CON ĐƯỜNG CỦA BỤT
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    (Bài pháp thoại đầu tiên của Sư Ông trong mùa an cư kiết 
                    đông 20.11.2008)
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Người phiên tả: Sư cô Trí Nghiêm
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong mùa an cư, chúng ta cần thực tập cho 
                    nghiêm chỉnh. Đừng đi ra khỏi giới trường. Làm thế nào để 
                    mỗi giây phút của mùa an cư trở thành sự thực tập –Sự thực 
                    tập chung của tăng thân và mỗi cá nhân. Mình phải biết tận 
                    dụng thời gian này, phải hạ quyết tâm để chuyển hóa những 
                    khó khăn nơi bản thân. Cơ hội được tu tập chung với tăng 
                    thân sẽ cho mình nhiều điều kiện thuận lợi để chuyển hóa, để 
                    chế tác hạnh phúc hơn khi tu tập một mình. Năng lượng tập 
                    thể của tăng thân có thể giúp mình bước được những bước rất 
                    dài trong sự chuyển hóa. Bởi khi ta nương vào năng lượng tập 
                    thể của tăng thân thì niệm lực và định lực nơi ta sẽ mạnh mẽ 
                    hơn. Nhiều vị xuất gia đều ý thức được sự cần thiết của ba 
                    tháng an cư, nhưng vì Phật sự đa đoan, dù có cố gắng mấy, 
                    các vị ấy cũng chỉ an cư được có mấy tuần.  
                  
                  
                    
                    
                                Quê Hương Đích Thực
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sự thực tập an cư miên mật được thể hiện qua 
                    việc hành trì giới luật và uy nghi. Và sự thực tập chánh 
                    niệm cũng là sự thực tập giới. Thầy đã và đang thực tập như 
                    vậy. Trong lúc vặn nước rửa mặt, Thầy tiếp xúc được với nước 
                    chảy ra từ vòi rất mát. Thầy ý thức được nó đến từ nguồn 
                    suối cao hoặc từ lòng đất sâu, và lòng biết ơn trong thầy 
                    luôn tràn đầy. Hành động chải răng cũng cho ta cơ hội để 
                    thực tập. Nếu mỗi giây mỗi phút của việc chải răng, mình  
                    đều an trú được trong giây phút hiện tại thì mỗi giây mỗi 
                    phút ấy mang về cho chính mình thật nhiều hạnh phúc. Hạnh 
                    phúc hay không hạnh phúc đều tùy nơi mình. Nghe chuông cũng 
                    là cơ hội cho mình tiếp xúc với hạnh phúc. Tiếng chuông giúp 
                    mình dừng lại –Dừng sự rong ruổi về quá khứ, dừng sự rong 
                    ruổi về tương lai. Dừng lại để nhận ra quê hương đích thực 
                    của mình đang ở đâu. Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe. Tiếng 
                    chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong bài thơ Quê Hương, nhà thơ Đỗ Trung Quân 
                    có định nghĩa quê hương là chùm khế ngọt, đường đi học,…Nhưng 
                    quê hương của chúng ta –Những người con thực tập theo con 
                    đường tỉnh thức của Bụt –khác với quê hương được định nghĩa 
                    như trên. Quê hương của chúng ta không phải chỉ ở nơi kỷ 
                    niệm, không phải chỉ là cái thiên đường ngày xưa. Chùm khế 
                    ngọt hay con đường đi học thân quen đã thuộc về quá khứ. Do 
                    vậy, cái quê hương được nói đến trong bài thơ trên chỉ là 
                    một ý niệm, mà không phải là thực tại. Có thể thời ấu thơ, 
                    mình được trèo hái những chùm khế ngọt đong đưa trong gió, 
                    được thả diều trong những buổi trưa hè, được đi học mỗi ngày 
                    trên con đường thân quen hay bắt bướm ven vệ đường…Mình có 
                    thể có hạnh phúc với những giây phút ấy thật. Nhưng có thể 
                    mình chưa có ý thức. Bởi có hạnh phúc là một chuyện, mà ý 
                    thức rằng mình đang có hạnh phúc lại là chuyện khác. Có may 
                    mắn là một chuyện, mà ý thức được rằng, mình đang có may mắn 
                    là một chuyện khác. Sự ý thức về những hạnh phúc, những may 
                    mắn của chính mình rất quan trọng, bởi nó chính là chánh 
                    niệm.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi nghe tiếng chuông,  mình trở về với hơi thở, 
                    và ý thức được sự có mặt thực sự của mình cho sự sống mầu 
                    nhiệm xung quanh như trời xanh, mây trắng, hoa vàng, cây táo, 
                    cây sồi,…Tất cả những thứ ấy là quê hương của mình, chứ 
                    không phải chỉ là chùm khế ngọt, con đò nhỏ,…của quá khứ đã 
                    đi qua. Quê hương đích thực của mình chính là sự sống diễn 
                    ra trong giây phút hiện tại. Và mình sẽ cảm thấy thoải mái ở 
                    bất kỳ nơi đâu, nếu mình có mặt được, tiếp xúc được với sự 
                    sống. Đừng để những cơ hội đẹp được tiếp xúc với quê hương 
                    đi qua trong hời hợt, trong quên lãng. Những người biết thực 
                    tập là những người luôn biết tận dụng những cơ hội như vậy. 
                    Và ba tháng an cư đang là cơ hội của tất cả chúng ta. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Con Đường Của Bụt
                    
                  
                  
                    
                    
                                Con đường của Bụt là chủ đề của khoá tu an cư 
                    kiết đông năm nay. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta 
                    đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài. Con đường ấy sẽ giúp 
                    chúng ta chuyển hóa những khổ đau, đem lại hạnh phúc cho 
                    mình và cho người. Có thể nhiều người sẽ thắc mắc, tại sao 
                    chúng ta cần học lại về con đường của Bụt trong khi nó đã 
                    được đề cập rất rõ ràng trong kinh luật luận? Lý do thật đơn 
                    giản, vì thế giới đang đi tới một trật tự mới –Một trật tự 
                    toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính 
                    trị, giáo dục... Và tất yếu, nền luân lý đạo đức cũng không 
                    thể nào ra khỏi quỹ đạo này. Một trật tự toàn cầu cần có một 
                    nền đạo đức được chấp nhận của toàn thể nhân loại. Bởi vì, 
                    mỗi châu, mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi nhóm dân có nền văn 
                    hóa, nền đạo đức với những giá trị và tiêu chuẩn riêng. 
                    Trong xu thế toàn cầu hóa, chúng ta cần đi tới sự công nhận 
                    những giá trị chung. Và những người tu tập theo đạo Bụt cần 
                    phải nói lên tiếng nói từ trái tim của mình để cống hiến cho 
                    nền đạo đức toàn cầu hóa này. Cụ thể, mình sẽ đem ra đóng 
                    góp gì? 
                  
                  
                    
                    
                                Năm 1993, tại Chicago, một hội nghị thượng đỉnh 
                    về vấn đề đạo đức toàn cầu đã được diễn ra. Trong hội nghị 
                    này, một văn bản chuyên môn về đạo đức toàn cầu đã được một 
                    nhà thần học người Đức đưa ra. Khi đọc những tài liệu này, 
                    có thể tuệ giác của chúng ta sẽ được xúc chạm, và những cái 
                    thấy đó sẽ được đem đóng góp cho nền đạo đức toàn cầu.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong tiếng Việt, có chữ đạo đức, luân lý. Chữ 
                    luân lý dùng để dịch cho chữ morality, và chữ đạo đức cũng 
                    có thể dịch là morality hay ethic. Chữ luân lý là một từ Hán 
                    việt. Luân là cách hành xử giữa người với người sao cho trọn 
                    vẹn, sao cho có hạnh phúc, và vắng mặt sự khổ đau. Có một từ 
                    liên quan đến chữ luân mà chúng ta cũng rất hay dùng là nhân 
                    luân. Nó có nghĩa là đạo đức của con người. Chữ lý là những 
                    nguyên tắc, luật lệ căn bản cho những hành động. Luân lý có 
                    thể là cách nói tắt của luân thường đạo lý. Chữ thường có 
                    nghĩa là chung –Những nguyên tắc hành xử giữa con người với 
                    con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, và được 
                    mọi người chấp nhận. Đạo là con đường. Và lý ở đây ngoài 
                    nghĩa trên còn có thêm một nghĩa nữa là lý luận. Như vậy, 
                    luân thường đạo lý có thể hiểu là những nguyên tắc luân lý 
                    đưa tới một con đường bằng những lối hành xử giữa con người 
                    và con người, và được chấp nhận bởi tất cả mọi người. Đây là 
                    quan điểm của người Á Đông. Người Á Đông còn quan niệm về 
                    đạo đức như sau: Đạo là con đường, đức là những tính tốt như 
                    sự thành thật, lòng nhân từ…Do vậy, đạo đức có thể hiểu là 
                    con đường hay đức hạnh.  Những đức hạnh mang lại cho mình 
                    những con đường. Con đường giúp mình tránh những đau khổ, và 
                    không làm cho người khác đau khổ. Con đường làm cho mình có 
                    hạnh phúc, và giúp cho người khác có hạnh phúc.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khi đức Thế Tôn thành đạo, ngài cũng nghĩ đến 
                    con đường. Thành đạo có nghĩa là sự giác ngộ hoàn toàn, là 
                    sự giải thoát. Chữ thành đạo này không chỉ có nghĩa là con 
                    đường, mà nó còn có nghĩa là thấy chân lý, là thấy được sự 
                    thật, là sự thực hiện được sự thật, là một tuệ giác lớn. Đạo 
                    là tuệ giác và cũng là con đường để đi đến tuệ giác đó.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôn giáo cũng có thể dịch là tông giáo. Tông là 
                    truyền thống, tông phái. Chữ tôn giáo theo cách hiểu của Tây 
                    phương có dính líu tới Thượng Đế và niềm tin nơi đấng Thượng 
                    Đế. Nhưng tôn giáo không hẳn cần phải có niềm tin nơi một 
                    đấng hay một truyền thống nào đó. Chữ giáo có nghĩ là dạy. 
                    Có khi tôn giáo cũng được dịch là đạo –Đạo ở đây chỉ có 
                    nghĩa là con đường. Nếu dùng chữ đạo để dịch cho chữ 
                    religion thì chưa chính xác. Vì chữ religion có hàm chứa yếu 
                    tố đấng tạo hoá, mà chữ đạo không hàm chứa nghĩa về một đấng 
                    tạo hóa.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong đạo Bụt, ý niệm về con đường rất rõ. Bài 
                    giảng đầu tiên của đức Thế Tôn hướng về năm người bạn đã 
                    từng tu khổ hạnh với Người –Năm anh em ông Kiều Trần Như –đã 
                    đặt nền tảng cho một nền đạo đức. Bài giảng đó còn được gọi 
                    là Chuyển Pháp Luân Kinh. Trong bài giảng này, Ngài đề cập 
                    đến bốn sự thật mầu nhiệm và con đường của tám sự hành trì 
                    chân chính. Cụ thể, Ngài nói về khổ đau của con người, và 
                    cách chuyển hoá khổ đau đó. Chuyển Pháp Luân Kinh có thể là 
                    căn bản cho nền đạo đức Phật giáo. Nó rất thực tế. Nó không 
                    là triết học mà là đạo đức học.  
                  
                  
                    
                    
                                Khổ Đế Và Tập Đế
                    
                  
                  
                    
                    
                               
                    
                    Tứ Diệu 
                    Đế 
                    
                    là bốn sự thật cao quý mầu nhiệm, hay còn gọi là Tứ Thánh Đế 
                    - Bốn sự thật thánh thiện, cũng có thể gọi là Tứ Chân Đế - 
                    Chân là chân thật không giả dối. Sự thật thứ nhất (khổ đế) 
                    công nhận có những khổ đau hiện diện trong cuộc đời. Ngay 
                    lời dạy đầu tiên của Ngài, mình có thể nhận thấy đức Thế Tôn 
                    rất thực tế. Ngài không dùng thời gian để nói về những vấn 
                    đề siêu hình không ích lợi cho đời sống của con người như 
                    vấn đề vũ trụ vạn hữu, ai đã tạo ra thế giới này. Ngài đưa 
                    chúng ta về với hiện trạng của bản thân chúng ta và hiện 
                    trạng của xã hội. Điều này rất cần thiết với mỗi chúng ta. 
                    Bởi muốn giải quyết những bức xúc, những khó khăn của chính 
                    mình cần phải biết nhìn lại mình, nhận diện những khổ đau 
                    đang có mặt và nguyên nhân dẫn đến những khổ đau đó. Nhiều 
                    người khi nghe ngài giảng, khổ đau là một sự thật, nên tìm 
                    đủ cách để chứng minh : tất cả đều là khổ. Lấy hết thời giờ 
                    của mình để chứng minh tất cả điều là khổ, sinh khổ, già khổ, 
                    bệnh khổ và chết cũng khổ. Từ cách hiểu như vậy đã dẫn đến 
                    sự phân chia khổ đau thành ba loại : khổ khổ, hành khổ, hoại 
                    khổ.  
                   
                  
                    
                    
                                Khổ khổ là tự thân vốn là khổ, đau răng là khổ, 
                    mất người thương là khổ. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hành khổ : hành là hiện tượng, tất cả các hiện 
                    tượng do nhân duyên tập hợp lại gọi là hành, thí dụ bông hoa 
                    là một hành, vì bông hoa được tạo nên từ rất nhiều nguyên 
                    nhân. Trong kinh nói chư hành vô thường, đây là một sự thật. 
                    Không có cái hành hay sự vật nào mà không vô thường. Không 
                    những cái đau răng của mình là vô thường mà cái răng của 
                    mình cũng vô thường. Đau răng cũng khổ mà không đau răng 
                    cũng khổ, hễ có răng là có khổ. Răng đau cũng khổ rồi mà 
                    răng chưa đau cũng khổ vì trước sau gì thì nó cũng đau. Ý 
                    tưởng này hơi cưỡng ép. Nếu các hành là khổ thì đâu có cái 
                    gì là không khổ đâu?  
                  
                  
                    
                    
                                Thứ 3 là hoại khổ, cái gì cũng tàn hoại hết, nó 
                    tàn hoại là khổ mà chưa tàn hoại cũng khổ như thường. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người mà giản nhưng điều này chỉ muốn chứng tỏ 
                    lời Bụt là đúng, rằng tất cả đều là khổ. Nhưng Bụt không hề 
                    nói như vậy. Bụt chỉ nói là cái khổ đang có mặt và chúng ta 
                    phải tìm cách giải quyết những cái khổ.  Đừng nên hiểu lời 
                    Bụt dạy theo cách quá giáo điều. Hiểu như thế thì rất tội 
                    cho Bụt. Do đó, khi giảng dạy về sự thật thứ nhất, chúng ta 
                    nên tránh cách hiểu : tất cả là khổ. Nên hiểu: tất cả là vô 
                    thường hay vô ngã thì đúng hơn.   
                  
                  
                    
                    
                                Trong xã hội khi sinh ra một đứa con thì đó là 
                    một niềm vui, tới ngày sinh nhật thì mình ăn mừng sinh nhật 
                    và hát bài happy birthday. Nếu nói sanh ra là khổ thì sao 
                    lại hát bài happy birthday to you, hay ăn mừng sinh nhật ? 
                    Nói già cũng khổ, nhưng đối với thầy, thầy thấy già rất vui, 
                    thầy già nên thầy biết. Người già thì trong người không có 
                    những năng lượng quá bồng bột, không có những bức xúc của 
                    tuổi trẻ. Già rất đằm, có thể sống sâu sắc được, già hay lắm 
                    đấy.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi còn trẻ, mình như một dòng suối nhảy múa 
                    trên núi, mình thao thức muốn đi ra biển càng sớm càng tốt. 
                    Nhưng khi dòng suối chảy đến đồng bằng, và hòa vào dòng sông 
                    thì tự nhiên nó sẽ chảy chậm lại. Khi đi chậm lại, mình sẽ 
                    thấy mây trời hiện ra trong lòng của mình. Đâu phải làm dòng 
                    suối mới vui, làm dòng sông cũng vui vậy. Và tuổi già cũng 
                    có rất nhiều điều kiện để mình sống vui phải không? Trong 
                    cuộc đời, ai mà không một lần bệnh. Nếu nói không biết bệnh 
                    là gì thì hơi xa rời thực tế. Còn nhỏ mà bị không bệnh thì 
                    lớn lên hệ thống miễn dịch sẽ rất yếu, và mình có thể sẽ 
                    chết bất cứ lúc nào. Nhờ có những cảm sốt vặt vãnh khi còn 
                    nhỏ nên khi trưởng thành hệ thống miễn dịch mới mạnh mẽ 
                    chống đỡ được với những con vi khuẩn từ bên ngoài xâm nhập. 
                    Cho nên bệnh không hẳn là điều tiêu cực. Vì không bệnh, tham 
                    dục sẽ nổi lên. Bệnh có thể là trợ duyên cho sự tu tập của 
                    mình. Còn vấn đề chết thì sao? Nếu không có chết thì làm sao 
                    có sống được. Nếu già không chết, lấy chỗ đâu cho con cháu 
                    sống? Thử tưởng tượng nếu trên trái đất toàn những ông bà 
                    già măn trăm, sáu trăm tuổi chống gậy lọm khọm vừa đi vừa ho 
                    sù sụ thì chán chết. Trong cơ thể, nếu không có tế bào chết 
                    đi thì những tế bào mới không thể sinh ra được. Cho nên cái 
                    chết rất cần thiết cho mình. Nếu mình chết với tuệ giác là 
                    chết mà không chết thì sự tái sinh của mình không phải là 
                    khổ 
                  
                  
                    
                    
                                Những người thực tập theo lời Bụt dạy cần phải 
                    uyển chuyển, khéo léo để sự hiểu và vận dụng giáo lý của 
                    Ngài phù hợp với hoàn cảnh sống.  Ngày xưa không có hiện 
                    tượng hâm nóng địa cầu,  
                  
                  
                    
                    
                                Không có nhiều căng thẳng, nhiều người bị bệnh 
                    tâm thần như ngày nay. Cũng không có nhiều bạo động và khủng 
                    bố, không có sự khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lối sống của 
                    người xưa không gây tàn hại môi trương khốc liệt như ngày 
                    nay, Cũng không có nhiều chiến tranh giữa các tôn giáo. Đây 
                    là những nỗi khổ có thật của thời đại, những khổ đế mà mình 
                    phải nhận diện. Vấn đề ở đây không phải đi tìm kiếm cái khổ 
                    mà là gọi đúng tên cái khổ đó. Mình biết khổ là có thật để 
                    tìm đường chuyển hoá. 
                  
                  
                    
                    
                                Sự thật thứ hai là Tập Đế, tập đế là nguyên nhân 
                    dẫn tới khổ đau. Muốn thấy được con đường thoát khổ thì phải 
                    thấy được những gốc rễ của khổ đau. Muốn chuyển hoá tình 
                    trạng hâm nóng địa cầu thì mình phải thấy nguyên nhân từ đâu 
                    dẫn tới chuyện hâm nóng địa cầu ? Cách mình tiêu thụ hằng 
                    ngày, sử dụng xe hơi, nuôi xúc vật để ăn thịt, phá hủy rừng 
                    cây… Tất cả những cái đó đều góp phần làm nóng địa cầu. Và 
                    chỉ khi biết rõ những nguyên nhân dẫn đến cái khổ, ta mới có 
                    thể chuyển hóa cái khổ hiệu quả được. Cái thấy này là một sự 
                    đóng góp rất thực tế cho nền văn hóa toàn cầu.  
                  
                  
                    
                    
                                Rõ ràng, chủ trương của Đạo Bụt không đòi hỏi 
                    phải có đức tin nơi một ai, không cần tin Bụt, không cần 
                    tinThượng Đế, chỉ cần biết dựa vào tuệ giác của chính mình 
                    để chấp nhận sự có mặt của khổ đau, tìm ra nguyên của khổ 
                    đau, và chuyển hóa khổ đau nơi mình và cuộc đời.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Bài pháp thoại đầu tiên của Sư Ông trong mùa an 
                    cư kiết đông 20.11.2008)
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người phiên tả: Sư cô Trí Nghiêm
                    
                  
                  
                    
                    
                               Bài 
                    viết liên hệ (đọc thêm):
                  
                  
                    
           
                    
                    
                    Lời Ban Biên Tập: Trọng tâm của giáo lý đức Phật nằm trong 
                    Tứ Diệu Đế mà Ngài đã tuyên thuyết ngay trong bài thuyết 
                    pháp đầu tiên sau khi Ngài thành Phật cho năm người bạn cũ 
                    đã tu khổ hạnh trước đó với Ngài tại vườn Lộc Uyển . Trong 
                    bài thuyết pháp ấy như chúng ta thấy trong nguyên bản, Tứ 
                    Diệu Đế được nói một cách ngắn gọn. Nhưng có nhiều nơi trong 
                    các kinh điển Nguyên Thủy và trong các luận giải về sau của 
                    chư Tổ và của quý cao tăng cả hai truyền thống Nam Truyền và 
                    Bắc Truyền, Tứ Diệu Đế được giảng giải bằng nhiều cách khác 
                    nhau và với nhiều chi tiết hơn. Nếu nghiên cứu Tứ Diệu Ðế 
                    này qua những tài liệu và giải thích ấy, ta sẽ có được một 
                    tường thuật khá đứng đắn và chính xác về những giáo lý tinh 
                    yếu của đức Phật theo những bản kinh Nguyên thủy. Thư viện 
                    Hoa Sen kính mời quý độc giả xem lại các bài giảng của quý 
                    thầy:
                    
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                  
                    
                    
                                12-11-2008 08:23:46