý 
                thức phân biệt, đây là sự hủy diệt của ý thức phân biệt".
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên 
                trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của 
                tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh 
                khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá 
                trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có đối tượng của tâm thức đây", như thế đủ để phát 
                khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy 
                không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu 
                vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về sự bám 
                víu vào năm uẩn như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm 
                thức là như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Tiếp đó, người hành giả quán niệm về sáu giác quan và 
                sáu đối tượng của giác quan như đối tượng của tâm thức nơi đối 
                tượng của tâm thức. Quán niệm bằng cách nào? 
 
                - 
                
                          Người hành giả ý thức về mắt, ý thức về đối tượng của 
                mắt là hình sắc, ý thức về những ràng buộc tạo nên do mắt và 
                hình sắc. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay 
                đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được 
                khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát 
                khởi lại nữa. 
 
                - 
                
                          Người hành giả ý thức về tai, ý thức về đối tượng của 
                tai là âm thanh, ý thức về những ràng buộc tạo nên do tai và âm 
                thanh. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay 
                đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được 
                khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát 
                khởi lại nữa. 
 
                - 
                
                          Người hành giả ý thức về mũi, ý thức về đối tượng của 
                mũi là mùi hương, ý thức về những ràng buộc tạo nên do mũi và 
                mùi hương. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, 
                nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang 
                được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn 
                phát khởi lại nữa. 
 
                - 
                
                          Người hành giả ý thức về lưỡi, ý thức về đối tượng của 
                lưỡi là vị nếm, ý thức về những ràng buộc tạo nên do lưỡi và vị 
                nếm. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang 
                phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử 
                diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi 
                lại nữa. 
 
                - 
                Người 
                hành giả ý thức về thân, ý thức về đối tượng của thân là sự xúc 
                chạm, ý thức về những ràng buộc tạo nên do thân và sự xúc chạm. 
                Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát sanh, nay đang phát 
                sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay đang được khử diệt, 
                về những ràng buộc đã được khử diệt và không còn phát khởi lại 
                nữa. 
 
                - 
                
                          Người hành giả ý thức về tâm ý, ý thức về đối tượng 
                của tâm ý là tư tưởng, ý thức về những ràng buộc tạo nên do tâm 
                ý và tư tưởng. Người ấy ý thức về những ràng buộc chưa phát 
                sanh, nay đang phát sanh, về những ràng buộc đã phát sanh, nay 
                đang được khử diệt, về những ràng buộc đã được khử diệt và không 
                còn phát khởi lại nữa. 
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên 
                trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của 
                tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh 
                khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá 
                trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có đối tượng của tâm thức đây", như thế đủ để phát 
                khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy 
                không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu 
                vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về sáu 
                giác quan và sáu đối tượng của giác quan như đối tượng của tâm 
                thức nơi đối tượng của tâm thức là như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Tiếp đó, người hành giả quán niệm về bảy yếu tố của sự 
                giác ngộ như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. 
                Quán niệm bằng cách nào? 
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố chánh niệm, người hành giả ý thức là 
                mình đang có chánh niệm. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình đang 
                có chánh niệm". Khi không có chánh niệm, người hành giả ý thức 
                là mình không có chánh niệm. Người ấy ý thức về chánh niệm chưa 
                phát sanh, nay đang phát sanh, về chánh niệm đã phát sanh, nay 
                đang thành tựu. 
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố trạch pháp, người hành giả ý thức là 
                mình đang có sự quyết trạch về các pháp. Người ấy quán niệm 
                rằng: "tâm mình đang có sự quyết trạch về các pháp". Khi không 
                có sự quyết trạch về các pháp, người hành giả ý thức là mình 
                không có sự quyết trạch về các pháp. Người ấy ý thức sự quyết 
                trạch về các pháp chưa phát sanh, nay đang phát sanh, về sự 
                quyết trạch về các pháp đã phát sanh, nay đang thành tựu. 
                
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố tinh tấn, người hành giả ý thức là mình 
                đang có sự tinh tấn. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình đang có 
                sự tinh tấn". Khi không có sự tinh tấn, người hành giả ý thức là 
                mình không có sự tinh tấn. Người ấy ý thức về sự tinh tấn chưa 
                phát sanh, nay đang phát sanh, về sự tinh tấn đã phát sanh, nay 
                đang thành tựu. 
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố hoan hỷ, người hành giả ý thức là mình 
                đang có sự hoan hỷ. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình đang có 
                sự hoan hỷ". Khi không có sự hoan hỷ, người hành giả ý thức là 
                mình không có sự hoan hỷ. Người ấy ý thức về sự hoan hỷ chưa 
                phát sanh, nay đang phát sanh, về sự hoan hỷ đã phát sanh, nay 
                đang thành tựu. 
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố khinh an, người hành giả ý thức là mình 
                đang có sự khinh an. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình đang có 
                sự khinh an". Khi không có sự khinh an, người hành giả ý thức là 
                mình không có sự khinh an. Người ấy ý thức về sự khinh an chưa 
                phát sanh, nay đang phát sanh, về sự khinh an đã phát sanh, nay 
                đang thành tựu. 
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố định, người hành giả ý thức là mình đang 
                có định. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình đang có định". Khi 
                không có định, người hành giả ý thức là mình không có định. 
                Người ấy ý thức về sự định tâm chưa phát sanh, nay đang phát 
                sanh, về sự định tâm đã phát sanh, nay đang thành tựu. 
                
 
                - 
                
                          Khi có yếu tố buông xả, người hành giả ý thức là mình 
                có buông xả. Người ấy quán niệm rằng: "tâm mình có buông xả". 
                Khi không có buông xả, người hành giả ý thức là mình không có 
                buông xả. Người ấy ý thức về sự buông xả chưa phát sanh, nay 
                đang phát sanh, về sự buông xả đã phát sanh, nay đang thành tựu.
                
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên 
                trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của 
                tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh 
                khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá 
                trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có đối tượng của tâm thức đây", như thế đủ để phát 
                khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy 
                không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu 
                vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về bảy 
                yếu tố của sự giác ngộ như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng 
                của tâm thức là như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Tiếp đó, người hành giả quán niệm về bốn sự thật cao 
                quý như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức. Quán 
                niệm bằng cách nào? 
 
                - 
                
                          Khi sự kiện là đau khổ, người hành giả quán niệm: "đây 
                là đau khổ". Khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến đau khổ, người 
                hành giả quán niệm: "đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ". Khi sự 
                kiện là sự chấm dứt đau khổ, người hành giả quán niệm: "đây là 
                sự chấm dứt đau khổ". Khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm 
                dứt đau khổ, người hành giả quán niệm: "đây là con đường đưa đến 
                sự chấm dứt đau khổ".
 
                - 
                
                          Và như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm 
                về đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm thức, hoặc bên 
                trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên trong và bên ngoài đối tượng của 
                tâm thức. Người ấy an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh 
                khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc quá trình sinh khởi và quá 
                trình hủy diệt nơi đối tượng của tâm thức. Hoặc người ấy quán 
                niệm rằng: "có đối tượng của tâm thức đây", như thế đủ để phát 
                khởi sự quán chiếu và ý thức về đối tượng của tâm thức. Người ấy 
                không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi tham đắm, cũng không bám víu 
                vào bất cứ gì trong cuộc đời. Người hành giả quán niệm về bốn sự 
                thật cao quý như đối tượng của tâm thức nơi đối tượng của tâm 
                thức là như vậy, thưa các vị.
 
                - 
                
                          Nầy các vị, người hành giả nào thực hành được bốn lãnh 
                vực quán niệm trên trong bảy năm, người ấy có thể đạt được quả 
                vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp này. Hoặc nếu còn dư báo 
                thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 
 
                - 
                
                          Nầy các vị, đừng nói gì đến bảy năm. Người nào thực 
                hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong sáu năm, năm năm, 
                bốn năm, ba năm, hai năm, hoặc một năm, người ấy cũng có thể có 
                khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp 
                này. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn 
                trở lại. 
 
                - 
                
                          Nầy các vị, đừng nói gì đến một năm. Người nào thực 
                hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong bảy tháng, sáu 
                tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, 
                hoặc nửa tháng, người ấy cũng có thể có khả năng đạt được quả vị 
                chánh trí ngay nơi đây và trong kiếp nầy. Hoặc nếu còn dư báo 
                thì cũng sẽ đạt được quả vị không còn trở lại. 
 
                - 
                
                          Nầy các vị, đừng nói gì đến nửa tháng. Người nào thực 
                hành được bốn lãnh vực quán niệm trên trong một tuần, người ấy 
                cũng có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay nơi đây 
                và trong kiếp nầy. Hoặc nếu còn dư báo thì cũng sẽ đạt được quả 
                vị không còn trở lại. 
 
                - 
                
                          Ðó là lý do tại sao mà tôi đã nói: "đây là con đường 
                duy nhất để thanh tịnh thân tâm, vượt thắng phiền não, diệt trừ 
                ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết bàn - đó là con 
                đường của bốn lãnh vực quán niệm". 
 
                - 
                
                          Ðức Phật đã nói như vậy. Các vị hành giả hoan hỷ ghi 
                nhận và thực tập theo lời Ngài.
 
               
              
              
                - --o0o--
 
               
              
              
             
             | 
   
           
               
       
       |