ĐỊNH NGHĨA NIỆM
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    MINDFULNESS DEFINED
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Tỳ Khưu Thanissaro, Việt dịch: TN. Chân Giải Nghiêm
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                     Chánh niệm về hơi thở nghĩa là sao? Rất 
                    giản dị: luôn đặt hơi thở trong tâm. Luôn nhớ đến hơi thở 
                    mỗi khi thở vào, mỗi khi thở ra. Học giả người Anh dùng từ 
                    “mindfulness” để dịch chữ sati từ tiếng Pali ra tiếng Anh có 
                    lẽ đã chịu ảnh hưởng bởi lời cầu nguyện trong Anh Giáo “to 
                    be ever mindful of the needs of others” – nghĩa là luôn nhớ 
                    đến nhu yếu của kẻ khác. Cho dù từ “mindful” – trong cách 
                    dịch của người Anh - có thể đã được rút ra từ văn cảnh Thiên 
                    chúa giáo, Đức Phật đã đích thân định nghĩa sati (niệm) là 
                    khả năng nhớ qua việc cắt nghĩa chức năng của niệm trong 
                    việc tu tập thiền bằng bốn satipatthanas, hay niệm xứ.
                    
                  
                  
                    
                    
                                    “Và thế nào là niệm (sati) căn? Trường 
                    hợp một tì khưu, một đệ tử của bậc thánh, có chánh niệm, kỹ 
                    càng từng chút nhỏ nhiệm, nhớ và có khả năng gợi lại trong 
                    tâm những việc đã làm và nói từ lâu. (Và từ đây bắt đầu công 
                    thức tu tập satipatthana (tứ niệm xứ)J Vị ấy duy trì sự quán 
                    thân trong chính thân - nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm - 
                    gạt sang một bên những tham ưu đối với thế gian. Vị ấy duy 
                    trì sự quán thọ trong chính thọ… quán tâm trong chính tâm… 
                    quán các tâm sở (phẩm chất của tâm) trong chính tự thân của 
                    chúng - nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm - gạt sang một bên 
                    những tham ưu đối với thế gian.” -
                    
                    SN 48.10
                    
                   
                  
                    
                    
                                    Bài kinh đầy đủ về satipatthanas (DN 
                    22) bắt đầu bằng các hướng dẫn về phép niệm hơi 
                    thở. Các chức năng như “nhận diện đơn thuần hơi thở,” hay 
                    “chấp nhận hơi thở,” v.v… mà các vị thầy đương đại bảo với 
                    chúng ta là vai trò của niệm, kỳ thực là những chức năng của 
                    các phẩm chất khác của tâm (tâm sở). Các phẩm chất này không 
                    tự động nằm trong niệm (sati), nhưng ta phải tùy chỗ đưa 
                    chúng vào. 
                   
                  
                    
                    
                                   Một phẩm chất luôn luôn thích hợp trong việc 
                    củng cố niệm là sự tỉnh thức hay tỉnh giác. Sự tỉnh giác, 
                    tiếng Pali là Sampajañña, là một thuật ngữ khác cũng thường 
                    bị hiểu lầm. Từ này không có nghĩa là nhận thức thụ động về 
                    hiện tại, hay hiểu về hiện tại một cách thụ động, không có 
                    sự chọn lựa. Các ví dụ trong Kinh Tạng cho thấy sampajañña 
                    có nghĩa là là nhận thức về những gì mình đang làm trong các 
                    hành động (nghiệp) về thân và về ý. Nói cho cùng, nếu ta 
                    muốn đi đến cái hiểu về chuyện ta đang tạo khổ như thế nào, 
                    thì chỗ chú tâm chính của chúng ta bao giờ cũng phải là: ta 
                    đang thực sự làm gì lúc này. Đó là vì sao chánh niệm và tỉnh 
                    giác phải luôn đi kèm với nhau trong lúc hành thiền. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    Trong Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutta), 
                    hai phẩm chất này được kết hợp với phẩm chất thứ ba là nhiệt 
                    tâm. Nhiệt tâm có nghĩa là luôn chuyên chú nơi những gì mình 
                    làm, cố gắng hết lòng để làm việc ấy một cách hay nhất. Điều 
                    này không có nghĩa là lúc nào mình cũng phải căng thẳng, cực 
                    nhọc, nó chỉ có nghĩa là mình không ngừng phát triển các 
                    thói quen tốt và từ bỏ các tập khí xấu. Nên nhớ rằng, trong 
                    bát chánh đạo, chánh niệm phát sinh từ chánh tinh tấn. Chánh 
                    tinh tấn là nỗ lực để hoàn thiện. Niệm đi theo hỗ trợ cho nỗ 
                    lực ấy bằng cách nhắc ta kiên trì, không thối thất giữa 
                    chừng. 
                  
                  
                    
                    
                                    Ba phẩm chất (chánh niệm, tỉnh giác, nhiệt 
                    tâm) này đều đặt trọng tâm vào cái mà đức Phật gọi là yoniso 
                    manisikara, như lý tác ý - sự chú ý thích đáng 
                    (phù hợp với lẽ đạo.) Xin lưu ý: chú ý thích đáng, 
                    chứ không phải chú ý đơn thuần. Đức Phật khám đã khám phá ra 
                    rằng cách chúng ta để ý đến sự vật được quyết định bởi những 
                    chuyện chúng ta xem là quan trọng: những câu hỏi ta mang vào 
                    việc tu tập, những vấn đề ta muốn giải quyết qua sự tu tập. 
                    Không có sự chú ý nào có thể gọi là đơn thuần hay không 
                    không cả. Nếu trên đời không có vấn đề gì cả, thì mình có 
                    thể chạy theo bất cứ những gì đi tới, không cần chọn lựa gì 
                    cả. Nhưng sự thật là có một vấn đề lớn nằm ngay giữa mỗi 
                    việc mình làm, đó là: cái khổ đến từ việc hành động trong vô 
                    minh. Đây là lý do vì sao Đức Phật không bảo mình hãy nhìn 
                    mỗi phút mỗi giây bằng con mắt của một người mới bước vào 
                    đời. Mình phải luôn đặt trong tâm vấn đề khổ và sự chấm 
                    dứt khổ. 
                  
                  
                    
                    
                                    Bằng không, phi như lý tác ý - sự chú 
                    ý không chính đáng - sẽ len vào gây chướng ngại, 
                    chẳng hạn như chú tâm vào những câu hỏi như “Tôi là ai?”, 
                    “Tôi có ngã hay không?” - những câu hỏi dính dáng đến sự 
                    hiện hữu và bản ngã. Những câu hỏi ấy, Đức Phật nói, đưa 
                    mình vào rừng rậm của kiến (quan niệm), và làm cho mình 
                    vướng vào gai nhọn. Những câu hỏi đưa mình đến giải thoát 
                    đặt trọng tâm vào sự hiểu biết về khổ, sự buông bỏ nhân khổ, 
                    và sự hành trì con đường đưa đến sự chấm dứt khổ. Ước muốn 
                    tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này là điều khiến mình 
                    tỉnh giác với những hành động qua thân, ngữ, ý của mình, và 
                    khiến mình nhiệt tâm sốt sắn làm các nghiệp ấy một cách 
                    thiện hảo. 
                  
                  
                    
                    
                                    Chánh niệm là yếu tố giúp mình luôn nhớ đến 
                    như lý tác ý. Các nghiên cứu của ngành tâm lý học hiện đại 
                    đã cho thấy rằng sự chú ý (tác ý) không xảy ra một cách liên 
                    tục mà xảy ra trong những khoảnh khắc rời rạc. Mình chỉ có 
                    thể chuyên chú vào một cái gì đó trong một khoảng thời gian 
                    rất ngắn, và rồi mình phải tự nhắc mình, từng chốc một, quay 
                    về với đối tượng đó nếu muốn tiếp tục duy trì sự chú ý nơi 
                    đối tượng đó. Và chánh niệm là để giúp mình làm việc này. 
                    Chánh niệm giúp mình duy trì đối tượng của sự chú ý, 
                    và mục đích của sự chú ý trong tâm. 
                  
                  
                    
                    
                                    Thế nhưng, những quyển sách bình dân đại 
                    chúng về thiền lại đưa ra những định nghĩa khác cho chánh 
                    niệm, giao cho chánh niệm những nhiệm vụ khác - nhiều cho 
                    đến nỗi danh từ khốn khổ này bị hoàn toàn biến dạng. Thậm 
                    chí, có khi chánh niệm còn được định nghĩa là sự Giác Ngộ, 
                    Tỉnh Thức, như trong câu “Giây phút có chánh niệm là giây 
                    phút của sự Giác Ngộ, Tỉnh Thức” - điều mà Đức Phật chẳng 
                    khi nào nói, bởi vì chánh niệm là pháp hữu vi, do 
                    duyên hợp, còn Niết Bàn (nirvana) thì không. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    Đây không phải là những vấn đề vụn vặt để 
                    tranh cãi của các học giả bới lông tìm vết. Nếu ta không 
                    phân biệt được các phẩm chất mà mình đưa vào trong thiền tập, 
                    thì chúng dính chùm lại với nhau, khiến tuệ giác đích thực 
                    khó phát khởi. Nếu ta quyết định cho rằng một trong những 
                    nhân tố trên con đường đưa đến Giác Ngộ chính là tự thân sự 
                    Giác Ngộ, thì cũng giống hệt như đi ra đến giữa đường rồi 
                    ngủ ngay tại đó. Ta không bao giờ đi đến chỗ rốt ráo của con 
                    đường, và đồng thời thế nào cũng bị cán bẹp bởi già, bệnh, 
                    và chết. Vậy, ta cần phải nắm cho rõ đường hướng, mà muốn 
                    được như vậy, bên cạnh những thứ khác, ta cần phải biết đích 
                    xác cái gì là niệm, cái gì không phải niệm. 
                  
                  
                    
                    
                                    Tôi từng nghe niệm được định nghĩa là “sự 
                    để ý đến một cách ưu ái” hay “sự để ý đến một 
                    cách từ bi,” nhưng ưu ái và từ bi không đồng một 
                    nghĩa với niệm. Chúng là những pháp khác nhau. Nếu muốn mang 
                    sự ưu ái và từ bi vào thiền tập, thì hãy nhận diện cho rõ 
                    rằng những yếu tố mà mình đưa vào đó là những thứ tác động 
                    thêm vào với niệm, bởi vì trong thiền tập, mình phải có khả 
                    năng thấy được khi nào những phẩm chất như từ bi là có ích, 
                    và khi nào thì không. Vì như Đức Phật nói, có những lúc sự 
                    ưu ái là nguyên nhân của khổ, cho nên mình cần phải coi 
                    chừng. 
                  
                  
                    
                    
                                    Có khi, chánh niệm được định nghĩa là 
                    trân quý giây phút hiện tại với những niềm vui nhỏ có được 
                    trong giây phút ấy: vị ngọt của một trái nho khô, 
                    cảm giác ấm áp của ly trà trên tay. Chữ mà Đức Phật dùng để 
                    gọi sự trân quý ấy là: tri túc, bằng lòng với những gì 
                    mình có. Tri túc có ích khi ta gặp phải những hoàn 
                    cảnh khó khăn, cực nhọc về thân, nhưng không phải bao giờ 
                    cũng có ích lợi trong lĩnh vực tâm. Trên thực tế, Đức Phật 
                    đã có lần nói rằng bí quyết của sự Giác Ngộ của Ngài là Ngài 
                    đã không cho phép mình dừng lại bằng lòng với bất kỳ một sự 
                    chứng đạt nào của mình. Ngài tiếp tục vươn tới những chỗ đắc 
                    cao hơn cho đến khi không còn chỗ nào cao hơn nữa. Cho nên 
                    sự bằng lòng, tri túc phải biết chỗ, biết thời của nó. Chánh 
                    niệm - nếu không bị dính chùm với sự bằng lòng, tri túc – có 
                    thể giúp mình giữ sự thật ấy trong tâm. 
                  
                  
                    
                    
                                    Có những vị thầy định nghĩa chánh niệm là “không 
                    phản ứng” hay “sự chấp nhận một cách sâu sắc” 
                    (radical acceptance.) Nếu tìm các từ này trong ngôn ngữ của 
                    Đức Phật, ta sẽ tìm được hai từ gần nhất là xả và nhẫn. Xả 
                    có nghĩa là tập bỏ qua một bên những ưa ghét của mình, để có 
                    thể quán sát những gì đang thật sự có đó. Nhẫn là khả năng 
                    không để cho mình bị bực bội bởi những gì mình không thích, 
                    kiên trì với những tình huống khó khăn cho dù chúng chưa 
                    giải quyết được mau chóng như mình mong muốn. Nhưng trong 
                    khi củng cố chánh niệm, ta ở lại với những pháp không dễ 
                    chịu không phải là để chấp nhận chúng như vậy rồi thôi, mà 
                    là để quán sát và hiểu chúng. Một khi đã thấy rõ rằng một 
                    phẩm chất - như ghét bỏ hay tham ái - là có hại cho tâm, 
                    mình không thể kiên nhẫn hay thản nhiên với chúng. Mình phải 
                    làm những gì cần làm để dẹp bỏ chúng, và để nuôi dưỡng những 
                    phẩm chất thiện thay vào chỗ đó, bằng cách đưa vào những yếu 
                    tố khác của thánh đạo: chánh chí (quyết tâm đúng) và chánh 
                    tinh tấn (nỗ lực đúng.) 
                  
                  
                    
                    
                                    Chánh niệm, xét cho cùng, là một phần của 
                    con đường rộng hơn, được vạch ra bởi như lý tác ý. Mình phải 
                    luôn nhớ mang tấm bản đồ lớn ấy để để quy chiếu cho những gì 
                    mình làm. Chẳng hạn: ngay lúc này mình đang tập nhớ đến hơi 
                    thở, vì mình biết rằng định – như một yếu tố của thánh đạo – 
                    là cái mình cần phải phát triển, và chánh niệm về hơi thở là 
                    một phương tiện tốt để tu tập định. Hơi thở cũng là một chỗ 
                    đứng tốt để từ đó mình có thể trực tiếp quan sát những gì 
                    đang xảy ra trong tâm, để nhận diện những phẩm chất nào nơi 
                    tâm đang mang đến những kết quả tốt và những phẩm chất nào 
                    không. 
                  
                  
                    
                    
                                    Thiền tập đòi hỏi nhiều phẩm chất nơi tâm, 
                    và mình phải biết rõ chúng là những phẩm chất nào, đâu là 
                    chỗ để phân biệt chúng, và mỗi phẩm chất có thể làm được 
                    những gì. Như vậy, khi mất quân bình, mình có thể nhận diện 
                    phẩm chất nào đang thiếu, và có thể nuôi dưỡng những yếu tố 
                    cần thiết để bổ túc. Giả sử mình đang bối rối và khó chịu, 
                    hãy thử đem vào một tí dịu dàng và tri túc (hoan hỷ.) Khi 
                    dãi đãi (làm biếng), hãy phát khởi ý thức về những hiểm nguy 
                    của sự vụng về và tự mãn. Đây không phải chỉ là vấn đề cứ 
                    tích tập thêm chánh niệm. Mình cần phải tích tập những phẩm 
                    chất khác nữa. Trước hết, mình có đủ chánh niệm để nối kết 
                    các việc lại với nhau, duy trì các vấn đề căn bản trong lúc 
                    thiền, và quán sát sự vật trong suốt khoảng thời gian. Rồi 
                    mình lại thử nhận diện - tức là tỉnh giác – xem xem mình có 
                    thể gia thêm những gì khác nữa. 
                  
                  
                    
                    
                                    Cũng giống như việc nấu ăn. Khi mình không 
                    hài lòng với vị của nồi canh mình đang nấu, mình không phải 
                    chỉ có tra thêm muối hoài. Có khi mình cho thêm hành, có khi 
                    thêm ớt, có khi thêm tiêu – tùy theo mình muốn có vị gì. Chỉ 
                    cần nhớ rằng mình có cả kệ gia vị để dùng. 
                  
                  
                    
                    
                                     Và hãy nhớ rằng việc nấu ăn của mình có mục 
                    đích của nó. Trong bản đồ thánh đạo, chánh niệm không phải 
                    là điểm kết thúc. Chánh niệm phải đưa mình đến chánh 
                    định. 
                  
                  
                    
                    
                                    Chúng ta thường được nghe giảng rằng niệm và 
                    định là hai hình thức hành thiền riêng biệt, nhưng Đức Phật 
                    chưa bao giờ vạch ranh giới rõ rệt giữa hai pháp này. Trong 
                    các bài pháp của ngài, niệm chuyển dần sang định; định tạo 
                    nền tảng cho mức niệm vững vàng hơn. Tứ niệm xứ cũng là các 
                    đề mục của định. Mức định cao nhất là khi niệm trở nên thanh 
                    tịnh thuần nhất. Như Ajaan Lee, một vị thầy lớn trong truyền 
                    thống Lâm Tăng của Thái Lan, đã có lần cắt nghĩa, chánh niệm 
                    phối hợp với nhiệt tâm sẽ trở thành một chi phần của định có 
                    tên là vitakka (tầm) hay “ý nghĩ có hướng,” 
                    chúng ta giữ cho các ý nghĩ của mình trước sau đều nhắm vào 
                    một đối tượng. Sự tỉnh giác phối hợp với nhiệt tâm sẽ trở 
                    thành một chi phần khác của định: vicara (tứ), hay “sự cân 
                    nhắc, thẩm định.” Ta thẩm định (đánh giá) những gì đang xảy 
                    xa với hơi thở của mình. Có thoải mái không? Nếu có, thì cứ 
                    giữ như vậy. Nếu không, thì ta có thể làm gì để làm cho hơi 
                    thở dễ chịu hơn? Hãy thử làm cho hơi thở dài hơn một chút, 
                    ngắn hơn một chút, sâu hơn, cạn hơn, nhanh hơn, chậm hơn. Và 
                    xem chuyện gì xảy ra. Khi đã tìm ra cách thở như thế nào để 
                    nuôi dưỡng cảm giác đầy đủ & khoan khoái, ta có thể làm cho 
                    cảm giác đầy đủ & khoan khoái đó lan toả khắp toàn thân. Hãy 
                    học liên hệ với hơi thở như thế nào để nuôi dưỡng năng lượng 
                    tốt khắp châu thân. Khi toàn thân đều cảm thấy khoan khoái & 
                    dễ chịu như vậy, ta có thể lắng lại một cách dễ dàng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    Ta có thể đã nhặt được ở đâu ý niệm rằng 
                    không bao giờ nên uốn nắn hơi thở, nó làm sao thì mình phải 
                    chấp nhận nó như vậy. Thế nhưng, thiền tập không phải đơn 
                    thuần là một tiến trình thụ động, có mặt một cách không phán 
                    xét đối với bất cứ những gì đang có đó, và không làm gì để 
                    thay đổi cả. Chánh niệm, trong suốt thời gian, liên tục nối 
                    kết mọi thứ lại với nhau, nhưng chánh niệm cũng luôn nhớ 
                    rằng có con đường phải tu tập, và làm cho tâm ý lắng lại là 
                    một phần của con đường ấy. 
                  
                  
                    
                    
                                    Đó là vì sao sự thẩm định (tứ) – cân nhắc 
                    xem đâu là cách tốt nhất để nâng lạc thọ của hơi thở lên đến 
                    mức tối đa – là thiết yếu trong sự thực tập. Nói khác hơn, 
                    ta không bỏ khả năng phán xét, thẩm định của mình khi tu tập 
                    chánh niệm. Ta chỉ tập cho chúng bớt tính chất quan toà và 
                    có nhiều tính chất sáng suốt hơn, để chúng mang lại những 
                    kết quả rõ ràng cụ thể hơn. 
                  
                  
                    
                    
                                    Khi hơi thở đã thật sự tròn đầy & khoan 
                    khoái khắp toàn thân, ta có thể buông sự đánh giá (tứ) và 
                    chỉ cần là một với hơi thở. Cảm giác hợp nhất[1] này có khi 
                    cũng được người ta gọi là mindfulness (niệm), theo nghĩa đen: 
                    mind-fullness (sự tròn vẹn, no đủ của tâm), cảm giác hợp 
                    nhất tràn ngập khắp toàn bộ phạm trù ý thức của mình. Ta hoà 
                    làm một với cái ta đang chuyên chú tới, làm một với những gì 
                    ta đang làm. Hoàn toàn không có ‘chủ thể’ riêng biệt. Đây là 
                    loại định nghĩa chánh niệm dễ dàng bị nhầm lẫn với sự Giác 
                    Ngộ (Tỉnh Thức) bởi vì nó có thể có vẻ rất giải thoát, nhưng 
                    Đức Phật không gọi đó là chánh niệm hay Giác Ngộ (Tỉnh Thức.) 
                    Nó được gọi là cetaso ekodibhava, sự hợp nhất của tâm ý hay 
                    nhất tâm - một yếu tố của định, có mặt trong mỗi bậc 
                    thiền kể từ nhị thiền cho đến thức vô biên xứ. Cảm giác đó 
                    thậm chí chưa phải là mức tột cùng của định, huống nữa là sự 
                    Giác Ngộ. 
                  
                  
                    
                    
                                    Điều này có nghĩa là vẫn còn việc phải làm 
                    thêm nữa. Đây là chỗ chánh niệm, tỉnh giác, và sự nhiệt tâm 
                    cần tiếp tục đào xới sâu thêm. Chánh niệm nhắc ta rằng dù 
                    cảm giác toàn nhất này có mầu nhiệm đến đâu đi nữa, mình vẫn 
                    chưa giải xong vấn đề khổ. Sự tỉnh giác tìm cách tập trung 
                    vào những gì tâm ý vẫn đang còn làm trong trạng thái nhất 
                    toàn ấy - những chọn lựa ngấm ngầm nào mình đang làm để duy 
                    trì cảm giác toàn nhất này, những mức độ căng thẳng (khổ) vi 
                    tế nào đang được gây nên bởi những chọn lựa đó – trong khi 
                    nhiệt tâm thì cố tìm thử cách nào để bỏ được cả những chọn 
                    lựa vi tế đó để dứt được sự căng thẳng (khổ) kia. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    Vậy thì ngay cảm giác toàn nhất này cũng là 
                    một phương tiện để đưa đến một chỗ cao hơn. Ta đưa tâm đến 
                    một trạng thái toàn nhất vững vàng để buông bỏ thói quen 
                    chia cắt thực tại mà mình trải nghiệm ra làm hai cái: ta và 
                    không phải ta, nhưng ta không dừng lại ở đó. Ta lại mang 
                    trạng thái toàn nhất đó ra, tiếp tục soi chiếu nó dưới mọi 
                    yếu tố của chánh niệm. Đó là lúc những thứ thật sự quý giá 
                    bắt đầu tự hiển lộ ra. Ajaan Lee dùng hình ảnh của quặng kim 
                    trong tảng đá. Dừng lại nơi cảm giác toàn nhất thì cũng 
                    giống như bằng lòng với chỗ hiểu biết rằng trong tảng đá của 
                    mình có thiếc, bạc, và vàng: Nếu chỉ làm có bấy nhiêu thôi, 
                    thì mình sẽ không bao giờ sử dụng được chúng. Nhưng nếu mình 
                    nung tảng đá lên đến nhiệt độ nóng chảy của các chất kim 
                    loại này, thì chúng sẽ tự tách riêng ra. 
                  
                  
                    
                    
                                    Cái thấy giải thoát đến từ sự thử nghiệm. Đó 
                    là cách đầu tiên để chúng ta tìm hiểu thế giới. Nếu chúng ta 
                    không phải là những sinh vật linh hoạt, thì chúng ta đã 
                    chẳng hiểu chút gì về thế giới cả. Mọi sự cứ trôi qua, và 
                    chúng ta chẳng biết được chúng liên hệ với nhau như thế nào, 
                    bởi vì chúng ta không có cách nào tác động lên chúng để xem 
                    những hậu quả nào xảy ra khi các nhân tố nào thay đổi. Chính 
                    vì chúng ta có làm, có tác động trong thế giới mà chúng ta 
                    hiểu được thế giới. 
                  
                  
                    
                    
                                    Điều này cũng đúng với tâm. Mình không thể 
                    nào chỉ ngồi đó trông đợi rằng một tâm sở độc nhất - như 
                    niệm, nhẫn, tri túc, hay nhất tâm - sẽ làm tất cả mọi việc. 
                    Nếu mình muốn tìm hiểu các tiềm năng của tâm, mình phải sẵn 
                    sàng xoay sở với các cảm thọ nơi thân, và các phẩm chất nơi 
                    tâm để thử nghiệm. Đó là lúc mình đi đến cái hiểu về nhân và 
                    quả. 
                  
                  
                    
                    
                                    Và điều này đòi hỏi toàn bộ trí tuệ của mình 
                    - chứ không phải chỉ có trí tuệ sách vở. Nghĩa là mình phải 
                    có khả năng nhận diện những gì mình đang làm, hiểu được kết 
                    quả của việc mình làm, và tìm ra những cách làm khéo léo hơn 
                    để càng lúc càng tạo ít khổ hơn, ít căng thẳng hơn: sự khéo 
                    xoay sở (lanh lợi) trên con đường thánh. Chánh niệm cho phép 
                    ta thấy được những mối liên hệ này, vì nó luôn nhắc ta cố 
                    thủ với các vấn đề này, bám trụ với các nguyên nhân cho đến 
                    khi ta thấy được các hệ quả của nó. Nhưng một mình chánh 
                    niệm không thể làm tất cả mọi việc. Mình không thể nêm canh 
                    bằng cách chỉ trút thêm tiêu vào. Mình phải tùy theo cần gì 
                    mà cho thêm các vật liệu khác. 
                  
                  
                    
                    
                                    Do vậy, tốt nhất không nên chồng chất lên 
                    danh từ chánh niệm quá nhiều ý nghĩa hay gán cho nó quá 
                    nhiều chức năng. Nếu không, ta sẽ không thể nào nhận diện rõ 
                    ràng bao giờ một phẩm chất - chẳng hạn như tri túc – là có 
                    ích và khi nào thì không, khi nào ta cần làm cho các thứ hợp 
                    nhất lại với nhau, và khi nào nên tháo chúng riêng ra.
                    
                  
                  
                    
                                    
                    Vậy ta hãy gọi tên, dán nhãn các món gia vị trên kệ của mình 
                    cho thật rõ ràng, và học qua sự thực hành gia vị nào thì tốt 
                    cho mục đích nào. Chỉ khi ấy ta mới có thể phát triển hết 
                    khả năng của mình với tư cách một người nấu bếp. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                    [1] Sự hợp nhất (hay toàn nhất) của tâm ý 
                    chứ không phải là ‘nhất như.’ Thời nay có người dịch oneness 
                    là ‘nhất như’, nhưng ‘nhất như’ là một thuật ngữ có nghĩa 
                    hoàn toàn khác. Nhất là chẳng hai, như là chẳng khác. ‘Chẳng 
                    hai, chẳng khác thì gọi là Nhất Như, tức là lý chân như’ 
                    (Tam Tạng Pháp Số, quyển 4.) [GN]
                    
                  
                  
                    
                    
                                    03-14-2009 12:23:46