SỐNG VỚI HAI TRUYỀN THỐNG
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Nguyễn Duy Nhiên Phỏng dịch
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ông Gil Frondal tu tập theo đạo Phật hơn 
                    hai mươi lăm năm, và đã hành trì theo cả hai truyền thống 
                    Bắc tông và Nam tông. Ông đã từng xuất gia và tu tập theo 
                    truyền thống thiền Tào Động của Suzuki Roshi, và được Truyền 
                    Pháp (dharma transmission) vào năm 1995. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Và ông cũng đã tu tập theo truyền thống 
                    Vipassana của Phật giáo Nguyên thuỷ, dưới sự hướng dẫn của 
                    ngài U Pandita. Từ năm 1990, Fronsdal trở thành vị thầy giáo 
                    thọ thường trú tại
                    
                    trung 
                    tâm thiền Insight Meditation Center tại 
                    Mid-Peninsula ở thành phố Redwood, California.
                    
                   
                  
                    
                    
                                Trong bài phỏng vấn dưới đây, ông Gil Frondal có 
                    chia sẻ về kinh nghiệm thực tập của mình theo hai truyền 
                    thống Zen và Vipassana. Ông nói về những khác biệt cũng như 
                    sự hỗ tương lẫn nhau của hai truyền thống này.  Và ông cũng 
                    chia sẻ những nhận xét của mình về vấn đề truyền dạy Phật 
                    pháp ở phương Tây, những đổi mới và sự khác biệt của Phật 
                    giáo Hoa kỳ. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Theo nhận xét của ông, người Tây phương cũng cần 
                    nên học hỏi thêm về truyền thống và văn hóa Phật giáo ở Á 
                    châu, vì nó có thể giúp cho sự tu học của họ được thêm phần 
                    sâu sắc.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Xin gửi đến các bạn bài phỏng vấn đăng trên tạp 
                    chí Phật học Tricycle, ông Frondal chia sẻ về những kinh 
                    nghiệm thực tập của mình trong hai truyền thống Zen và 
                    Vipassana.
                    
                                Ít có người nào lại là vị thầy hướng dẫn thiền 
                    cho cả hai truyền thống Zen và Vipassana cùng một lúc.  Vì 
                    ông bắt đầu tu tập theo truyền thống Zen trước, nên ông có 
                    thể kể lại ông đã đến với pháp môn Zen như thế nào không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi bắt đầu chú ý đến đạo Phật khi còn ở đại học, 
                    khi tôi đang theo học ngành Khoa học Môi Trường 
                    (environmental science). Trong thời gian ấy tôi quan tâm về 
                    vấn đề làm sao để đối phó lại với sự thoái hoá của môi 
                    trường, và tìm hiểu những đóng góp của chúng ta trong vấn đề 
                    này.  
                  
                  
                    
                    
                                Việc này đã đưa tôi bước sâu vào những tư tưởng 
                    của Đông phương – nhất là của Trung hoa, đạo Lão – nó mang 
                    lại một mô hình hoàn toàn khác biệt về mối tương quan giữa 
                    con người với thiên nhiên. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi bắt đầu đọc những bài viết của Alan Watts và 
                    những sách về Phật giáo, và tôi cảm thấy rất phấn khởi, vì 
                    chúng dường như mang lại cho tôi những câu trả lời mới lạ. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Rồi một năm sau, tôi đọc được quyển Thiền Tâm Sơ 
                    Tâm của thiền sư Suzuki, và rất thích. Tôi cảm thấy như là 
                    nó trình bày một quan niệm sống mà tôi đang theo, mặc dù 
                    không hề ý thức đến. Và tôi cũng chú ý đến sự quan trọng của 
                    việc ngồi thiền mà quyển sách này nhấn mạnh. Mặc dù trong 
                    thời gian này tôi đã bỏ học đại học và đang sống trong một 
                    cộng đồng tâm linh, nhưng dường như chưa bao giờ ngồi thiền.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cũng chính ở nơi này mà tôi đã khám phá ra quyển 
                    Thiền Tâm Sơ Tâm.  Sau đó, khi vừa có dịp, tôi liền đi đến 
                    thiền viện San Francisco Zen Center của thiền sư Suzuki 
                    Roshi.  Nơi đây tôi học zazen, tức phương pháp ngồi thiền. 
                    Tôi rất thích lối thực tập zazen này và công phu rất chuyên 
                    cần.  
                  
                  
                    
                    
                                Dần dà, tôi muốn mang phương pháp ngồi thiền ấy 
                    vào trong đời sống hằng ngày của mình. Từ đó tôi xuất gia và 
                    trở thành một tu sĩ, mỗi lúc tôi càng bước sâu hơn vào con 
                    đường của đạo Phật. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thế thì còn ông bắt đầu thực tập pháp môn 
                    Vipassana như thế nào?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Sau bảy năm tập thiền theo truyền thống Zen ở 
                    Hoa kỳ, tôi lại tiếp tục sang tu tập trong một thiền viện ở 
                    Nhật bản. Trong thời gian ở đây, tôi phải ra khỏi nước để 
                    xin lại hộ chiếu mới. Và tôi sang Thái lan.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong khi chờ đợi được cấp hộ chiếu mới, tôi đi 
                    đến một thiền viện ở ngoại ô Bangkok. Tôi tò mò muốn biết ở 
                    đây người ta hành thiền theo truyền thống Nguyên Thuỷ như 
                    thế nào. Tôi thực tập theo lời hướng dẫn của vị sư cả, và 
                    lúc đó lại ngay vào một khóa tu thiền tập Vipassana tích cực. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vì lúc ấy hộ chiếu của tôi cũng phải mất ít nhất 
                    mười tuần mới xong, nên khóa tu im lặng Vipassana đầu tiên 
                    của tôi cũng kéo dài hết mười tuần.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong khóa tu ấy tôi có được một định lực rất 
                    mạnh, nó giúp tôi tiếp xúc được với cái mà tôi chỉ có thể 
                    diễn tả là những yếu tố cốt lõi của tâm mình, và nó thúc đẩy 
                    tôi muốn tiếp tục đi sâu hơn.  Một năm sau, tôi trở lại Thái 
                    lan và Miến điện, và tôi tinh chuyên tu tập theo truyền 
                    thống Vipassana thêm trong vòng một năm rưỡi. 
                  
                  
                    
                    
                                - Sau nhiều năm thực tập theo truyền thống Zen, 
                    khi đổi sang Vipassana ông nhận thấy như thế nào?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bản chất của Vipassana là chính niệm, hay 
                    là sự thực tập có mặt và ý thức rõ ràng với những gì đang 
                    xảy ra trong giờ phút hiện tại. Thật ra chính niệm cũng 
                    là một phương thức mà ta có thể thực tập trong nhiều truyền 
                    thống khác nhau. Và trong khuôn khổ giáo lý của Vipassana mà 
                    tôi tiếp xúc ở Á châu thì đây là một pháp môn có mục tiêu rõ 
                    rệt.  
                  
                  
                    
                    
                                Ngài U Pandita, vị thầy Miến điện của tôi, rất 
                    cứng rắn và cương quyết trong vấn đề đi đến Niết bàn, đạt 
                    được những tuệ giác và các quả vị tu chứng. Nếu như tôi là 
                    một thiền sinh mới, tôi chắc chắc là mình không thể nào sống 
                    sót được trong môi trường ấy đâu!  Có lẽ tôi sẽ bị mắc kẹt 
                    trong những hoài bão và sự tự phê phán của mình.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng nhờ năm tháng tu tập theo truyền thống 
                    Zen, tôi đã thực tập hoàn toàn chấp nhận những gì có mặt 
                    trong giây phút hiện tại. Tôi thích ứng rất mau và không dễ 
                    bị nản lòng. Trong khi vẫn cố gắng hết sức mình để theo sát 
                    lời hướng dẫn thực tập Vipassana, ngay khi ấy tôi vẫn thấy 
                    rằng, sự thực tập shikantaza, chỉ quản đả toạ, chỉ 
                    cần ngồi an nhiên thôi, cũng đã giúp ích cho tôi rất 
                    nhiều. 
                  
                  
                    
                    
                                - Thực tập theo hai truyền thống khác nhau như 
                    vậy có mang lại một sự xung đột nào cho ông không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Lúc đầu tôi cũng hơi vất vả khi cố gắng phối hợp 
                    giữa một truyền thống Zen, chủ trương rằng tu chứng nhất như, 
                    thực hành với chứng ngộ là một, với lại truyền thống của 
                    Nguyên thuỷ, chủ trương rằng ta phải cố gắng tu tập bây giờ 
                    để đạt được sự chứng ngộ về sau.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng sau cùng, tôi khám phá ra rằng hai phương 
                    pháp này không những chúng hỗ tương cho nhau, mà còn được 
                    xem như là hai mặt của cùng một đồng tiền. Thiền Tào Động 
                    dạy cho tôi chú ý đến bản chất thanh tịnh của mỗi giây 
                    phút hiện tại trong tiến trình ngồi thiền. Thiền 
                    Vipassana dạy cho tôi rằng, tiến trình ấy sẽ mang đến cho ta 
                    một sự tự do rộng lớn, mặc dù ta không hề xem đó làm 
                    một mục tiêu. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong khi thực tập Vipassana tôi ý thức rằng, 
                    thái độ chấp nhận chính mình và những gì xảy ra trong giây 
                    phút hiện tại, mà tôi học từ Zen, tự nó cũng là một tác ý 
                    cho sự giải thoát. Hiểu vậy, tôi thấy mình không cần phải 
                    đặt một mục tiêu để cố gắng buông bỏ những chướng ngại cho 
                    tác ý tự nhiên ấy.  
                  
                  
                    
                    
                                Và một trong những khó khăn tôi gặp phải trong 
                    thiền Zen là một thái độ tự mãn nguyện – một sự chấp nhận 
                    hơi dễ dãi và thoải mái. Thái độ ấy khiến tôi thiếu một sự 
                    thúc đẩy để cố gắng nhìn sâu hơn, để thấy rằng mình cũng vẫn 
                    còn nắm bắt và chống đối thực tại một cách rất vi tế.  Và 
                    thiền Vipassana, nhờ nhấn mạnh vào việc nhìn rõ những gì 
                    đang xảy ra trong giờ phút hiện tại, giúp tôi thoát ra 
                    khỏi trạng thái tự mãn ấy. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có mang những yếu tố của Zen vào phương 
                    pháp dạy Vipassana của mình không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong truyền thống Zen, tôi nhấn mạnh rằng mỗi 
                    giây phút ta thực tập chính niệm là mỗi giây phút toàn vẹn, 
                    tự chính nó là đầy đủ và hạnh phúc. Tôi khuyến khích các 
                    thiền sinh nên nhìn sâu hơn để nhận diện những gì 
                    đang ngăn chận không cho ta kinh nghiệm được điều ấy. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi dạy họ rằng, cái cứu cánh phải được biểu 
                    hiện ngay trong cái phương tiện, tức sự thực tập của mình.  
                    Nếu mục tiêu của ta là muốn được an lạc, thì sự thực tập của 
                    ta cũng phải có biểu hiện một chút an lạc nào đó.  Muốn có 
                    tâm từ, hãy thực tập tâm từ. Nếu muốn trở nên rộng lượng, 
                    hãy thực tập rộng lượng.  Nếu muốn có tự do, thì đừng để 
                    những hình thức thực tập hay sự chứng ngộ trở thành những 
                    đối tượng nắm bắt. 
                  
                  
                    
                    
                                - Có những yếu tố nào trong truyền thống 
                    Vipassana mà ông cảm thấy xung đột với mình không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi hơi có chút vấn đề với giáo pháp về Tam 
                    Pháp Ấn trong truyền thống Nguyên thuỷ: vô thường, khổ 
                    và vô ngã.  Khi tu tập ở Thái lan và Miến điện, tôi hơi khó 
                    chịu về việc giáo pháp ấy được dùng như những giáo điều nền 
                    tảng trong hầu hết tất cả các bài pháp thoại.  
                  
                  
                    
                    
                                Tôi hơi khó chịu khi cứ phải nghe đi nghe lại 
                    mãi về ba đặc tính này của sự sống vô thường, khổ và vô ngã. 
                    Tôi có cảm tưởng rằng chúng chỉ là những giáo điều hay quan 
                    điểm mà người ta chấp nhận, không phải vì họ có tuệ giác về 
                    chúng, mà là vì họ đã được dạy đi dạy lại như thế! Tôi không 
                    tin vào việc ta nên chấp nhận một giáo điều nào mà không 
                    phải bằng tuệ giác của chính mình. 
                  
                  
                    
                    
                                - Có phải ý ông nói là chấp nhận một quan điểm 
                    nào đó mà mình không hiểu thấu hết?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ý tôi nói tuệ giác không phải là một quan điểm. 
                    Vì tôi xuất thân từ truyền thống Zen nên tôi có một sự ngờ 
                    vực về các quan điểm. Trong truyền thống Zen chúng tôi phá 
                    đổ hết bất cứ một quan điểm nào ta áp đặt lên trên những 
                    kinh nghiệm của mình. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có vấn đề gì với giáo pháp về Tam pháp ấn 
                    này?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi đã không thể nào hoàn toàn hiểu hết được. Lẽ 
                    dĩ nhiên, nếu chúng ta nhìn rõ ta sẽ thấy mọi vật đều vô 
                    thường. Những ngọn núi là vô thường, điều đó tôi chấp nhận 
                    được. Nhưng nếu bảo rằng những ngọn núi phải chịu khổ đau 
                    thì tôi thấy hơi khó hiểu. Và cho rằng những ngọn núi "không 
                    có một cái ngã" cũng không có nghĩa lý gì nhiều lắm đối với 
                    tôi.  
                  
                  
                    
                    
                                Giáo pháp về tất cả đều vô thường, nếu ta phân 
                    tách và giải thích ra thì nó rất là dễ hiểu, nhưng tôi thấy 
                    dầu sao đó vẫn chỉ là một quan niệm suông, mà không có một 
                    chứng nghiệm cá nhân nào sâu sắc hết. 
                  
                  
                    
                    
                                Cuối cùng, tôi quyết định rằng mình chỉ có thể 
                    hiểu ba đặc tính ấy như là một sự diễn tả về tự tính 
                    của những kinh nghiệm của ta về thế giới chung quanh. Có rất 
                    nhiều vấn đề trong việc ta cho rằng mình biết thực tại thật 
                    sự là gì, và phải như thế nào. Tôi không nhìn thấy đạo Phật 
                    như là một hình thái mới của khoa Vật lý. Mà tôi thấy chính 
                    niệm phơi bày cho tôi thấy được mình đã nhận thức thế giới 
                    này như thế nào. 
                  
                  
                    
                    
                                - Như vậy thì ba đặc tính trong Tam pháp ấn ấy 
                    có những giá trị gì?
                    
                  
                  
                    
                    
                    Khi sự thực tập Vipassana được sâu sắc, ba đặc tính ấy sẽ 
                    trở nên rất hiển nhiên. Nhưng chúng không phải là kiến thức, 
                    một sự hiểu biết mà ta áp đặt vào, chúng trở thành một kinh 
                    nghiệm rất rõ rệt và nổi bật.  Nó rất là trực tiếp và ngay 
                    trước mắt ta.  Và tuệ giác này sẽ có năng lực giúp tâm ta 
                    bớt đi những dính mắc. Khi ta kinh nghiệm được rằng, 
                    không có gì là lâu bền và cố định để nắm bắt, tâm ta sẽ dần 
                    dà không còn bị dính mắc nữa. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có thể nói thêm về vấn đề quan điểm với 
                    lại tuệ giác không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong thời gian còn ở đại học, tôi thấy mình có 
                    khuynh hướng bám chặt vào những kiến thức và quan điểm, mà 
                    không hề mang chúng ra thử lại với những kinh nghiệm hoặc 
                    các chứng cớ khác.  
                  
                  
                    
                    
                                Ở đại học UC Davis tôi theo khoa Nông học, một 
                    ngành chuyên môn về sự chăm sóc và quản lý cách trồng trọt 
                    và mùa màng. Là một người có chủ trương bảo vệ môi sinh rất 
                    mạnh, tôi có những quan điểm rất cứng rắn về vấn đề trồng 
                    trọt hữu cơ (organic farming) với lại lối trồng trọt theo 
                    cách bình thường.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng khi tôi có dịp học hỏi thêm về những môn 
                    khoa học của đất đai, mùa màng, và phân bón, tôi thấy rằng 
                    những quan điểm của tôi quá khái quát và sơ sài. Và có nhiều 
                    điều lại hoàn toàn rất là sai lầm. Vậy mà tôi đã bám chặt 
                    vào chúng như là một chân lý vậy.  
                  
                  
                    
                    
                                Kinh nghiệm này đã giúp tôi trở nên thật sự biết 
                    khiêm tốn hơn. Vì vậy, khi bước chân vào học Phật, tôi cũng 
                    rất để ý và không muốn mình lại bị sa vào cái bẫy ấy. Tôi 
                    cũng thấy rằng, trong đạo người ta rất dễ có khuynh hướng 
                    đem suy diễn một cách tổng quát, và không chịu nhìn sâu sắc. 
                    Và tôi không muốn mình bị vướng vào lỗi lầm đó một lần nữa.
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Và ông làm thế nào để tránh được việc ấy?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Theo tôi thì học hỏi sâu sắc thêm về giáo lý và 
                    kinh điển có thể giúp mở rộng thêm phần tri thức của ta rất 
                    nhiều. Nó giúp tôi thấy được mình đang nắm giữ những quan 
                    điểm nào, tôi có những sự suy diễn nào về giáo lý, và bên 
                    dưới chúng là những giả định gì.  
                  
                  
                    
                    
                                Tôi dựa trên thẩm quyền nào để cho rằng một điều 
                    nào đó là sự thật?  Những câu hỏi ấy xuất phát từ truyền 
                    thống Zen của tôi, trong đó ta không được bị mắc kẹt vào 
                    bất cứ một quan điểm nào. 
                  
                  
                    
                    
                                Khi hướng dẫn các thiền sinh, tôi cố gắng nhìn 
                    sâu xem họ đang nắm bắt vào một quan điểm nào. Quan điểm ấy 
                    có thích hợp không?  Và có phải đây là lúc để tôi có thể 
                    giúp họ thoát ra khỏi quan điểm ấy không? 
                  
                  
                    
                    
                                - Nhưng đôi khi ông cũng có một lối dạy có vẻ 
                    hơi dễ dãi quá. Như là khi tóm tắt giáo lý về Tứ Diệu Đế, 
                    ông viết "Sự có mặt của hạnh phúc, và nguyên nhân của hạnh 
                    phúc." Tại sao lại có công thức mới đó?  Nó có yếu ớt quá 
                    chăng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Công thức đó chắc chắn không phải là một định 
                    nghĩa dứt khoát của Tứ Diệu Đế. Nhưng kinh nghiệm của tôi 
                    thì đôi khi trong đạo Phật người ta hơi quá nghiêm trọng 
                    trong vấn đề tu tập. Đôi khi lại còn là hơi khắc khổ nữa. Họ 
                    cứ chú trọng tìm kiếm những dính mắc, những nắm bắt của mình 
                    và tìm mọi cách buông bỏ. Và sự tu tập của họ vì vậy mà cũng 
                    trở nên quá nặng nề.  
                  
                  
                    
                    
                                Nếu ta có thể nhớ rằng hạnh phúc và an lạc cũng 
                    là một phần của sự tu tập, ta sẽ không bị sa vào chiếc bẫy 
                    ấy. Và sự tu tập của mình nhờ vậy cũng sẽ được dễ dàng hơn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Trong thời đại ngày nay, mọi người từ các giám 
                    đốc doanh nghiệp cho đến những nhân vật chơi thể thao, nhận 
                    thấy thực tập chính niệm – hay thiền quán – mang lại cho họ 
                    nhiều lợi ích.  Và thường thì chữ đạo Phật lại hoàn toàn bị 
                    loại bỏ ra ngoài sự thực tập ấy.  Ông thấy điều ấy có một sự 
                    nguy hại nào không?  Ví dụ, có gì ngăn chặn một vị giám đốc 
                    một doanh nghiệp, CEO, thực tập chính niệm như là một phương 
                    tiện giúp gia tăng lợi nhuận cho mình, thay vì một mục tiêu 
                    đạo đức hay từ bi nào khác?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thật ra tôi cũng không chắc phải trả lời câu ấy 
                    như thế nào, nhưng ta hãy nhìn nó dưới khía cạnh này: đối 
                    với tôi thì thiền Vipassana và thực tập chính niệm là một 
                    pháp môn rất mạnh mẽ và hiệu quả. Tôi rất vui khi thấy chúng 
                    đã giúp ích cho mọi người tùy theo nhu cầu của họ. Có rất 
                    nhiều người không quan tâm đến đạo Phật và họ cũng không đi 
                    theo con đường Bát Chính Đạo. Tôi cũng không có ý muốn cải 
                    đổi họ.  
                  
                  
                    
                    
                                Điều mà tôi muốn làm đây là mang sự thực tập của 
                    đạo Phật đến với tất cả mọi người, mọi tầng lớp và giới 
                    thiệu sự ích lợi của nó có thể áp dụng cho mọi giới khác 
                    nhau. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi thực tập theo tinh thần bồ tát trong truyền 
                    thống Zen: nguyện làm vơi bớt khổ đau của tất cả mọi 
                    người. Tôi không bao giờ từ chối bất cứ một ai đến với 
                    trung tâm của chúng tôi và muốn tiếp nhận những gì tôi có 
                    thể giúp được, như là: thiền tập, Phật pháp, một nơi ngồi 
                    thiền và một cộng đồng thực tập chung với nhau.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Có người dành hết cả cuộc đời mình cho sự thực 
                    tập Phật pháp. Có người tham dự những khóa thiều nhiều ngày, 
                    nhiều tháng, và họ còn đi sang Á châu để xuất gia trở thành 
                    tu sĩ.  Một bên thì trung tâm của chúng tôi luôn chú tâm và 
                    hỗ trợ cho những người này. Và một bên kia là cố gắng giúp 
                    đở cho những người trong các tầng lớp khác của xã hội. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Họ là những người có những cuộc sống căng thẳng, 
                    có những khó khăn đối phó với cuộc sống, và rồi họ tình cờ 
                    có dịp tìm đến trung tâm của chúng tôi. Và tôi rất hoan hỷ 
                    vì đã trao cho họ những phương thức thực tập mà có thể giúp 
                    ích được cho họ.  
                  
                  
                    
                    
                                Họ không nhất thiết phải trở thành những Phật tử. 
                    Nếu như họ chỉ muốn sống hạnh phúc hơn, tôi sẽ cố gắng giúp 
                    họ. Tôi cố gắng gặp họ trong hoàn cảnh của chính họ.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người ta có thể than phiền về một thứ "Đạo Phật 
                    nhẹ nhàng" (Buddhism lite), nhưng tôi có niềm tin vào sự 
                    thực tập. Tôi có rất nhiều niềm tin vào trái tim của người 
                    khác. Tôi tin rằng trong chúng ta bao giờ cũng có một xung 
                    lực cố hữu, lúc nào cũng muốn đẩy ta đến giải thoát và một 
                    tình thương lớn.  
                  
                  
                    
                    
                                Và khi ta giúp người khác một cách chân chính, 
                    những tính thiện ấy tự chúng sẽ biểu hiện ra. Tôi không cần 
                    bắt họ phải quy y hoặc khuyến khích họ đi theo một chiều 
                    hướng nào đó. Cách hay nhất là ta gặp họ ngay trong chính 
                    hoàn cảnh của họ.  
                  
                  
                    
                    
                                Nếu sự thực tập của họ quá vị kỷ, không chóng 
                    thì chày họ cũng sẽ bỏ cuộc hoặc nhận thấy được những giới 
                    hạn của sự vị kỷ ấy. Đến một lúc nào đó, ta không thể nào 
                    chỉ thực tập riêng cho chính mình được. Động cơ thúc đẩy 
                    chúng ta trên con đường tu tập, một phần cũng là vì tình 
                    thương đối với kẻ khác nữa. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông thấy có vấn đề gì khi ta bắt đầu tu tập 
                    bằng ngồi thiền, như là Vipassana, thay vì là với những thực 
                    tập cơ bản như là học giáo lý, tụng kinh, tập nghi lễ trước 
                    hết hay chăng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Không có gì là sai trật với việc chúng ta bắt 
                    đầu sự tu tập bằng thực tập ngồi thiền. Nhưng ta sẽ khó giữ 
                    cho sự thực tập ấy được lâu bền nếu ta không có được những 
                    sự hỗ trợ khác.  
                  
                  
                    
                    
                                Theo truyền thống thì sự thực tập Vipassana 
                    phải có sự ủng hộ và bảo vệ của giới luật, cộng đồng, nghi 
                    lễ, và những sự thực tập khác như là quán tâm từ, thiền định.  
                    Người ta cũng thường tổ chức những ngày hội vui hoặc nghi 
                    thức hành lễ, mà mục đích là để mang cộng đồng tu học lại 
                    với nhau, để thiết lập một môi trường nương tựa lẫn nhau.  
                    Và nó cũng nhắc nhở rằng, ta không phải thực tập cho riêng 
                    chính mình, mà còn là cho những người chung quanh nữa.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi thấy phong trào Vipassana ở Hoa kỳ có một 
                    khuyết điểm là nó chưa có được một tăng thân vững mạnh đủ, 
                    và vì vậy mà có một số hành giả trở nên quá vị kỷ trong sự 
                    thực tập của mình. Thực tập nương tựa vào cộng đồng, vào 
                    tăng thân, và theo truyền thống, có thể giúp ta sửa đổi được 
                    khiếm khuyết này. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có thể cho một ví dụ về một sự đổi mới nào 
                    trong đường lối tu tập đạo Phật ở Hoa kỳ, và ông nghĩ nó có 
                    giúp ích gì không?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Một ví dụ là phong trào Vipassana ở Hoa kỳ ngày 
                    nay thường hay nhấn mạnh về sự "tương quan kết nối" 
                    (interconnected) trong giáo lý về vô ngã, anatta.  Ý niệm 
                    này thường được nhấn mạnh nhiều đến nỗi người ta có thể hiểu 
                    lầm rằng, giác ngộ được lý tương-quan-kết-nối này là mục 
                    tiêu rốt ráo của đạo Phật.  
                  
                  
                    
                    
                                Sự thật không phải vậy! Thật ra thì đó chỉ là 
                    một sự nhấn mạnh riêng cho người Hoa kỳ.  Theo tôi nghĩ, ý 
                    thức về sự nối-liền này được đưa ra như là một liều thuốc 
                    giải độc cho chủ nghĩa cá nhân (individualism) của chúng ta, 
                    và giúp chữa trị những khổ đau do sự chia cắt ấy gây nên.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đối với những người Phật tử ở Á châu, đặc biệt 
                    là ở Ấn độ và Đông Nam Á, những giáo lý này rất xa lạ đối 
                    với họ. Và có lẽ nó cũng không mang lại một ích lợi gì nhiều, 
                    vì ở Á châu họ không có chủ nghĩa cá nhân.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong kinh điển Pali, sự tương quan liên kết 
                    (interconnectedness) không được xem như là một giá trị tuyệt 
                    đối. Sự giải thoát của ta không hề tùy thuộc vào một thế 
                    giới nối-liền nhau.  
                  
                  
                    
                    
                                Ở chỗ này, hiểu được truyền thống và thế giới 
                    quan của Á châu, giúp ta thấy rõ được sự khác biệt trong sự 
                    truyền dạy ở Tây phương. Và khi nhận thấy được sự khác biệt 
                    ấy rồi, chúng ta có thể tự hỏi tại sao lại có sự khác biệt 
                    ấy. Chúng ta nhấn mạnh lý tương quan với ý nghĩa gì đây?  
                    Tại sao nó lại quan trọng đến như vậy?  Chúng ta cũng có thể 
                    hỏi rằng, sự nhấn mạnh này của chúng ta có đúng với nền tảng 
                    giáo lý phật pháp hay không? 
                  
                  
                    
                    
                                Mỗi người sẽ có một câu trả lời khác nhau.  Có 
                    người cho rằng sự quan trọng hóa lý tương quan là một sự sai 
                    lạc của giáo pháp, dharma; người khác cho rằng nó là một sự 
                    cải tiến của giáo pháp.  Có một quan điểm cho rằng, đó là 
                    một sự truyền đạt chính xác của đạo Phật áp dụng rất thích 
                    hợp cho văn hóa Tây phương.  Hoặc là nó làm sáng tỏ thêm 
                    những khía cạnh trong Phật pháp mà vô tình đã bị chìm khuất 
                    ở Á châu. 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi không quan tâm đến vấn đề ta nên đồng ý theo 
                    quan điểm nào, có lẽ mỗi quan điểm đều có phần đúng.  Tôi 
                    chỉ muốn hiểu cho sâu sắc truyền thống Phật giáo ở Á châu, 
                    để ta đừng tự đánh lừa mình, cho rằng những gì ta đang giảng 
                    dạy và tu tập ở đây là cách Phật giáo đã và đang được hành 
                    trì từ xưa đến nay. 
                  
                  
                    
                    
                                Nếu như ta chấp nhận một cái ngã tương quan liên 
                    kết này (interconnected self), thì có phải chăng cái ngã 
                    tương quan ấy cũng vẫn cần được xem xét lại như cái ngã cá 
                    nhân (individual self) chăng? 
                  
                  
                    
                    
                                Tôi hy vọng là như vậy!  Cho rằng cái ngã ấy là 
                    một với tất cả vạn hữu hay là "cái ngã không độc lập" thì nó 
                    vẫn là một ý niệm về cái ngã.  Người ta rất dễ chấp vào một 
                    kinh nghiệp sâu sắc nào đó như là mục tiêu của sự tu tập, 
                    hoặc liên kết kinh nghiệm ấy với lại một ý niệm về cái Tôi. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nhận diện được sự liên kết mật thiết giữa mọi sự 
                    sống là một cảm nhận rất mãnh liệt.  Nhưng nếu ta cho đó là 
                    cứu cánh là ta đã tự dối lừa mình, vì sự giải thoát phải 
                    vượt ra hết mọi những kinh nghiệm nào còn điều kiện.  Chứng 
                    nghiệm được sự tương quan giữa mọi vật là một kinh nghiệm 
                    rất kỳ diệu, nhưng dầu sao thì nó vẫn còn bị điều kiện. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Một lời dạy trong đạo Phật là bất cứ một quan 
                    điểm nào mà ta có về tự tính của cái ngã, cho dù là cái ngã 
                    độc lập hay tương quan, thì vẫn chỉ là một ý niệm mà thôi, 
                    chưa phải là sự giải thoát rốt ráo.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy mà tôi thường hay nhấn mạnh về sự thực 
                    tập chính niệm, một cái nhìn thẳm thấu không biện luận, thay 
                    vì là những suy tư và phân tách.  Ta phải thực tập một 
                    chính niệm không suy diễn, bằng một kinh nghiệm trực 
                    tiếp. 
                  
                  
                    
                    
                                - Ông có lạc quan về tương lai của Phật giáo ở 
                    Hoa kỳ chăng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Có chứ!  Tôi rất lạc quan khi tôi nghĩ đến những 
                    cộng đồng tu học đang mỗi lúc một bành trướng. Tôi cũng rất 
                    phấn khởi khi thấy những hành giả từ nhiều truyền thống khác 
                    nhau có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Và dù vậy, tuy 
                    chúng ta học hỏi lẫn nhau, nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta 
                    cũng sẽ giữ cho các truyền thống vẫn được riêng biệt. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi là vị thầy của hai truyền thống Zen và 
                    Vipassana, và tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta đừng bao 
                    giờ pha trộn hai truyền thống lại và làm thành một.  
                    Mỗi cái có một nét đơn nhất và cá biệt. Chúng bắt nguồn từ 
                    những thế giới quan khác nhau.  
                  
                  
                    
                    
                                Mỗi truyền thống có những tuệ giác và đường lối 
                    khác nhau về giáo pháp. Tôi mong muốn những truyền thống 
                    cùng có mặt hoà hài với nhau, trở thành những tấm gương soi 
                    lẫn nhau, để giúp ta đi sâu hơn vào truyền thống của chính 
                    mình. 
                  
                  
                    
                    
                                - Nhưng ông là một ví dụ rất cụ thể của một 
                    người Tây phương được tiếp xúc và hành trì nhiều hơn là một 
                    truyền thống của đạo Phật.  Và có thể nào ta tránh được khỏi 
                    vấn đề chúng ảnh hưởng và nhồi nắn lẫn nhau chăng?
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi rất hoan hỷ với sự ảnh hưởng bỡi hai truyền 
                    thống của mình.  Nhưng tôi không hề muốn những truyền thống 
                    hoà nhập chung lại với nhau thành một hình thức hỗn hợp, 
                    không rõ ràng.  
                  
                  
                    
                    
                                Là một vị thầy của hai truyền thống, tôi bao giờ 
                    cũng rất cẩn thận về việc duy trì sự khác biệt ấy. Đối với 
                    người chỉ theo một truyền thống thì họ có thể dễ dàng áp 
                    dụng và vay mượn từ những truyền thống khác mà không có gì 
                    lo ngại hết. Nhưng tôi thì phải quan tâm, vì tôi không muốn 
                    biến Vipassana thành một hình thái mới của Zen, cũng như 
                    biến Zen thành một hình thái mới của Vipassana.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Chúng có những sự khác biệt và tôi tôn trọng sự 
                    khác biệt ấy.  Và tôi cũng rất biết ơn là nhờ ở cả hai 
                    truyền thống mà tôi thấy mình được trở nên giàu có hơn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nguyễn Duy Nhiên 
                    phỏng dịch
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Hoằng Pháp)
                    
                  
                  
                    
                    
                                10-31-2008 07:23:55