TU BA NGHIỆP
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    HT. Thích Thanh Từ
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta tu Phật ai cũng nhắm đến chỗ giải thoát 
                    sanh tử. Muốn cầu giải thoát sanh tử thì phải biết nguyên 
                    nhân dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy hôm nay 
                    chúng tôi nói về đề tài Tu ba nghiệp, bởi ba nghiệp chính là 
                    nguyên nhân dẫn chúng ta trôi lăn trong sanh tử. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trước khi đi sâu vào vấn đề, tôi dẫn một ít câu 
                    thơ của thi hào Nguyễn Du trong truyện Kiều: 
                  
                  
                    
                    
                                Đã mang lấy nghiệp vào thân, 
                  
                  
                    
                    
                                Cũng đừng trách cứ trời gần trời xa. 
                    
                  
                  
                    
                    
                    Thi hào họ Nguyễn có cái nhìn rất thấm nhuần đạo Phật, ông 
                    đã hiểu đã nắm vững tại sao con người phải chịu khổ vui. 
                    Điều đó xưa kia Tổ tiên ta cứ ngỡ do Thượng đế cả, Ngài ban 
                    vui hoặc phạt khổ. Nhưng với cái nhìn của đạo Phật thì không 
                    phải vậy, mà đó là do nghiệp. Chúng ta đã tạo nghiệp nào thì 
                    nó sẽ lôi dẫn mình đi tới chỗ an vui hoặc đau khổ. Từ ngàn 
                    xưa, những nhân vật đại diện cho các tư tưởng lớn Việt Nam 
                    đã có tầm hiểu biết về đạo Phật sâu rộng như thế. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đến như quần chúng Việt Nam, mỗi khi thấy người 
                    thân quen gặp khổ nạn, thường hay thốt câu “Tội nghiệp anh (chị) 
                    quá!” Hai chữ Tội nghiệp đơn giản mà chứa đầy đủ ý nghĩa. 
                    Tội là sự xấu ác, Nghiệp là sức mạnh lôi dẫn người tạo tội 
                    đi tới chỗ thọ khổ. Như vậy, khổ không phải bỗng dưng có mà 
                    do nghiệp mình tạo, nên ngày nay mới thọ quả.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhiều người cho rằng kẻ ấy hồi xưa xấu ác nên 
                    bây giờ chịu khổ là đáng kiếp. Nghĩ như vậy không phải là 
                    Phật tử, vì người con Phật lúc nào cũng chứa chan lòng từ 
                    bi. Thấy người khổ, dù ở hoàn cảnh nào cũng thương hết. Dù 
                    xưa kia họ có tạo nghiệp ác, nhưng ngày nay thấy họ khổ ta 
                    đều xót xa, không nỡ bỏ qua. Vì vậy dùng từ “Tội nghiệp” với 
                    lòng chân thành hiền hòa, ai khổ mình cũng thương.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Chữ “Nghiệp” nguyên tiếng Phạn là Karma, Trung 
                    Hoa dịch là Nghiệp. Nghiệp là thói quen do ta thực hành liên 
                    tục một công việc nào đó trong một thời gian dài. Người Việt 
                    Nam dùng chữ “Nghiệp” rất đúng. Thí dụ hai người cùng làm 
                    nghề thợ mộc, họ gọi nhau là bạn “đồng nghiệp”. Hoặc thầy 
                    giáo cô giáo gặp nhau, giới thiệu với bạn bè mình: “Đây là 
                    bạn đồng nghiệp của tôi”. 
                  
                  
                    
                    
                                Nói tới nghiệp thì tôi đi xa hơn một chút. Có 
                    nhiều người nghĩ rằng làm ra tiền của để lại cho con cháu nó 
                    hưởng. Nhưng trên thực tế, điều đó không phải lúc nào cũng 
                    đúng như ý muốn. Bởi vì tiền của là vật bên ngoài, dễ bị mất 
                    mát. Ngày nay nó đang là của mình, nhưng bất cứ lúc nào có 
                    sự chuyển biến thì nó thành của người khác. Chỉ có tạo 
                    nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, cái đó mới trung thành với chúng 
                    ta.  
                  
                  
                    
                    
                                Thí dụ như có ba người, một thợ mộc, một thợ hồ 
                    và một bác sĩ cùng qua sông trên một chuyến đò. Cả ba đều có 
                    mang theo những vật dụng của mình. Khi ra tới giữa sông đò 
                    bị chìm, đồ đạc mang theo mất hết, chỉ ba người còn sống sót. 
                    Họ bắt đầu gầy dựng lại của cải bằng nghề nghiệp của mình. 
                    Như vậy, của cải bên ngoài có thể bị mất mát, nhưng nghề 
                    nghiệp không bao giờ mất.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta muốn để lại cho mai sau không mất thì 
                    phải tạo nghiệp lành. Nghiệp lành không ai lấy được, còn của 
                    cải có khi bị ăn cắp, hoặc mất do nạn lửa nước v.v… Cho nên 
                    nghiệp hết sức quan trọng, quyết định dòng luân hồi sanh tử 
                    của chúng ta, nó là sợi dây cột trói con người rất chặt, khó 
                    có thể thoát ra được. 
                  
                  
                    
                    
                                Nghiệp từ đâu mà có? Trong nhà Phật nói nghiệp 
                    đến từ ba chỗ: thân, miệng và ý. Thân làm điều tốt điều lành 
                    gọi là tạo nghiệp lành, làm điều xấu dữ gọi là tạo nghiệp ác. 
                    Miệng nói lời tốt lành là tạo nghiệp lành, nói lời ác dữ là 
                    tạo nghiệp ác. Ý nghĩ điều hay lẽ phải là tạo nghiệp lành, 
                    nghĩ điều xấu dở là tạo nghiệp ác.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta tạo nghiệp, để rồi bị nghiệp dẫn trở 
                    lại, xoay vần như thế mãi. Đúng như lời cụ Nguyễn Du nói “đã 
                    mang lấy nghiệp vào thân, thì đừng trách lẫn trời gần trời 
                    xa”. Trời không chen vào cái khổ vui của mình, mà chính 
                    nghiệp lành nghiệp dữ của mình đưa đẩy ta tới chỗ khổ vui. 
                    Ví dụ cụ thể như những người tập uống rượu, mỗi ngày uống 
                    một ly, hai ly, uống lâu thành ghiền. Ghiền gọi là nghiệp. 
                    Hoặc người tập đi chùa, tụng kinh mỗi ngày quen rồi, bữa nào 
                    không đi thấy buồn, vì nó đã thành nghiệp. Nghiệp uống rượu, 
                    nghiệp đi chùa. Nhưng uống rượu là nghiệp xấu, còn đi chùa 
                    nghe kinh học đạo là nghiệp lành. Cả hai đều là nghiệp, 
                    nhưng một bên đưa tới chỗ thanh thản sáng suốt, một bên đưa 
                    tới chỗ si tối hiểm nguy. 
                  
                  
                    
                    
                                Rõ ràng chúng ta tạo nghiệp, rồi nghiệp dẫn 
                    chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Cho nên Phật dạy phải 
                    tránh những nghiệp dữ ác. Phật tử sau khi qui y rồi, Phật 
                    cấm không được làm năm điều: không sát sanh, không trộm cướp, 
                    không tà dâm,  đó là tránh nghiệp ác của thân, chặn đứng cho 
                    ta khỏi rơi vào chỗ hiểm nguy đau khổ. Như vậy thì ba cái 
                    này mình không làm là mình giữ được thân không tạo tội ác. 
                    Phật cấm uống rượu và nói dối, đó là tránh nghiệp ác của 
                    miệng. Nói đủ miệng có tới bốn điều: nói dối, nói hai lưỡi, 
                    nói hung dữ, nói thêu dệt. Khi tu khá Phật tử giữ luôn cả 
                    bốn điều trên. Đến ý có ba: tham lam, nóng giận, si mê. Phật 
                    dạy người biết tu phải bớt tham lam, bớt nóng giận và bớt si 
                    mê. Đó là tu để ba nghiệp của mình càng ngày càng tốt.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy giai đoạn thứ nhất Phật dạy chúng ta 
                    đừng làm những điều đó, tức không tạo nghiệp ác thì khỏi rơi 
                    vào đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Không rơi vào ba 
                    đường này, khi nhắm mắt ít nhất chúng ta cũng trở lại làm 
                    người. Đời này làm người, đời sau cũng trở lại làm người, 
                    không thua thiệt gì hết. Chúng ta giữ trọn vẹn những điều 
                    này là giữ được vị trí con người.  
                  
                  
                    
                    
                                Tiến lên nữa chúng ta muốn được phước cao hơn 
                    con người thì phải thêm: không nói dối, không nói lời hung 
                    dữ, không nói lời đâm thọc, không nói thêu dệt. Ba nghiệp 
                    của ý bớt tham, bớt sân, bớt si. Tu như thế chúng ta sẽ vượt 
                    lên hơn người, sanh lên các cõi trời. Như vậy càng không làm 
                    những điều tội lỗi, càng hưởng được quả lành. Nếu tạo những 
                    tội ác nhiều thì phải chịu khổ đau nhiều. Khổ đau và an lạc 
                    do chính chúng ta là chủ nhân tạo ra và hưởng lấy, chứ không 
                    có thánh thần nào can dự vào hết.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng Phật tử khi gặp khổ thì kêu trời, kêu Phật, 
                    chứ không kêu mình. Chúng ta tạo nhân thì chịu quả, tại sao 
                    lại kêu trời, kêu Phật? Như thanh niên còn trẻ mà tập hút á 
                    phiện, xì ke, ma túy đến nghiện ngập, khi hết tiền thì ụa 
                    mửa vật vã. Cái khổ bị ụa mửa, bị hành hạ đó do ai bày ra? 
                    Vậy mà tới chừng khổ lại trách trời trách đất trách xã hội. 
                    Trách như thế có đúng không? Đó là vì khi quá khổ rồi nói 
                    bướng, chứ không có lẽ thật.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta biết tu thì tự chọn lấy con đường để 
                    tiến lên, chứ không ai chọn thay cho mình hết. Một chữ 
                    Nghiệp cũng đủ để nói lên rõ ràng sự khổ vui do chúng ta tạo 
                    thì chúng ta hưởng, chứ không ai khác. Hiểu như vậy ta mới 
                    quay lại tu sửa chính mình. Khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, 
                    ta tự biết “bởi tôi ngu si nên tôi phải khổ!” Cho nên hiểu 
                    rõ ý nghĩa của Nghiệp rồi, chúng ta trở thành người cứng cỏi, 
                    mạnh mẽ, dám chịu trách nhiệm về cuộc đời, về những gì mình 
                    đã gây tạo. Cho nên tu Phật là tạo cho mình một cơ hội để 
                    được tu sửa, dở sửa thành hay. Đã hay thì tiến thêm nữa. Đó 
                    là ý nghĩa tu. 
                  
                  
                    
                    
                                Riêng nghiệp ý tôi nói “bớt” chứ không nói “hết”, 
                    bớt tham, bớt sân, bớt si. Tất cả quí vị có thấy “bớt” là 
                    khó không? Ai cũng biết tham lam, nóng giận, si mê là xấu, 
                    nhưng không chịu bỏ tức là chấp nhận xấu. Vậy mà có người 
                    nói xấu thì giận. Cuộc sống thế gian quả thật mâu thuẫn vô 
                    cùng, giữ cái xấu mà ai nói xấu thì không chịu! Cho nên 
                    chúng ta phải nhìn thấu đáo được lẽ thật.  
                  
                  
                    
                    
                                Tham, sân, si là cội gốc gây ra đau khổ. Ta biết 
                    nó xấu hại, mà không chịu bỏ thì chắc chắn cuộc sống không 
                    an ổn. Ví dụ trong nhà, vợ chồng cãi nhau một chút liền nổi 
                    nóng lên. Từ việc rất nhỏ, nhưng khi nổi nóng đùng đùng thì 
                    nó thành lớn, nhiều khi đi tới tai họa phải ly dị nhau. Như 
                    vậy, nóng giận là nhân đau khổ, ta đã biết rõ sao không chịu 
                    bỏ bớt? Bớt được một phần là giảm thiểu một phần khổ đau. 
                    Cho nên người tu theo đạo Phật là người tìm về nguồn hạnh 
                    phúc, nguồn an lạc. Muốn thế, những gì thuộc nhân khổ đau, 
                    ta phải trừ bỏ. Trừ bỏ những nhân đó gọi là tu.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhiều Phật tử cứ cho rằng tu là ăn chay. Nghe ai 
                    ăn chay một tháng hai ngày liền khen “bạn biết tu rồi đó”. 
                    Cứ nói ăn chay là tu, mà gốc nóng giận, tham lam, si mê lại 
                    không chịu sửa. Đó là tu cái ngọn chứ không phải tu cái gốc, 
                    nên tu mà không hết khổ. Nhiều người ở chùa ăn chay mười năm 
                    hai chục năm, mà ai nói trái ý cũng la hét um sùm, vậy có tu 
                    chưa? Ăn chay trường mà còn nóng giận là chưa phải tu. Chúng 
                    ta tu đúng nghĩa tu, chứ không phải tu trên hình thức. Tu 
                    hình thức sẽ tạo cho mình nhiều tật xấu lắm. Thí dụ mình ăn 
                    chay trường, tới nhà người ăn mặn, ta cầm chén đũa lên ngửi 
                    và chê “Tanh quá!” Thế là mất lòng chủ nhà rồi! Ta cho mình 
                    tu hay, khi dễ người khác, như vậy đâu phải tu hay. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong ba nghiệp, chủ động là ý. Ý nghĩ tốt thì 
                    miệng nói tốt, thân làm tốt. Ý nghĩ xấu thì miệng nói xấu, 
                    thân làm xấu. Tội lỗi hay phước đức đều gốc từ ý mà ra. Cho 
                    nên tu bớt tham, bớt sân, bớt si là nhắm ngay gốc của ba 
                    nghiệp. Chúng ta biết tu phải cố gắng làm chủ phần nào ba 
                    độc tham, sân, si. Làm chủ được chúng thì đời sống bình an, 
                    không làm chủ được chúng thì đau khổ liên miên không dứt. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu để tham lam chồng chất trong lòng thì được 
                    một đòi mười, được mười đòi trăm, được trăm đòi ngàn, được 
                    ngàn đòi triệu v.v… cứ thêm hoài, không biết chừng nào mới 
                    đủ. Muốn mà bị ngăn trở thì sân, nên nói từ tham sanh sân. 
                    Nếu bớt được tham thì không ham muốn nhiều, nên cũng không 
                    bị ngăn trở, không sanh sân hận. Chỉ cái tham mà tạo ra bao 
                    nhiêu duyên cớ để chúng ta khổ liên tục. Nên bớt tham thì 
                    bớt sân. Đó là sự liên hệ giữa tham và sân. Hai thứ này tuy 
                    thấy mạnh nhưng gốc của nó là si, nên tôi gọi khác một chút: 
                    si, tham, sân.  
                  
                  
                    
                    
                                Ví dụ người nam thấy người nữ có sắc đẹp nên mê 
                    đắm. Nếu ai ngăn cản không cho tới lui cưới hỏi thì họ hận 
                    thù. Như vậy, vì mê sắc đẹp, muốn chiếm hữu, nếu bị ngăn cản 
                    thì oán thù muốn giết hại nhau. Đó là gốc từ si, mới tới 
                    tham sân. Người tu Phật phải làm sao đầy đủ trí tuệ để phá 
                    dẹp si mê trước. Phá được si rồi thì tham, sân theo đó hết. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong nhà Phật có nhiều cách trừ si mê. Thường 
                    nhất chúng ta tụng Bát-nhã Tâm Kinh, mở đầu là câu Quán Tự 
                    Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến 
                    ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nghĩa là Bồ-tát 
                    Quán Tự Tại khi thực hành sâu trí tuệ Bát-nhã rồi, Ngài quán 
                    thân năm uẩn tự tánh là không, liền qua hết tất cả khổ nạn. 
                    Chúng ta tụng kinh Bát-nhã bao nhiêu biến rồi? Khổ nạn có 
                    qua hết chưa? Tụng thì rất nhiều mà khổ nạn còn nguyên, 
                    chẳng lẽ lời Phật dạy không đúng?  
                  
                  
                    
                    
                                Bởi vì trong Bát-nhã có chia làm ba phần: Văn tự 
                    Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Văn tự 
                    Bát-nhã tức là chữ lời trong kinh, được dụ như một con 
                    thuyền. Quán chiếu Bát-nhã tức là xét kỹ. Kinh Bát-nhã dạy 
                    phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không, tức là soi xét thấu đáo 
                    năm uẩn không có tánh thật, mới qua hết khổ nạn. Quán chiếu 
                    Bát-nhã được dụ như dầm chèo để bơi. Chúng ta chỉ tụng kinh 
                    mà muốn qua hết khổ nạn, chẳng khác nào người muốn qua sông, 
                    xuống thuyền ngồi đó không chịu chèo bơi thì chừng nào mới 
                    qua sông được. Cũng vậy trước chúng ta đọc văn tự, kế phải 
                    quán chiếu mới có thể đến chỗ thật tướng, là chỗ rốt ráo 
                    viên mãn. Tóm lại Văn tự dụ như con thuyền, Quán chiếu dụ 
                    như chèo dầm để bơi, Thật tướng tức đến bờ bên kia. Thế mới 
                    gọi là tu Bát-nhã. 
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta tu chỉ có chặng đầu, hai chặng sau bỏ 
                    quên. Như vậy chừng nào mới hết khổ? Nên cần phải xem xét 
                    lại việc tu của mình cho thấu đáo. Bát-nhã là chữ Phạn, 
                    Trung Hoa dịch là trí tuệ. Dùng trí tuệ soi thấy thân năm 
                    uẩn không thật thì mọi khổ nạn đều qua hết. Như khi ta quán 
                    sát lại mình, thấy thân tạm bợ giả dối, đủ duyên thì còn, 
                    thiếu duyên thì mất. Biết thế rồi có ai khen hoặc chê mình 
                    không mừng cũng không giận. Đó là qua hết các khổ. Ngược lại 
                    nếu thấy thân thật, người ta khen mình mừng, chê mình giận  
                    tức là khổ.  
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy muốn phá si mê phải dùng trí tuệ, chứ 
                    không phải đọc tụng. Nhưng phần đông Phật tử thích đọc tụng, 
                    không chịu dùng trí tuệ quán chiếu. Vì tính cách quan trọng 
                    ấy của Bát-nhã nên trong tất cả các chùa, chư Tăng Ni tụng 
                    kinh nào, cuối cùng cũng kết thúc bằng bài kinh Bát-nhã. 
                    Nhiều người thấy vậy hiểu lầm, cho rằng Bát-nhã là bổ khuyết 
                    tâm kinh. Bổ khuyết tức là bù vào chỗ thiếu. Tại sao phải bù? 
                    Họ giải thích khi tụng kinh có lúc nhanh quá nên nhiều khi 
                    có chỗ thiếu, có chỗ nhầm nên cuối cùng phải tụng bài kinh 
                    Bát-nhã để bù lại. Quan niệm đó thật là ngây thơ, không hiểu 
                    gì hết.  
                  
                  
                    
                    
                                Bát-nhã là trí tuệ, dù tu Tịnh độ, tu Mật tông 
                    hay tu Thiền đều phải có trí tuệ. Vì vậy tu pháp nào cuối 
                    cùng cũng phải tụng kinh Bát-nhã. Qua đó đủ thấy tất cả pháp 
                    tu của đạo Phật đều nhắm đến mục đích cuối cùng là mở sáng 
                    con mắt trí tuệ, để đi tới giác ngộ giải thoát. Chúng ta 
                    hiểu được ý nghĩa đó mới khỏi lầm lẫn những gì Phật dạy.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta bớt si thì bớt tham, bớt sân. Tu như 
                    thế lần lần ba nghiệp thân, miệng, ý được trong sạch. Nghiệp 
                    là một luật rất công bằng. Phật dạy ai gây nghiệp nào thì 
                    phải đền trả nghiệp ấy, người khác không thế được. Chúng ta 
                    muốn được an vui thì tạo nghiệp lành, muốn đau khổ thì tạo 
                    nghiệp dữ, không ai tạo dùm hưởng dùm được cả.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong kinh A-hàm nói: Người tu Phật và không tu 
                    Phật, nếu làm mười phần lành thì cùng hưởng mười phần tốt, 
                    làm mười phần ác thì cùng chịu mười phần xấu. Không phải 
                    người không tu Phật làm ác mới chịu khổ, còn người tu Phật 
                    làm ác được Phật tha. Mình và người làm điều lành, làm điều 
                    dữ đều chịu quả báo công bằng như nhau, không có ân huệ 
                    riêng cho người nào. Bởi vì lý nghiệp báo rất bình đẳng cho 
                    tất cả mọi loài. Cũng như ngày nay trong các nước văn minh, 
                    mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.  
                  
                  
                    
                    
                                Đạo Phật không cho người Phật tử ỷ lại ta là 
                    Phật tử, lỡ làm tội sám hối sẽ hết. “Sám hối” nghĩa là chừa 
                    bỏ lỗi cũ và không tạo lỗi mới. Người biết sám hối là biết 
                    chừa lỗi cũ, không tạo lỗi mới, nhờ thế bớt tội. Người không 
                    biết sám hối xưa làm tội nay tiếp tục làm tội, thì tội càng 
                    thêm nặng, dù lạy vạn Phật cũng không phải sám hối, không 
                    thể nào bớt tội được.  
                  
                  
                    
                    
                                Phật tử không hiểu ý nghĩa hai chữ sám hối nên 
                    vừa lạy sám hối xong, về nhà nghĩ: “Bữa nay sám hối rồi, tội 
                    lỗi cũ ngang đây xem như xí xóa. Ta bắt đầu làm tội mới, mai 
                    mốt sám hối nữa sẽ hết”. Nửa tháng sám hối một lần như vậy 
                    thì tha hồ tạo tội, Phật bôi sổ đều đều, đâu phải lo. Sám 
                    hối như vậy có hết tội không? Chẳng những không hết mà tội 
                    ngày càng chất chồng thêm. Phải hiểu  sám hối là chuyển 
                    nghiệp của mình. Người biết tu nhận định rõ ràng nghiệp lành 
                    đưa tới chỗ an vui, nghiệp dữ đưa tới đau khổ. Nên từ bỏ 
                    những nghiệp dữ, tu tạo các nghiệp lành thì được sanh cõi 
                    trời, người an vui hạnh phúc. Nếu chọn con đường sát sanh, 
                    trộm cướp, tà dâm, nói dối… thì kết quả sẽ đi xuống địa ngục, 
                    ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta là chủ nhân để chọn con đường 
                    của mình, lên hay xuống tùy ta định liệu. Đức Phật được gọi 
                    là đấng Đạo sư tức người chỉ đường, chứ không phải người đón 
                    đưa mình đi lên hay đày đọa mình đi xuống. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu chúng ta can đảm muốn vượt lên tới chỗ cuối 
                    cùng thì đối với cả hai loại nghiệp đi lên và đi xuống này 
                    đều bỏ luôn, dừng hết. Lúc đó ta đi đâu? Dừng nghiệp đi 
                    xuống và bỏ cả nghiệp đi lên, chỗ này nhiều người sợ lắm, 
                    không biết đi đâu? Bởi chúng ta quen mong đời này tu đời sau 
                    hưởng phước, vì vậy thấy tạo nghiệp đi lên dễ chấp nhận. Bây 
                    giờ Phật dạy chỗ rốt ráo không tạo nghiệp đi xuống, cũng 
                    không tạo nghiệp đi lên, không biết phải đi đâu? Đó là giải 
                    thoát sanh tử, còn đi đâu nữa.  
                  
                  
                    
                    
                                Như tôi đã nói trong ba nghiệp, ý nghiệp là chủ. 
                    Ý nghĩ ác, nghĩ lành, nghĩ đủ thứ. Bởi nghĩ ác nên đi xuống 
                    đường dữ, nghĩ thiện nên đi lên đường lành. Bây giờ cả hai 
                    đường dữ và lành đều dừng hết tức là dứt mầm sanh tử, giải 
                    thoát sanh tử. Đây chính là mục đích cuối cùng chúng ta mong 
                    muốn, sao bây giờ lại nghi ngại? Trong kinh Tịnh độ nói Tam 
                    nghiệp thường thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương: ba 
                    nghiệp thường trong sạch thì đồng với chư Phật về cõi Phật. 
                    Nghiệp sạch mới về cõi Phật được chứ. 
                  
                  
                    
                    
                                Với người tu thiền, muốn ra khỏi sanh tử luân 
                    hồi, Phật dạy phải buông hết những vọng niệm lăng xăng xấu 
                    ác cũng như hiền thiện. Hai hướng đó dừng hết là dứt sạch 
                    nghiệp. Dứt nghiệp là giải thoát sanh tử. Nói tóm lại, ai 
                    muốn được hưởng đời sau sung sướng thì tu nghiệp lành, ai 
                    muốn hưởng sung sướng mà tạo nghiệp ác thì phải chịu quả khổ, 
                    còn người muốn giải thoát sanh tử, ra khỏi luân hồi lục đạo 
                    thì phải dứt sạch nghiệp. Mà chủ động của nghiệp là ý, nên 
                    phải dừng từ ý. Chẳng những không tham, không sân, không si, 
                    mà tất cả ý niệm đều phải sạch. Dừng được như vậy mới giải 
                    thoát sanh tử.  
                  
                  
                    
                    
                                Lục Tổ Huệ Năng khi được Ngũ Tổ truyền y bát rồi, 
                    Ngài đi về phương Nam. Mọi người hay được tức giận đuổi theo 
                    để giành y lại, vì cho rằng Lục Tổ chỉ là một gã cư sĩ quê 
                    dốt không đủ tư cách đảm nhận y bát và làm Tổ kế tiếp. Trong 
                    số ấy có thượng tọa Minh, xưa là võ tướng phi ngựa rất nhanh 
                    nên đuổi kịp. Lục Tổ thấy có người đuổi theo, biết được ý họ 
                    nên Ngài để y bát trên bàn thạch, nghĩ rằng: “Y bát là vật 
                    biểu tín, không phải trọng tâm của sự giác ngộ, họ cố giành 
                    thôi ta để lại”. Ngài liền trốn vô lùm cây. Huệ Minh tới nơi 
                    thấy y bát trên bàn thạch mừng quá, xuống ngựa ôm lên nhưng 
                    ôm không nổi. Chừng đó mới giựt mình biết đây là vật nhiệm 
                    mầu, người thường không thể chạm đến. Ngay đó ông thức tỉnh, 
                    đổi tâm giành y bát thành tâm cầu pháp, bèn kêu: “Hành giả! 
                    Hành giả! Tôi tới đây vì pháp chứ không phải vì y bát”. Nghe 
                    thế Lục Tổ mới từ trong bụi chui ra nói: “Nếu ông vì pháp 
                    thì hãy đứng yên lặng giây lâu, tôi sẽ nói pháp cho nghe”. 
                    Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu, Tổ nói: “Không nghĩ 
                    thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng 
                    tọa Minh?” Ngay câu nói đó Thượng tọa Minh liền ngộ đạo.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nghĩ thiện, nghĩ ác là hai đường lên và xuống, 
                    bây giờ dứt hai đường đó, tâm lặng lẽ chính là mặt thật xưa 
                    nay của mình hiện tiền. Như khi ta ngồi ngoài vườn một mình 
                    có bóng mát và khí trời thanh thản, lòng không nghĩ suy gì 
                    hết. Ngay lúc đó có mình không? Mình ra sao? Chúng ta cứ ngỡ 
                    suy nghĩ hơn thua, phải quấy, tốt xấu là tâm mình, nếu không 
                    có nghĩ suy thì không có mình. Thật ra không phải vậy. Tâm 
                    nghĩ suy hơn thua phải quấy là tâm sinh diệt, tâm tạp nhạp, 
                    không phải mình. Hằng ngày ta nói “tôi nhớ” hoặc “tôi thương”. 
                    Có ai làm trái ý thì nói “tôi giận”… Như vậy, buồn thương 
                    giận ghét cái nào là mình? Nếu cái nào cũng là mình hết thì 
                    ta có mấy chục mình? Từ khi cha mẹ sanh ra cho tới ngày ta 
                    nhắm mắt mình là một hay nhiều? Ai cũng biết chỉ có một 
                    “mình” thôi, vậy tại sao lại cho cả trăm thứ buồn thương 
                    giận ghét đều là mình? Chính vì lầm nhận như thế nên ta 
                    không thấy được mặt mày thật của mình. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi ta không nghĩ suy gì hết, gió thổi mát mình 
                    biết mát, tiếng chim kêu mình nghe, bóng người đi mình thấy… 
                    Như vậy ta luôn “biết” một cách rõ ràng, không nhầm lẫn chút 
                    nào. Phật bảo tâm là cái “biết” ấy. Tuy nhiên, phải hiểu cái 
                    biết được chia làm hai loại chơn tâm và vọng tâm. Tâm biết 
                    sinh diệt liên tục từ cái này tới cái kia là tâm hư vọng. 
                    Còn tâm biết không sanh không diệt, rỗng rang, không hình 
                    không tướng là chơn tâm. Như vậy khi ta không nghĩ suy mà 
                    vẫn biết, đó là tâm thật hiện tiền, gọi là “bản lai diện mục.” 
                    Chỉ khi nào yên hết các thứ lăng xăng lộn xộn ta mới nhận ra 
                    tâm thật này.  
                  
                  
                    
                    
                                Người tu thiền hay tu niệm Phật… đều đi tới chỗ 
                    phải lặng hết những nghĩ suy, để tâm yên tịnh, trong sáng 
                    không dấy động, đó là trở về tâm thật hiện tiền của mình. 
                    Mình có tâm đó mà không nhớ, không biết nên bây giờ phải cố 
                    gắng dẹp các loạn tưởng để tâm ấy hiện ra. Do đó, niệm Phật 
                    muốn được thành công thì phải nhất tâm. Người tu thiền phải 
                    định mới dừng hết tán loạn. Chừng đó tâm thật của chính mình 
                    tự nhiên hiện bày. Lâu nay ta có sẵn tâm ấy, nhưng nó bị lẩn 
                    khuất trong đám nghĩ suy lăng xăng lộn xộn nên ta không nhận 
                    ra.  
                  
                  
                    
                    
                                Hiện giờ chúng ta vì dùng tâm điên đảo nên tạo 
                    nghiệp này nghiệp nọ, sanh cõi này cõi kia liên miên không 
                    dừng. Phật dạy muốn giải thoát sanh tử phải dừng tâm đó, 
                    lặng nó đi thì mới giải thoát sanh tử được. Ý nghĩa này hết 
                    sức rõ ràng, nhưng người tu Phật ít khi chú ý, ít khi nghĩ 
                    tới. 
                  
                  
                    
                    
                                Thiền sư Nam Tuyền - Phổ Nguyện có một đệ tử đến 
                    xin học đạo là Ngài Triệu Châu Tùng Thẩm. Lúc đó ngài Triệu 
                    Châu còn nhỏ, là Sa-di. Thiền sư Nam Tuyền hỏi:  
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Triệu Châu thưa:  
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Hòa thượng, con là Sa-di có chủ.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Nam Tuyền hỏi:  
                  
                  
                    
                    
                                - Chủ ở đâu?  
                  
                  
                    
                    
                                Triệu Châu liền chắp tay thưa:  
                  
                  
                    
                    
                                - Mùa đông giá rét, kính chúc Hòa thượng được 
                    trăm tuổi.  
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Nam Tuyền gật đầu. Hôm khác, ngài Triệu 
                    Châu hỏi thầy:  
                  
                  
                    
                    
                                - Thế nào là đạo?  
                  
                  
                    
                    
                                Ngài Nam Tuyền trả lời: 
                  
                  
                    
                    
                                - Tâm bình thường là đạo.  
                  
                  
                    
                    
                                Ngay đó Ngài Triệu Châu liền ngộ. Câu trả lời 
                    nghe đơn giản quá chừng! Người xưa không giấu diếm chúng ta 
                    điều gì, chỉ tại mình không hiểu thôi. Nghe nói “tâm bình 
                    thường” thấy dễ quá, mình cũng bình thường sao không thấy 
                    đạo? Chúng ta có tâm bình thường chưa? Tâm chưa bình thường 
                    tức là bất thường. Tâm bất thường là tâm điên đảo, đã điên 
                    đảo thì làm sao thấy đạo được? Bởi vậy Phật nói chúng sanh 
                    điên đảo, sống mà không thấy được lẽ thực, nên chịu đau khổ. 
                    Nhưng chúng sanh có ai nhận mình điên đảo đâu? 
                  
                  
                    
                    
                                Những nghĩ suy phải quấy, tốt xấu, hơn thua… 
                    luôn luôn chạy vùn vụt trong đầu ta không dừng nên lẽ thật 
                    bị che khuất. Bây giờ muốn thấy lẽ thật, thì phải dừng nó 
                    lại. Dừng nó lại lẽ thật tự hiện, không cần tìm kiếm ở đâu 
                    hết. Chữ “Đạo” là chân lý, cũng gọi là Phật tánh. Tánh Phật 
                    của chúng ta sẵn đó mà mình không biết, cứ chạy tìm nơi này 
                    nơi kia. Thật sự, chỉ cần dừng tâm niệm thiện ác hai bên thì 
                    tánh Phật hiện ra. Như vậy, có người nào không đủ khả năng 
                    thành Phật không? Chúng ta là Phật con, chỉ vì chưa phát 
                    hiện được thôi, chứ đã có chủng tử sẵn rồi, nên Phật dùng từ 
                    “Phật tử” tức Phật con. 
                  
                  
                    
                    
                                Hiểu chỗ này rồi chúng ta mới thấy tu là chuyển 
                    dần từ con người phàm tục si mê, thành con người giác ngộ 
                    sáng suốt. Chứ không phải tu đứng khựng một chỗ, chờ hết năm 
                    hết tháng chết rồi, đời sau sanh ra sướng hơn đời này một 
                    chút, thế là hài lòng. Có những người giàu sang bằng năm 
                    mười lần mình nhưng họ vẫn kêu khổ như thường. Bởi khổ đã 
                    nằm sẵn nơi thân tạm bợ này rồi, sanh lão bệnh tử khổ. Cuối 
                    cùng tất cả đều là một thây thối. Gầy cũng thối, mập cũng 
                    thối, đen cũng thối, trắng cũng thối, giàu cũng thối, nghèo 
                    cũng thối, chứ có người nào khác hơn đâu. Con đường đi tới 
                    của mọi người đều giống hệt nhau, không có sự khác biệt. Chỉ 
                    ai biết tu, biết chuyển nghiệp, dứt nghiệp thì mới đổi khác. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nghiệp do tâm nghĩ lành hoặc nghĩ dữ tạo ra, lâu 
                    nay chúng ta lầm tưởng nó thật. Sự thật không phải vậy. Tổ 
                    Đạo Tín, đệ tử tổ Tăng Xán Ngài còn là Sa-di, đến đảnh lễ 
                    thưa với tổ Tăng Xán:  
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Hòa thượng, xin Ngài dạy cho con pháp môn 
                    giải thoát.  
                  
                  
                    
                    
                                Tổ Tăng Xán nhìn thẳng vào mặt ngài Đạo Tín hỏi: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Ai trói buộc ngươi?  
                  
                  
                    
                    
                                - Thưa không ai trói buộc con. 
                  
                  
                    
                    
                                - Đã không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ngay đó ngài Đạo Tín ngộ đạo.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta thấy nghiệp là từ ý niệm, mà ý niệm 
                    không thật nên nghiệp cũng không thật. Ngài Đạo Tín tưởng có 
                    một cái gì thật trói buộc khiến mình không giải thoát. Khi 
                    Tổ hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín nhìn lại, thấy 
                    không ai trói buộc nên thưa với Tổ: “Không ai trói buộc 
                    con”. Tổ bảo: “Đã không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” 
                    Ngay đó Ngài được tự tại.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhìn lại chúng ta có nhiều lầm lỗi đáng thương. 
                    Thí dụ thấy người đó dễ thương ta liền khởi niệm thương. 
                    Niệm thương ấy lôi kéo, khiến mình đuổi theo người kia. Nếu 
                    họ không thương lại thì mình khổ, rồi đổ thừa tại nghiệp tôi 
                    nó vậy. Đáng cười nhất là trong chùa, mấy thầy trẻ trẻ gặp 
                    bổn đạo dễ thương, thế là rủ nhau ra đời. Nếu ai hỏi tại sao 
                    đang tu mà ra đời, thì trả lời tại nghiệp lôi. Nghiệp không 
                    thật, làm sao lôi mình được, nhưng vì mình theo nó nên nó 
                    thành thật. Vì vậy ngài Khuê Phong nói: “Nghiệp” thể không 
                    mà thành sự. Thể tức bản chất của nghiệp là không, nhưng khi 
                    ý khởi tốt xấu, rồi nói làm theo đó nên thành nghiệp. Biết 
                    bản chất của nghiệp không thật, chúng ta không theo nó, 
                    không gây tạo thì dứt nghiệp. Còn nếu theo nó, gây tạo thì 
                    nó kéo chúng ta đi hoài.  
                  
                  
                    
                    
                                Mọi người ở thế gian đều đi theo nghiệp. Nghiệp 
                    giống như sợi dây xỏ mũi, nó lôi đâu mình đi đó, không cưỡng 
                    lại được nên trầm luân muôn kiếp. Ngày nay, chúng ta tu theo 
                    Phật thì phải dứt sạch nghiệp, chuyển mê lầm thành giác ngộ. 
                    Khi không nghĩ thiện không nghĩ ác chúng ta vẫn hiện tiền 
                    chứ không mất. Chúng ta là chủ đi trong luân hồi sanh tử 
                    chúng ta cũng là chủ để giải thoát luân hồi sanh tử. Biết rõ 
                    như vậy là chúng ta biết tu.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúc tất cả dứt sạch ba nghiệp để được an vui tự 
                    tại ngay giữa cõi đời đau khổ này. Đó là mục đích cuối cùng 
                    của người tu Phật chúng ta vậy. 
                  
                  
                    
                    
                                (Thiền Viện Thường Chiếu) 
                      
                  
                  
                    
                    
                                03-24-2009 07:23:16