Ý NGHĨA BỜ BÊN KIA
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    HT. Thích Trí Quảng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    (Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 38 tại chùa Phổ 
                    Quang ngày 14-9-2008)
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o--
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bờ bên kia dịch từ chữ Hán là đáo bỉ ngạn, tức 
                    đến bờ  bên kia. Có người dùng từ  hồi đầu thị ngạn nghĩa là 
                    quay đầu là bờ, từ này cũng khó hiểu, ít có người hiểu đúng. 
                    Bờ bên kia ở đâu và hồi đầu là gì?  
                  
                  
                    
                    
                                Trước nhất chúng ta phân ra hai bên, một bên là 
                    thử ngạn, tức bên này và bỉ ngạn là bên kia. Chúng ta đứng 
                    bên bờ này là bên bờ của sanh tử, cho nên đối với sanh tử, 
                    chúng ta có bờ bên kia là Niết bàn. Người tu Thiền còn gợi 
                    thêm một ý nữa là “Sanh tử Niết bàn đẳng không hoa”, tức 
                    sanh tử thuộc ảo, nhưng Niết bàn cũng ảo; đó là đỉnh cao của 
                    Bát Nhã. Đức Phật dạy rằng vì chúng ta đứng ở sanh tử, nên 
                    hướng về Niết bàn; nhưng đạt được Niết bàn thì Niết bàn đó 
                    cũng là ảo. Ý này mở ra cho chúng ta nhận biết được có một 
                    thế giới vượt trên Niết bàn. 
                  
                  
                    
                    
                                Trước nhất, chúng ta đang đứng ở bờ sanh tử, hay 
                    sống trong sanh tử, tức có sanh thì phải có chấm dứt cuộc 
                    sống. Tuy nhiên, ý nghĩa mà chúng ta muốn nói đến là bờ bên 
                    kia, tức sau khi chết, chúng ta về đâu. Thông thường chúng 
                    ta nghĩ rằng sau khi chết, chúng ta về thế giới Phật, về 
                    Niết bàn, về thiên đường, hoặc tái sanh lại cõi người. Như 
                    vậy, cứu cánh Niết bàn là điểm tối hậu, còn phía bên kia có 
                    nhiều thứ, không nhất thiết có một. Khi chúng ta đến thế 
                    giới Ta bà này, mỗi người đều mang theo mình nghiệp riêng từ 
                    quá khứ. Có thể nói chúng ta hiện hữu ở thế giới này là thể 
                    hiện nghiệp quá khứ và hành vi tạo tác của chúng ta trong 
                    kiếp này là hạt nhân để tạo thành cuộc sống của kiếp sau. Vì 
                    vậy, chúng ta sống như thế nào trong hiện tại thì sau khi 
                    chết, sẽ có đời sau thể hiện cuộc sống hiện tại của chúng ta. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thật vậy, sinh hoạt hàng ngày của chúng ta được 
                    đưa vào và lưu giữ lại trong tiềm thức, Duy thức học gọi là 
                    A lại da thức. Và tất cả những gì xảy ra  trong cuộc sống 
                    hiện tại đều được gom vào đầy đủ trong kho tiềm thức và 
                    chúng thường hiện ra trong giấc mơ khi chúng ta chìm vào 
                    giấc ngủ. Tiềm thức hay tâm thức của chúng ta đã nói lên 
                    được cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Những người tham 
                    lam, hung dữ, độc ác, hơn thua tranh giành trong cuộc sống 
                    hàng ngày, những việc này phát xuất từ tâm tham vọng, nên 
                    tâm thức đó đã chất chứa hạt giống ác. Chính vì vậy mà khi 
                    còn sống, tâm trạng họ đã bất an và trong giấc ngủ, họ cũng 
                    mộng mị bất an, cho đến giấc ngủ dài là sau khi chết, tâm họ 
                    chắc chắn cũng rơi vào thế giới bên kia bất an là địa ngục. 
                    Những người sống trong trạng thái tâm như vậy, thì đối với 
                    họ “Dương gian là cảnh, âm phủ là quê, sống ở thác về”. Thác 
                    về là về địa ngục, nghĩa là họ phải trải qua từ tầng địa 
                    ngục thứ nhất cho đến tầng địa ngục thứ mười. Qua mười chặng 
                    đường của thế giới âm, đến chặng cuối cùng để giải quyết 
                    những việc mà con người đã làm trên trần gian và trước khi 
                    tái sanh lại cuộc đời, họ đến nhà bà lão do Ngọc hoàng gởi 
                    xuống. Bà lão này cho ăn bát cháo lú thì tái sanh trên cuộc 
                    đời, họ quên tất cả quá khứ và trở lại con người bình thường 
                    trần tục mà sống, để rồi kết cuộc chấm dứt cuộc sống cũng 
                    lại đi một vòng giống y như vậy, lại đi qua mười cửa ngục, 
                    rồi tái sanh… Đó là cuộc sống hẹp, lẩn quẩn trong địa ngục 
                    luân hồi, nhưng nếu mở rộng là lục đạo luân hồi, tức có sáu 
                    con đường luôn mở rộng là mở rộng tâm thức, không phải chỉ 
                    đi vào địa ngục; tùy theo suy nghĩ và hành động mà mỗi người 
                    có kết quả khác nhau sau khi chết.  
                  
                  
                    
                    
                                Đương nhiên tạo ác thì vào địa ngục, còn người 
                    tạo phước nhưng nhiều sân hận, họ có thể sanh lại thế giới A 
                    tu la. Hoặc người sống lương thiện không thể vào mười địa 
                    ngục, họ có hạt nhân làm người thì tái sanh làm người và nếu 
                    có phước cao, đã sống trọn mười điều lành, họ sẽ sanh lên 
                    cõi Trời dục, tức Tứ thiên, Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, hay 
                    Hóa lạc thiên. Như vậy, đối với những người vừa nói, bờ bên 
                    kia được giới hạn trong phạm vi luân hồi tái sanh từ địa 
                    ngục cho đến cõi người, cõi trời. Những người không tu chưa 
                    hiểu đạo, chưa thực tập Thiền quán, chưa hạ thủ công phu thì 
                    chỉ đi vào lục đạo luân hồi này. 
                  
                  
                    
                    
                                Còn bờ bên kia mà Đức Phật dạy xa hơn cho người 
                    có hạ thủ công phu thì như thế nào. Trước tiên, Phật dạy 
                    hàng Thanh văn thực tập 37 trợ đạo phẩm, bờ bên kia của họ 
                    hoàn toàn khác, vì họ tu hành sống cuộc đời khác với phàm 
                    phu,  họ không huân tập tâm xấu ác, không làm việc tội lỗi, 
                    kể cả tâm tốt, việc thiện cũng không huân tập. Họ chỉ muốn 
                    làm cho tâm thanh tịnh mà thôi. Khởi đầu tu, Phật dạy Thanh 
                    văn tu Tứ niệm xứ quán: quán thân bất tịnh, quán tâm vô 
                    thường, quán thọ thì khổ, quán pháp vô ngã; cuối cùng đến bờ 
                    bên kia là Không. Và thế giới Không này theo tinh thần Bát 
                    Nhã mà Đức Quan Âm đã “Hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời 
                    chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách…”. Mở 
                    đầu Tâm kinh, Đức Phật giới thiệu Bồ tát Quan Âm nhờ thực 
                    tập Bát Nhã đến mức đào sâu ngũ uẩn, thấy tất cả đều là 
                    không, thì không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, không có 
                    sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cũng không có cứu cánh 
                    Niết bàn; từ đó, tâm hoàn toàn trống không, đạt đạo giải 
                    thoát.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy, bước đầu tu hành của chúng ta là cứu 
                    cánh Niết bàn, giải thoát. Các Phật tử tu học Phật pháp cố 
                    gắng thực tập cho được giai đoạn một, phải nhận thấy rõ tất 
                    cả mọi người cuối cùng đều phải rời bỏ thân tứ đại, huống 
                    chi là vật sở hữu làm sao giữ được, mang theo được sau khi 
                    chết. Ý thức sâu sắc như vậy sẽ bỏ được tâm chấp trước, 
                    chúng ta liền có cuộc sống an lạc.  
                  
                  
                    
                    
                                 Đầu tiên kinh Bát Nhã mở ra cho chúng ta hiểu 
                    được ý nghĩa của đến bờ bên kia; nhưng chỗ này không phải là 
                    điểm dừng của chúng ta. Thật vậy, Bát Nhã là đỉnh cao của Tứ 
                    Thánh Đế mà Phật đã dạy. Người tu thành tựu giới, định, tuệ, 
                    mới thấy được thế giới không, không này là không chấp trước, 
                    không tham đắm. Còn chấp trước, còn tham đắm thì còn khổ. 
                    Đỉnh cao của người tu là tâm hoàn toàn thanh thản, vì không 
                    chấp trước, không tham đắm, nên tất cả mọi việc đối với 
                    chúng ta trở nên nhẹ nhàng. Nhưng chúng ta không dừng ở chỗ 
                    này, vì có thế giới không này để thoát ly bờ sanh tử mà thôi 
                    và sau cái không này còn có cái vi diệu hơn nữa. Vì vậy, khi 
                    mở được mắt trí huệ, chúng ta sẽ thấy rõ những gì bờ bên kia 
                    có, không phải KHÔNG là trống không. 
                  
                  
                    
                    
                                Trên tinh thần này, Ngài Huệ Năng dạy rằng Bản 
                    lai vô nhất vật. Người không hiểu, chấp vào cái “vô” này, 
                    rồi thấy không là không suông, chẳng có gì cả. Phải hiểu 
                    rằng tất cả mọi sự mọi việc trên cuộc đời này đều là không, 
                    tức tất cả đều là ảo giác. Chúng ta đạt đến không là trạm 
                    dừng chân để thưởng thức được cuộc sống giải thoát so với 
                    khổ đau của phàm phu, chứ đó chưa phải là cứu cánh.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy, đạt được “Vô nhất vật” rồi, cánh cửa 
                    sanh tử bên này đóng thì cánh cửa Niết bàn bên kia mới mở ra, 
                    bấy giờ sẽ có “Hữu hoa, hữu nguyệt, hữu lầu đài”, tức phía 
                    bên kia còn đẹp hơn gấp bội phần. Chúng ta thấy thế giới này 
                    đẹp, cho nên tham đắm; nhưng Lục tổ Huệ Năng dạy chúng ta 
                    rằng ở bờ bên kia còn đẹp hơn nhiều, không phải trống không, 
                    không phải không suông như mọi người nghĩ tưởng. Bờ bên kia 
                    có Cực lạc của Phật Di Đà, có Niết bàn của chư vị Thánh La 
                    hán, có cung Trời Đâu Suất của Đức Di Lặc, v.v… 
                  
                  
                    
                    
                                Và khi nhận thức được bờ bên kia giải thoát còn 
                    có những điều kỳ diệu hơn, tốt đẹp hơn ở cõi này, chúng ta 
                    bắt đầu khám phá bờ bên kia để hướng tâm đến. Hành giả tu 
                    pháp môn Tịnh độ dễ nhận ra bờ bên kia. Đức Phật Di Đà xưa 
                    cũng làm vua là Vô Tránh Niệm, Ngài có tất cả những sở hữu 
                    vật chất lớn nhất trần gian, vì Ngài là Chuyển luân Thánh 
                    vương; nhưng Ngài cảm nhận được sở hữu vật chất này không 
                    tồn tại vĩnh viễn và khi hết phước báu, những sở hữu vật 
                    chất này liền trở thành trần lao nghiệp chướng cho mình. 
                    Thực tế cuộc sống cho thấy rõ khi có phước, người thân hết 
                    lòng với họ, người giúp việc cũng trung thành, thậm chí 
                    người chống đối không dám hại mà còn phải làm tốt. Nhờ phước 
                    như vậy, họ dễ dàng tạo sự nghiệp lớn lao trên cuộc đời; 
                    nhưng khi hết phước, người ủng hộ bắt đầu chống phá, thậm 
                    chí con cháu trong gia đình cũng phá hại. Đức Phật Di Đà 
                    nhận ra phước này chỉ là tạm bợ trong sanh tử, không đáng để 
                    quan tâm. Vua Trần Thái Tông cũng thể hiện ý này qua câu nói 
                    nổi tiếng “Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách”. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tất cả phước báu thế gian không đáng quan tâm, 
                    cho nên vua Vô Tránh Niệm mới quan tâm cái khác thì mới được 
                    Bảo Tạng Như Lai hướng dẫn tiến tu theo Phật đạo. Ngài liền 
                    từ bỏ cuộc sống tạm bợ thế gian, xuất gia làm Tỳ kheo Pháp 
                    Tạng, sống thánh thiện. Từ người có phước báu hữu lậu thế 
                    gian mà đánh đổi lấy phước báu vô lậu như vua Vô Tránh Niệm 
                    là người biết tu; không biết tu thì phước báu hữu lậu đã có 
                    tiêu xài phung phí sẽ hết. 
                  
                  
                    
                    
                                Bảo Tạng Như Lai dạy vua Vô Tránh Niệm chuyển 
                    đổi phước báu hữu lậu thành vô lậu bằng cách nào ?   Tất cả 
                    những gì nhà vua có đều chuyển thành vô lậu, ví dụ như có 
                    tiền thì dùng bố thí, cúng dường; vì bố thí sẽ được người 
                    quý trọng, cúng dường sẽ có phước và có phước mới kết duyên 
                    được với cao Tăng, Thánh hiền. Kinh nói rõ rằng Ngài thường 
                    tham học với tất cả đại thiện tri thức, hay các Đức Như Lai. 
                    Nhờ những phước báu là thông minh, có tiền, sức khỏe tốt và 
                    sử dụng phước này để tham vấn cầu học, phước của Ngài càng 
                    tăng thêm, nên mới có tên là Pháp Tạng Tỳ kheo; nghĩa là 
                    Ngài đã đem phước thế gian đổi thành kho tàng quý báu vô giá, 
                    gọi là Pháp. Tu theo Phật, phải triển khai được như vậy. 
                    Pháp Tạng Tỳ kheo có kho báu là phước đức và trí tuệ; phước 
                    đức do bố thí, cúng dường và trí tuệ nhờ học được pháp của 
                    Như Lai. Đức Phật Di Đà khởi đầu cách tu như vậy.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật cũng dạy người tu  
                    cần tri thức, không có Phật nào không xả thân học đạo cầu 
                    tri thức và chính Đức Phật Thích Ca cũng   đã từng làm như 
                    vậy. Tỳ kheo Pháp Tạng có kho phước mới dễ dàng tạo thêm 
                    phước và Ngài có khả năng hiểu biết mới thâm nhập được tri 
                    kiến Như Lai. Điều này chúng ta thấy rõ trong cuộc sống, 
                    những người không có khả năng hiểu biết thì không thể học 
                    được. Có thể nói rằng muốn trí thức hóa nông dân rất khó, 
                    nhưng lao động hóa trí thức không khó. Tôi nhận thấy tuy 
                    cùng học một lớp, nhưng người thành đạt dễ dàng, người không 
                    học nổi vì không có khả năng tiếp thu.  
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật Di Đà trở thành giáo chủ thế giới Tây 
                    phương Cực Lạc một cách nhẹ nhàng vì Ngài sở hữu kho tàng vô 
                    lậu và sử dụng kho báu này để phát huy lên. Thật vậy, mở đầu, 
                    Ngài khai mở một quốc gia gọi là An Dưỡng Quốc để làm nơi 
                    tập hợp những người có tri thức và khi tập hợp được nhiều 
                    thiện tri thức, Ngài sử dụng kho tàng pháp bảo này thành lập 
                    được An Dưỡng Quốc thật sự có toàn những người giỏi, tốt; vì 
                    thực tế một người giỏi đến đâu cũng không thể một mình làm 
                    được. Muốn được việc, phải tập trung được nhiều người có 
                    năng lực thật sự và có đạo đức mà kinh gọi là Đại thiện tri 
                    thức.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy, thế giới của Phật Di Đà xây dựng đầu 
                    tiên theo tiêu chuẩn là những người được Ngài mời tới là 
                    người sạch nghiệp, trong kinh gọi là hàng Thượng thiện nhân. 
                    Nếu tu theo Nhị thừa, thì phải là La hán, Bích chi Phật; nếu 
                    tu theo Đại thừa, phải là hàng Nhứt sanh bổ xứ A Bệ Bạt Trí. 
                    Đó là quy cách của Phật Di Đà, tập hợp những người có tri 
                    thức và đức hạnh. Ngài xây dựng được như vậy vì đã học được 
                    mô hình Tịnh độ của chư Phật mười phương; nói cách khác, có 
                    học và có phước mới làm được. 
                  
                  
                    
                    
                                Từ thế giới Không của Bát Nhã bước qua, liền gặp 
                    các thế giới của Phật Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Hương Tích, 
                    v.v… Có rất nhiều Tịnh độ của chư Phật cho chúng ta đến là 
                    bước đầu vào bờ bên kia. Và để đến bờ bên kia, mỗi pháp môn 
                    tu có hướng riêng chỉ rõ cho chúng ta; không phải có một con 
                    đường lên Niết bàn, hay về Cực lạc, về các Tịnh độ. Ví dụ 
                    tôi chuyên tu Bổn môn Pháp Hoa tất nhiên có hướng khác, có 
                    cái nhìn khác với những vị tu pháp môn khác. Con đường Phật 
                    đạo qua bờ bên kia theo kinh Bát Nhã, hay theo Tịnh độ của 
                    Phật Di Đà, hoặc bờ bên kia theo kinh Pháp Hoa đều có cách 
                    hành trì khác nhau và đạt đến kết quả cũng khác nhau. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Riêng tôi, thường xuyên lạy Hồng danh Pháp Hoa 
                    để tạo mối giao cảm với chư Phật và Bồ tát; vì tôi không 
                    biết các Ngài ở đâu, nhưng bằng niềm tin và tâm kính trọng 
                    của tôi đối với các Ngài, nên mỗi ngày tôi lễ bái, tạo mối 
                    tương thông với các Ngài. Tôi cảm giác chung quanh mình có 
                    Phật và Bồ tát, nhưng vì mang thân ngũ ấm, nên ta không thấy 
                    được các Ngài. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy các Ngài qua niềm 
                    tin. Ý này được kinh Pháp Hoa dạy rằng Xá Lợi Phất thuộc 
                    hàng trí tuệ bậc nhất mà cũng phải dùng niềm tin vào đạo; vì 
                    thật sự chúng ta khó thấy được những gì của bờ bên kia, 
                    người nói chưa thấy mà người  nghe cũng không thấy bờ bên 
                    kia.  
                  
                  
                    
                    
                                 Vì vậy, với pháp môn hành trì là lễ lạy chư 
                    Phật, chư Bồ tát với tất cả niềm tin son sắt, đã tạo cho tôi 
                    sự bình an trong lòng. Ở bên bờ sanh tử này, trong thế giới 
                    đầy bất an này, nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn an lành, vì tâm 
                    tôi hướng về Phật, Bồ tát. Đem tâm mình gắn kết với Phật này, 
                    Phật kia, Bồ tát nọ, nhờ sự gắn kết sâu xa mật thiết như vậy, 
                    đã giúp cho tôi có được tâm bình an ở bước ban đầu. Và trải 
                    qua nhiều năm tu hành, từ độ cảm tâm trong lòng mà cuộc sống 
                    bên ngoài của tôi được thay đổi tốt đẹp theo. Những gì tôi 
                    thấy trong giấc mơ, trong thiền định, trong suy tư dần dần 
                    trở thành hiện thực. 
                  
                  
                    
                    
                                Bước đầu tôi chỉ thấy mình đi nghe pháp ở các 
                    giảng đường, xa hơn, nghe pháp của các Bồ tát giảng. Trên 
                    bước đường tu, tuy thấy như vậy trong giấc mơ, nhưng ít nhất 
                    trong tâm thức chúng ta đã có hạt giống tốt lành rồi. Mơ 
                    thấy đi chùa, lễ Phật, nghe pháp là điều rất quý. Tôi có bạn 
                    đồng tu kể rằng trong giấc mơ ông không biết mình là thầy tu, 
                    mà lại thấy mình đi chài lưới bắt cá. Một khoảng thời gian 
                    sau, ông này trở thành người chài lưới thật. Vì túc nghiệp 
                    là chài lưới, nên tu hành, nghiệp này cứ hiện lên và ở trong 
                    tiềm thức lâu, nghiệp này trở thành hiện thực trong cuộc 
                    sống. Thưở mới tu, tôi thường mơ thấy chùa, thấy đang tu với 
                    Đại chúng, nghĩa là thế giới tiềm thức đã ghi đậm dấu ấn như 
                    vậy và xa hơn, tôi thấy trong giấc mơ, mình tụng kinh, 
                    thuyết pháp ở nhiều đạo tràng. Theo tôi, giấc mơ và cuộc 
                    sống thực tế phải gắn kết với nhau, tức giữa thế giới vô 
                    hình và thế giới vật chất hữu hình, giữa tiềm thức và hiện 
                    thực cuộc sống đã có một sự nối kết chặt chẽ; không phải ảo 
                    giác, nhưng là thật. 
                  
                  
                    
                    
                                Tiến xa hơn nữa trên bước đường tu, hành giả 
                    Pháp Hoa nhận ra rằng đi vào cửa Phật tuy bằng pháp phương 
                    tiện, nhưng đi qua được bờ bên kia, mới thấy được thiên bá 
                    ức hóa thân Phật hiện vào tâm thức chúng ta và điều quan 
                    trọng là tất cả những hóa thân Phật lại hiện thành thiện tri 
                    thức của chúng ta trên cuộc đời này. Như Hòa thượng Thiện 
                    Trí ngồi kế bên tôi đã là thiện tri thức trong tiềm thức của 
                    tôi thì nay trong Ban Tổ chức khóa tu Một ngày an lạc, ngài 
                    cũng là thiện tri thức của tôi. Phải khẳng định rằng tu Pháp 
                    Hoa không phải là sống với cái ảo, những gì có trong tiềm 
                    thức phải có trong cuộc sống của chúng ta.  
                  
                  
                    
                    
                                Vào cửa Phật qua giáo pháp phương tiện và thực 
                    tập pháp phương tiện này, chúng ta nhận biết được rằng Phật 
                    có thiên bá ức hóa thân với vô số hành trạng khác nhau. 
                    Chẳng những chúng ta thấy ở Việt Nam mà cũng có thể mở rộng 
                    tầm nhìn khắp các quốc gia khác. Tùy theo sự tu hành của 
                    chúng ta đến mức độ nào thì giấc mơ cũng trải rộng như vậy. 
                    Vào cửa phương tiện thực tập để lần vào thế giới của bờ bên 
                    kia và nếu tu Bổn môn Pháp hoa, đạt đến đỉnh cao là vào thế 
                    giới Thường Tịch Quang, gọi là Bổn độ; đó là thế giới của 
                    Đức Phật Thích Ca hay của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật 
                    gốc.Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng từ ta 
                    thành Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp 
                    thường ở ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ, 
                    thuyết pháp, giáo hóa vô số chúng sanh.  
                  
                  
                    
                    
                                Đến được bờ bên kia, chúng ta thấy thị hiện sanh 
                    thân Phật, thấy các hóa thân Phật cứu độ chúng sanh trong 
                    khắp pháp giới và tiến tu xa hơn nữa, chúng ta mới gặp được 
                    báo thân viên mãn của Phật Thích Ca, tức là phước đức và trí 
                    tuệ của Phật đã thành tựu trải qua suốt lộ trình Bồ tát đạo 
                    từ vô lượng kiếp. Đức Phật nói rằng: Ta tu Bồ tát đạo, cảm 
                    thành thọ mạng dài lâu, đến nay chưa hết mà còn lớn hơn nữa.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tu hạnh Bồ tát để cảm thành thọ mạng, nghĩa là 
                    tạo thành thân phước đức trí tuệ mới là điều quan trọng đối 
                    với người tu, không phải chết là hết, nhưng càng tu thì 
                    phước đức trí tuệ càng lớn hơn. Phước đức trí tuệ của Đức 
                    Phật Thích Ca vẫn lớn lên mãi theo dòng thời gian vô tận, 
                    điều này thể hiện rõ trong Mạn đà la, ở giữa tâm có Đức Phật 
                    Lô Xá Na, bốn bên có bốn vị Phật, phía Tây có Phật Di Đà, 
                    phía Đông có Phật A Súc, phía Nam có Phật Bảo Sanh, phía Bắc 
                    có Phật Thành Tựu. Bốn vị Phật này tiêu biểu cho phước đức 
                    trí tuệ vẹn toàn của Đức Phật Lô Xá Na hiện hữu ở bốn phương. 
                    Tu Bổn môn Pháp Hoa, đi sâu vào thế giới tâm, sẽ nhận thấy 
                    được các vị Phật này.  
                  
                  
                    
                    
                                Trên bước đường tu, ở giai đoạn đầu, chúng ta 
                    cần học hiểu pháp Phật cho đúng. Sang giai đoạn hai, phải 
                    phát huy được đạo lực của chính mình, thấy được các thế giới 
                    Phật xung quanh chúng ta. Từ đó, dù có đọc tụng hay không 
                    đọc tụng kinh điển, nhưng tâm hành giả đã duyên được với thế 
                    giới Thật báo trang nghiêm của Đức Thích Ca, nên thường thấy 
                    chư Phật, chư Bồ tát, thường nghe pháp và thâm nhập vào đạo 
                    tràng của các Ngài. Đó chính là loại hình thế giới thứ hai 
                    là tâm thức của chính mình. 
                  
                  
                    
                    
                                Thiết nghĩ bằng niềm tin dũng mãnh sẽ đi vào 
                    được các thế giới này và nhận ra những gì chúng ta đã nói. 
                    Bờ bên kia là thế giới tâm thức mà nơi đó, chúng ta diện 
                    kiến được một Phật cho đến nhiều Phật, vào được các thế giới 
                    Phật như Cực lạc của Phật Di Đà, hay Tịnh độ của Đức Di Lặc 
                    ở cung Trời Đâu Suất, v.v… và trở lại hiện thực cuộc sống 
                    này, chúng ta sẽ gặp được những người bạn tốt, đạo đức đến 
                    hợp tác với chúng ta trong các Phật sự. Cao hơn nữa, trên lộ 
                    trình hành Bồ tát đạo cho đến thành Phật còn có nhiều loại 
                    hình Tịnh độ khác nữa, điều này còn xa đối  với chúng ta, 
                    nên không bàn đến. Mong rằng mỗi hành giả trong khóa tu này 
                    học và thực hành Phật pháp, đều xây dựng được Tịnh độ riêng 
                    cho mình an trú để phát huy được phước đức và trí tuệ, nuôi 
                    lớn được báo thân của chính mình. 
                  
                  
                    
                    
                                HT.Thích Trí Quảng
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Giác Ngộ)
                    
                  
                  
                    
                    
                                03-06-2009 11:34:56