MÓN QUÀ CỦA LÒNG BIẾT ƠN
                    
                    
                    
                    Ajahn Sumedho - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Ajahn Sumedo là trụ trì của Trung Tâm 
                    Phật giáo Amaravati ở Anh quốc và là vị đệ tử Tây phương kỳ 
                    cựu nhất của đại thiền sư quá cố Ajahn Chah người Thái Lan.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ở đây thiền sư Ajahn Sumedho ghi lại niềm hoan 
                    hỷ của ông khi cảm nhận được công ơn của cha mẹ và thầy tổ.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu 
                    một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm 
                    tuổi; . . .    Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha 
                    mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với 
                    bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay 
                    trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, 
                    cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, họ nuôi dưỡng chúng, cho 
                    chúng cơm áo, sinh chúng ra đời.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không 
                    có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào 
                    lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng 
                    dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan 
                    tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; 
                    đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an 
                    trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, 
                    là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Tăng Chi Bộ Kinh, HT Thích Minh Châu, Chương 2, 
                    Phẩm Tâm Thăng Bằng)  
                  
                  
                    
                    
                                Cha tôi mất sáu năm trước đây.  
                    Lúc đó ông đã chín mươi tuổi.  Ông chưa hế bày tỏ tình 
                    thương hay tình cảm tử tế nào đối với tôi.  Vì thế từ thời 
                    thơ ấu tôi đã có cảm giác rằng ông không hề thương tôi.  Tôi 
                    mang cảm giác này đi gần suốt cuộc đời mình.  Tôi cũng chưa 
                    bao giờ có tình cảm yêu thương, hay bất cứ liên hệ thân 
                    thiết nào với cha tôi.  Lúc nào ông cũng máy móc, “Chào con, 
                    rất vui được gặp con”.  Hình như ông cảm thấy thỏa mái với 
                    sự có mặt của tôi.  Tôi nhớ, mỗi khi tôi trở về nhà với tư 
                    cách là người tu sĩ Phật giáo, ông thường nói, “Hãy nhớ, đây 
                    là nhà của cha, con phải làm theo ý cha”.  Đó là câu chào 
                    của ông –khi tôi đã gấn năm mươi tuổi đầu!  Tôi không biết 
                    ông nghĩ là tôi sẽ làm gì. 
                  
                  
                    
                    
                                Trước thời kinh tế khủng hoảng, cha tôi là một 
                    nghệ sĩ có nhiều triển vọng.  Cuộc khủng hoảng đã tước đi 
                    tất cả mọi thứ mà cha mẹ tôi đã có, vì thế cha tôi phải đi 
                    bán giày để lo cho chúng tôi.  Rồi chiến tranh thế giới thứ 
                    hai bùng nổ, cha tôi đã quá tuổi gia nhập quân đội.  Nhưng 
                    ông rất muốn ủng hộ cuộc chiến đó bằng cách này hay cách 
                    khác, nên ông trở thành một công nhân đóng tàu ở Seattle.  
                    Ông không thích công việc đó, nhưng đó là cách tốt nhất mà 
                    ông có thể làm để ủng hộ cuộc chiến tranh đó.  Sau thế chiến, 
                    ông trở về với công việc bán giày và trở thành quản lý của 
                    một cửa hàng bán sĩ các loại giày.  Ông cũng không thật sự 
                    yêu thích công việc đó, nhưng ông cảm thấy mình không còn 
                    trẻ để có thể tìm được một công việc làm nào khác.  Ông đã 
                    không màng đến các sở thích của mình để lo cho sự sống của 
                    mẹ, chị tôi và tôi. 
                                Khi tôi lên đại học, vào những năm 1950, môn học 
                    thời thượng lúc bấy giờ là triết học.  Lúc đó những người 
                    trẻ tuổi đều có xu hướng đổ lỗi cho người mẹ về tất cả những 
                    thất bại, bất như ý trong cuộc đời của họ.  Người mẹ là đối 
                    tượng bị nhắm vào, bị gán là nguyên nhân của mọi khổ đau của 
                    con cái họ.  Lúc đó tôi chưa thể nhận thức được rằng khổ đó 
                    là điều không thể tránh trong cuộc sống.  Dĩ nhiên mẹ tôi 
                    cũng không phải là người hoàn toàn, nên hiển nhiên là có 
                    nhiều điều bà đã làm không thật tốt.  Nhưng nói chung, sự hy 
                    sinh, tận tụy, hết lòng thương yêu, lo lắng –không có gì 
                    thiếu sót- của mẹ tôi, tất cả đều là nhằm để làm cho cuộc 
                    sống của cha tôi, chị tôi và tôi được nhiều hạnh phúc trong 
                    khả năng mà bà có thể mang đến.  Mẹ tôi không đòi hỏi gì 
                    riêng cho bản thân, và những khi tôi hồi tưởng lại những 
                    điều này, thì katannu (Pali), để chỉ cho lòng hàm ân đối với 
                    cha mẹ, lại phát khởi trong tâm tôi.
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ nghĩ đến những 
                    điều tốt đẹp mà cha mẹ, các vị thầy, thân hữu, hay bất cứ ai, 
                    đã làm cho ta; và phải chú tâm làm điều này, vun trồng nó, 
                    thay vì chỉ để nó xảy đến một cách tình cờ, ngẫu nhiên.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhiều đệ tử của tôi, những người đầy lòng oán 
                    hận đối với cha mẹ họ, đã hỏi tôi họ phải làm thế nào để 
                    phát triển lòng biết ơn đối với cha mẹ.  Dạy về lòng từ bi, 
                    hay metta, một cách quá cực đoan có thể phản tác dụng, khiến 
                    họ thêm sân hận.  Tôi nhớ có một phụ nữ, dự một trong các 
                    khóa tu của tôi, mỗi lần nói đến việc phải rải tâm từ đến 
                    cho cha mẹ thì bà lại nổi giận.  Sau đó bà lại cảm thấy rất 
                    ân hận.  Mỗi lần nghĩ về mẹ mình là bà chỉ cảm thấy oán hận.  
                    Đó là vì bà chỉ sử dụng lý trí của mình; bà muốn thực hành 
                    từ bi, nhưng trong lòng không có chút tình cảm từ bi nào.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Điều quan trọng là ta nhận ra được sự xung đột 
                    giữa tình cảm và lý tri.  Lý trí bảo rằng chúng ta cần tha 
                    thứ cho kẻ thù, hay thương yêu cha mẹ mình, nhưng trong lòng 
                    chúng ta lại nghĩ: “Tôi không thể tha thứ cho họ vì những gì 
                    họ đã gây ra cho tôi”.  Vì thế, chúng ta chỉ cảm thấy oán 
                    giận, hờn trách, hoặc chúng ta lại tự trách: “Tôi thiệt là 
                    người tồi tệ vì tôi không thể tha thứ cho người.  Chắc có gì 
                    đó không ổn đối với tôi”.  Khi điều đó xảy ra, tôi thấy việc 
                    sử dụng thiền tâm từ đối với chính các cảm xúc của mình, rất 
                    hữu ích.     Nếu trong lòng chúng ta nghĩ rằng cha mẹ đã 
                    không thương yêu, tử tế với mình, thì ta nên có tâm từ đối 
                    với tình cảm đó; ta có thể nhìn, với tâm không phán đoán, 
                    rằng đó thực sự là những tình cảm đang xảy ra trong lòng, để 
                    chấp nhận tình cảm đó với lòng kiên nhẫn. 
                  
                  
                    
                    
                                Một khi tôi đã bắt đầu chấp nhận sự đối kháng 
                    của tôi đối với cha, hơn là đè nén nó, tôi đã có thể dần dần 
                    giải tỏa điều đó.  Khi chúng ta giải quyết vấn đề gì đó với 
                    tâm chánh niệm, chúng ta có thể buông xả, và giải thoát bản 
                    thân ra khỏi sự trói buộc của nó.  Việc giải tỏa những xung 
                    đột như thế khiến ta càng có nhiều suy gẫm thêm về cuộc đời.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống 
                    vô nghĩa.  Nếu cuộc đời chỉ là một chuỗi của những lời oán 
                    than về sự bất công, về những thua thiệt mà ta đã gặp phải, 
                    nhưng lại không nhớ đến những may mắn đã từng đến với chúng 
                    ta, thì chúng ta  chắc chắn sẽ bị trầm cảm -một căn bệnh 
                    thường gặp trong xã hội ngày nay. Chúng ta sẽ khó tìm được 
                    hạnh phúc trong cuộc sống: chúng ta sẽ nghĩ rằng cái khổ của 
                    mình là vĩnh hằng. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi trở thành một tu sĩ Phật giáo ở Thái Lan, 
                    tôi may mắn được gặp vị thầy, Luang Por Chah, mà nhiều người 
                    biết đến với tên, Thiền sư Ajahn Chah, người đã là nguyên 
                    nhân để tôi đầy lòng hàm ân với cuộc đời.  Lúc đó tôi khoảng 
                    ba mươi ba hay ba mươi bốn tuổi, và tôi phải thú nhận rằng 
                    tôi chưa hề có lòng hàm ân trong cuộc đời.  Tôi vẫn còn chấp 
                    ngã nặng nề, lúc nào cũng là tôi muốn gì, tôi nghĩ gì.  Tuy 
                    nhiên, sau một thời gian tu tập, khoảng năm thứ sáu trong 
                    cuộc đời tu của mình, tôi đã có được một trải nghiệm sâu sắc, 
                    một trải nghiệm được coi như là katannu katavedia, hay lòng 
                    biết ơn đối với cha mẹ mình. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi đã xuất gia nhiều năm trước khi được gặp 
                    ngài Ajahn Chah.  Tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng vào Phật 
                    giáo, cũng như rất sốt sắng để học và thực hành Phật pháp.  
                    Nhưng tận sâu thẳm vẫn là cái cảm giác của ngã chấp, của tôi 
                    tu học, tôi thực hành.  Khi xuất gia, tôi vẫn còn cầu mong: 
                    “Tôi muốn được giải thoát.  Tôi muốn được giác ngộ”.  Tôi 
                    không quan tâm đến người khác, đến cha mẹ, hay ngay cả đến 
                    thiền sư Ajahn Chah, là người đang giúp tôi tu học.  Tôi 
                    cũng nghĩ là ngài rất tốt vì đã giúp đở tôi, nhưng trong 
                    lòng tôi không có cảm giác hàm ân. 
                                Tôi nghĩ rằng đó là chuyện tự nhiên, rằng cuộc 
                    đời phải mang đến cho tôi những thứ đó -một thứ ngã mạn khó 
                    chấp nhận.  Khi chúng tôi lớn lên trong sự đầy đủ của một 
                    gia đình thuộc giai cấp trung lưu, chúng tôi đã coi mọi thứ 
                    là chuyện đương nhiên.  Cha mẹ tôi đã làm việc cực khổ để 
                    chúng tôi được sống thoải mái, nhưng tôi luôn nghĩ là họ 
                    chưa làm đủ bổn phận, và rằng đáng lý ra tôi phải được đầy 
                    đủ hơn nữa.  Dầu đó không phải là những điều tôi nói ra, 
                    nhưng thái độ tôi tỏ rõ điều đó, rằng tôi xứng đáng được có 
                    tất cả mọi thứ: người khác phải chu cấp cho tôi tất cả; cha 
                    mẹ tôi phải mang đến cho tôi một cuộc sống tốt nhất, vì tôi 
                    muốn được như thế.  Do đó, tôi nghĩ bổn phận của thiền sư 
                    Ajahn Chah là phải dạy dỗ, dìu dắt tôi! 
                  
                  
                    
                    
                                Ở Thái Lan, tôi đã siêng năng tu tập và quyết 
                    chí theo đuổi cuộc sống xuất gia của mình.  Sau khi đã tham 
                    dự năm mùa an cư (vassas), người tu sĩ trẻ không còn là sa 
                    di nữa, mà được tự do rời khỏi tu viện.  Tôi cảm thấy được ở 
                    bên thầy cũng tốt, nhưng tôi cũng muốn tự đi con đường riêng 
                    của mình.  Từ miền đông bắc tôi đi đến trung tâm Thái Lan.  
                    Sau mùa an cư, tôi hành hương đến Ấn Độ.  Đó là vào khoảng 
                    1974, và tôi quyết định đi như một tudong –một khất sĩ lang 
                    thang từ chỗ này đến chỗ kia, như một hình thức tu khổ hạnh 
                    trong Phật giáo.  Có người giúp tôi tấm vé để đi từ Bangkok 
                    đến Calcutta, để rồi khi đến Calcutta, tôi chỉ có bình bát, 
                    y áo, và không tiền, đúng theo điều luật của người tu.  Ở 
                    Thái Lan thì dễ rồi, nhưng buổi ban đầu ở Ấn Độ, với viễn 
                    ảnh lang thang đây đó mà không có gì, ngoài bình bát trong 
                    tay, là điều khá đáng sợ.  Năm tháng ở Ấn Độ đúng là một 
                    cuộc phiêu lưu đối với tôi, khiến tôi có nhiều kỷ niệm rất 
                    thú vị về nơi chốn ấy.  Với cuộc sống làm người khất sĩ, tôi 
                    không gặp vấn đề gì ở Ấn Độ.  Trong tất cả các quốc gia, dĩ 
                    nhiên là nó phải ổn ở đây, vì đó là nơi Đức Phật đã sống và 
                    đã hoằng pháp.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng tôi bắt đầu nghĩ đến thiền sư Ajahn Chah 
                    và nhận ra lòng tử tế mà ngài đã dành cho tôi.  Ngài đã chấp 
                    nhận cho tôi làm đệ tử, chăm lo, truyền dạy Phật pháp, và 
                    giúp đở tôi bẳng nhiều cách.  Ngài còn là tấm gương để tôi 
                    soi vào.  Một vị tỳ kheo xứng đáng phải giống như ngài Ajahn 
                    Chah.  Một người toàn vẹn, người đã tạo cho tôi nguồn cảm 
                    hứng, người mà tôi rất muốn noi theo –và tôi phải thú nhận 
                    rằng tôi không có cảm giác đó đối với nhiều người khác.  Tôi 
                    không hề ấn tượng với những mẫu người được tôn vinh ở Mỹ như 
                    John Wayne, tổng thống Eisenhower hay Richard Nixon.  Các 
                    ngôi sao điện ảnh hay thể thao cũng được coi trọng, nhưng 
                    không có ai khiến tôi phải cảm phục.
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng tôi đã tìm được người ấy ở Thái Lan.  Ngài 
                    là người rất nhỏ thó; tôi đứng cao vượt hẳn ngài.  Điều 
                    khiến tôi ngạc nhiên là khi chúng tôi ở bên nhau, sự có hiện 
                    diện của ngài như bao trùm chúng tôi.  Có điều gì đó ở ngài 
                    khiến người ta muốn được gần gủi.  Vì thế mỗi buổi chiều, 
                    hay bất cứ khi nào có thể, tôi lại tự đi tìm đến thất của 
                    ngài; tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội nào để được gần gủi bên 
                    ngài.  Có lần tôi hỏi ngài có gì để lôi cuốn người ta đến 
                    vậy.  Ngài đã trả lời, “Ta có đá nam châm”.  Ngài đã dùng 
                    sức hút đó để lôi cuốn người ta đến để ngài có thể dạy cho 
                    họ Phật pháp.  Đó là cách ngài sử dụng đặc tính đó của mình: 
                    không phải để thõa mản tự ngã, mà là để giúp đở người khác.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật, sau khi đạt được giác ngộ, lúc đầu đã 
                    nghĩ rằng Phật pháp quá cao siêu để chúng sanh có thể thấu 
                    đạt, nên không thể truyền dạy cho họ.  Sau đó, theo truyền 
                    thuyết, một trong các vị trời đã đến và thưa, “Bạch Thế Tôn, 
                    xin hãy vì những chúng sanh có ít bụi trong mắt, mà giảng 
                    Pháp”.  Lúc đó Đức Phật với tâm siêu việt của mình, quán sát 
                    xem ai là những người có thể hiểu được Pháp.  Đức Phật đã 
                    nghĩ đến các vị thầy cũ của mình, nhưng Đức Phật biết rằng 
                    cả hai đã qua đời.  Sau đó Đức Phật nghĩ đến năm người bạn 
                    đồng tu với Ngài thuở trước, những người đã xa lánh ngài.  
                    Với lòng từ bi, Đức Phật lên đường đi tìm năm người bạn đó, 
                    và đã giảng cho họ nghe về thuyết Tứ Diệu Đế.  Điều này 
                    khiến tôi cảm thấy katannu katavedita đối với Đức Thế Tôn.  
                    Thật là diệu kỳ: như tôi đây, một kẻ sống ở thế kỷ này –lại 
                    có duyên lành được lắng nghe Phật pháp, và Phật pháp tinh 
                    nguyên vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay. 
                  
                  
                    
                    
                                Việc được có một vị thấy đang tại thế (ND: 
                    ngài Ajahn Chah đã mất năm 1992) như thiền sư Ajahn Chah 
                    không giống như việc bạn tôn thờ một vị tiên tri đã sống 
                    cách đây hai ngàn năm trăm năm, mà thực sự là tôi được thừa 
                    hưởng sự truyền thừa từ chính Đức Thế Tôn.  Có lẽ do được 
                    đến viếng những thánh tích Phật giáo, mà lòng hàm ân của tôi 
                    bắt đầu trở nên rất mãnh liệt.  Lúc đó, khi nghĩ đến thiền 
                    sư Ajahn Chah ở Thái Lan, tôi nhớ rằng tôi đã nghĩ: “Ta đã ở 
                    đủ năm năm rồi, giờ ta phải ra đi.  Ta sẽ chu du đây đó, 
                    thám hiểm vài nơi, làm những gì ta muốn, thoát khỏi sự quan 
                    sát của ông thầy già”.  Tôi nhận ra đúng là tôi đã bỏ chạy 
                    khỏi nơi ấy. 
                                Khi cảm giác hàm ân này trào dâng trong lòng, 
                    tôi chỉ muốn chạy về Thái Lan và phủ phục dưới chân thiền sư 
                    Ajahn Chah.  Làm sao bạn có thể đền đáp ơn của một vị thầy 
                    như thế?  Tôi không có tiến bạc gì, mà đó cũng không phải là 
                    thứ Thầy tôi cần.  Sau đó tôi nghĩ rằng cách tốt nhất tôi có 
                    thể làm để thầy tôi vui là trở thành một tỳ kheo chân chính, 
                    và trở về đó để giúp đỡ thầy.  Tôi sẽ làm bất cứ điều gì 
                    thầy tôi muốn.  Với ý nghĩ đó, tôi đã trở về Thái Lan, sau 
                    năm tháng ở Ấn Độ, và đến đảnh lễ thầy.  Đó là một sự cúng 
                    dường đầy hoan hỷ, không phải là điều bó buộc, vì nó đã xuất 
                    phát từ lòng hàm ân (katannu), lòng biết ơn đối với những 
                    duyên lành tôi đã được tiếp nhận.
                  
                  
                    
                    
                                Từ đó, tôi nhận thấy rằng việc hành thiền của 
                    tôi bắt đầu có tiến bộ.  Lòng ích kỷ hẹp hòi đã biến mất 
                    trong tôi: việc tôi cố gắng mong cầu, ước muốn được hòa hợp, 
                    được tu tập, được có một cuộc sống yên lành, giải thoát khỏi 
                    mọi bổn phận.  Khi tôi buông bỏ tất cả những ham muốn này, 
                    thì mọi thứ dường như lại ổn thõa.  Những gì trước đây khó 
                    khăn đối với tôi, như là việc định tâm, đã trở nên dễ dàng 
                    hơn, và tôi cảm thấy cuộc sống trở nên an lạc hơn đối với 
                    tôi. 
                                Lần cuối cùng khi đến thăm cha tôi, tôi đã quyết 
                    định sẽ tạo ra một không khí ấm cúng giữa hai chúng tôi 
                    trước khi người ra đi.  Trong thập niên cuối đời của cha tôi, 
                    ông rất đau khổ vì bệnh tật.  Ông bị thấp khớp nặng, nên 
                    luôn đau đớn, cộng thêm chứng bệnh Parkinson.  Dần dần, 
                    chúng tôi phải đem ông vào viện dưỡng lão.  Ông không còn có 
                    thể cử động được.  Ông còn có thể trò chuyện và chuyển động 
                    mắt, nhưng các phần khác của cơ thể đều bất động.  Ông rất 
                    đau khổ vì những gì đã xảy ra cho ông, vì trước đó ông là 
                    một người khỏe mạnh, không cần nhờ vã đến ai. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi gặp lại ông, thấy cơ thể ông cần được xoa 
                    bóp, nên tôi nói, “Để con xoa bóp chân ba”.  “Không, con 
                    không cần phải làm thể”.  “Ba cần phải được xoa bóp, nếu 
                    không nằm một chỗ sẽ bị hâm da.  Con thực sự muốn làm thế mà”.  
                    Cha tôi vẫn cố từ chối, nhưng tôi thấy ông có vẻ không còn 
                    quyết liệt nữa.  “Cần phải làm thế ba à”, tôi nói.  “Con 
                    thực sự muốn làm thế à?” ông hỏi tôi.  “Dạ phải”. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi bắt đầu xoa bóp chân, đùi, cổ, vai, tay và 
                    mặt ông; ông thật sự thích thú sự gần gủi này.  Đó là lần 
                    đầu tiên ông được chăm sóc như thế.  Sự xúc chạm này đầy ý 
                    nghĩa, đó cũng là một cách biểu hiện tình cảm.  Và tôi bắt 
                    đầu nhận ra rằng cha tôi thực sự rất thương yêu tôi, nhưng 
                    ông đã không biết làm sao diễn tả điều đó.  Tôi cảm thấy nhẹ 
                    nhỏm và tràn đầy lòng biết ơn. 
                  
                  
                    
                    
                                LỜI DẠY CỦA THIỀN SƯ AJAHN CHAH VỀ CHA MẸ:
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đôi khi những lời dạy về sinh, lão, bịnh, tử, 
                    không được người ta sẳn sàng tiếp nhận.  Nhất là ở phương 
                    Tây, khi bạn bắt đầu nói về những điều này, thì người ta sẽ 
                    đứng lên, bỏ đi.  Họ không muốn già.  Nên những người già 
                    thường bị bỏ rơi. 
                  
                  
                    
                    
                                Ở các nước phương Tây, hình như tập tục của họ 
                    là, dẹp bỏ người già qua một bên để người trẻ có thể lo cho 
                    cuộc sống của riêng họ.  Dĩ nhiên là những người trẻ này, 
                    rồi cũng già thôi, rồi cũng đến phiên họ bị bỏ rơi.  Khi còn 
                    trẻ, chúng ta cần quán sát và suy gẫm về người già.  Đó là 
                    nghiệp, có phải không?  Tôi đã cố gắng giải thích điều này 
                    với những người Tây phương, rằng nếu họ bỏ rơi người khác, 
                    sau này họ cũng sẽ bị bỏ rơi.  Khi già, chúng ta nên nghĩ 
                    đến người trẻ.  Và người trẻ nên nghĩ đến người già.  Tất cả 
                    đều tương quan nhau, giống như những mắt xích trong một sợi 
                    dây xích. 
                  
                  
                    
                    
                                 
                    Paul Breiter chuyển ngữ từ tiếng Thái.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ sang tiếng Việt. 
                    (A Gift of Gratitude,  Tricycle Review, Winter 2006)