SIÊU VIỆT KHÁI NIỆM VỀ TỰ LỰC VÀ THA LỰC
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Đạo Sinh
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tự lực và tha lực là hai khái niệm đối đãi được 
                    hình thành từ nhận thức của con người về sự hiện hữu độc lập 
                    của mỗi một cá thể trong thế giới thời-không. Đây là loại 
                    nhận thức xuất hiện rất sớm trong mỗi người, ít nhất là từ 
                    khi con người bắt đầu nhận biết về thế giới chung quanh. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Theo thời gian, nhận thức này dần dần được xem 
                    như một sự thật hiển nhiên, không còn phải thắc mắc. Phật 
                    giáo gọi cách nhìn như thế là hữu thân kiến (satkāyadṛṣṭi), 
                    tức sự mặc nhiên thừa nhận tính chất thực hữu của thân xác 
                    mình với mọi thuộc tính tâm sinh lý của nó.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi gọi như thế, dù muốn hay không Phật giáo  đã 
                    nhìn nhận có hiện hữu một cái nhìn phổ quát như thế ở con 
                    người. Tuy nhiên, điều đáng nói là Phật giáo lại cho rằng đó 
                    là một cái nhìn không chính xác; và chính cách nhìn không 
                    chính xác này đã góp phần không nhỏ vào những khổ đau con 
                    người phải chịu đựng.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi bàn về các phiền não của con người, luận 
                    Câu-xá, ngoài các phiền não như tham lam, sân hận, u mê, 
                    khinh mạn, và hoài nghi, đã liệt kê cái nhìn trên như là 
                    loại phiền não làm nền cho bốn nhận thức sai lầm khác là 
                    biên chấp kiến (antagrāhadṛṣṭi), 
                    tà kiến (mithyādṛṣṭi), 
                    kiến thủ (dṛṣṭiparāmarśa), 
                    và giới cấm thủ (śīlavrataparāmarśa).  
                  
                  
                    
                    
                                Theo Phật giáo, dù năm phiền não thuộc nhận thức 
                    này có thể được đoạn trừ dễ dàng hơn các phiền não trước 
                    nhưng chúng vẫn được liệt vào loại căn bản; có nghĩa, chừng 
                    nào chúng còn thường xuyên hiện hành trong tâm thức thì một 
                    hành giả Phật giáo khó có thể hy vọng nhìn thấy đúng bản 
                    chất của thực tại một đòi hỏi rất cao và không thể thiếu để 
                    có thể đạt đến giải thoát.  
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, có thể xem phiền não là chướng ngại lớn 
                    nhất mà những người theo Phật giáo buộc phải vượt qua bằng 
                    mọi cách trước khi có thể nói đến một thành tựu khả dĩ nào 
                    đó. Nhìn chung, hầu như tất cả các truyền thống Phật giáo 
                    đều thống nhất về điều này; tuy nhiên, những mô tả và giải 
                    pháp được đề ra vẫn có nhiều điểm không tương đồng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Luận Thành Duy Thức khi giải thích một bài tụng 
                    trong Tam Thập Tụng (karmano vāsanā grāhadvayavāsanayā saha 
                    / kṣīne 
                    pūrvavipāke’nyad vipākaṃ 
                    janayanti //) đã cho ta một mô tả chi tiết về tiến trình 
                    hình thành các phiền não thuộc nhận thức này. Vāsanā (tập 
                    khí), một thuật ngữ khá quen thuộc với những người học Duy 
                    thức, được dùng để chỉ cho dấu vết những gì đã tác động đến 
                    tâm thức chúng ta trong quá trình tri nhận về chính mình và 
                    thế giới.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi sinh ra, hiện hữu của mỗi một chúng ta được 
                    xác định trong tương quan với người khác bằng nhiều cách 
                    khác nhau, nhưng chủ yếu nhất vẫn là qua danh tự mà chúng ta 
                    được đặt tên theo đó.  
                  
                  
                    
                    
                                Mặc dù được dùng để biểu thị sự tồn tại của một 
                    cá thể, nhưng tự thân danh tự lại là một hiện hữu độc lập 
                    chứ không đồng nhất với cá thể mà nó biểu thị. Tuy nhiên 
                    trong tâm thức của mỗi người chúng ta thì tên gọi của một cá 
                    thể lại chính là cá thể đó.  
                  
                  
                    
                    
                                Đây là sai lầm đầu tiên chúng ta phạm phải mà 
                    không hề hay biết. Nói cách khác, qua sự đồng nhất này chúng 
                    ta đã mặc nhiên nhìn nhận một cách vô thức biệt tính của một 
                    cá thể và tất cả những gì thuộc về nó. Và đau khổ nhất là dù 
                    có hay biết thì chúng ta cũng không thể nào thoát được sự 
                    trói buộc của một nhận thức như thế, bởi vì chính chúng ta 
                    là nhận thức đó.  
                  
                  
                    
                    
                                Nói một cách dễ hiểu hơn, khi tâm thức chúng ta 
                    đã được in dấu bởi những ấn tượng về ngôn ngữ như thế thì 
                    chúng ta không thể suy nghĩ được điều gì cả nếu không có 
                    ngôn ngữ, dù ở bất kỳ dạng nào. Đồng nhất tên gọi với cá thể 
                    có nghĩa là chúng ta bắt đầu gán cho nó mọi thứ ý nghĩa lẽ 
                    ra nó không thể có.  
                  
                  
                    
                    
                                Chính từ sự đồng nhất này mà mọi khái niệm về 
                    chính mình và thế giới chung quanh bắt đầu nảy sinh, làm nền 
                    cho mọi hình thái phát triển trong suốt cả cuộc đời chúng 
                    ta: một sự phát triển hoàn toàn được thiết lập trên khái 
                    niệm về Tự và Tha.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong không gian chúng ta thấy mình tách biệt 
                    với người khác; và trong thời gian chúng ta thấy có sự tồn 
                    tại thường hằng của một chủ thể nhất định, ít ra là dưới một 
                    tên gọi nào đó, cho dù chúng ta nhìn nhận rằng chủ thể này 
                    có những thuộc tính thường xuyên biến đổi qua từng thời kỳ 
                    khác nhau của đời sống.  
                  
                  
                    
                    
                                Đây là một sự thực rất hiển nhiên đối với con 
                    người. Con người tin tưởng điều này vì con người xác chứng 
                    được điều này trong thế giới thường nghiệm. Chính với một 
                    nhận thức như thế mà con người đã nhận ra tính chất bất toàn 
                    trong các thuộc tính của mình và đã tìm mọi cách có thể có 
                    để bổ khuyết sự bất toàn này.  
                  
                  
                    
                    
                                Người Phật tử không phải là ngoại lệ. Họ tìm đến 
                    Phật giáo cũng giống như những tín đồ của bất kỳ một tôn 
                    giáo hay một chủ thuyết nào trên trái đất, tức để tìm kiếm 
                    một phúc lạc nào đó trong cuộc sống mà họ trực nhận ra rằng 
                    khổ nhiều hơn vui. Nếu có khác thì chỉ khác một điều: đó là 
                    họ nghĩ rằng Phật giáo là tôn giáo hay chủ thuyết ưu việt 
                    nhất, và duy nhất có thể giúp họ hoàn thiện mọi thuộc tính 
                    của một tồn tại nhất định như thế.  
                  
                  
                    
                    
                                Nếu trình bày trên phù hợp với những gì thường 
                    được nói đến trong Phật giáo thì có lẽ chúng ta sẽ nhận ra 
                    ngay một điều vô cùng khó khăn cho Phật giáo khi Phật giáo 
                    tự nhận sứ mạng của mình là phải giúp con người, cả Phật tử 
                    cũng như không phải Phật tử, thoát ra mọi phiền não và ảo 
                    tưởng về chính mình và thế giới. 
                  
                  
                    
                    
                                Đứng trước một đòi hỏi như thế, triết học truyền 
                    thống Ấn Độ đã nỗ lực hình thành một biệt tính bất biến 
                    trong toàn bộ cơ cấu con người. Đây là một nỗ lực đáng giá 
                    trong lịch sử triết học loài người, vì nó đáp ứng được khao 
                    khát ngàn đời của con người đối với sự vĩnh cửu; đồng thời 
                    giúp con người chạy trốn được nỗi hư vô cùng cực nếu phải 
                    đối mặt với sự thật là tồn tại của mình không gì khác hơn 
                    một quáng nắng, một giấc mộng.  
                  
                  
                    
                    
                                Nhưng đến khi Phật giáo xuất hiện thì những khái 
                    niệm về một chủ thể tính như thế không còn là giải pháp tối 
                    ưu trong nỗ lực hoàn thiện bản thân của từng con người. Phật 
                    giáo minh nhiên tuyên bố rằng bất kỳ khái niệm nào về một 
                    chủ thể tính bất biến trong chuỗi tồn tại của các điều kiện 
                    hình thành đời sống một con người đều sai lầm.  
                  
                  
                    
                    
                                Có thể nói rằng tuyên bố trên của Phật giáo đã 
                    tạo ra vô số vấn đề nan giải không chỉ đối với triết học 
                    truyền thống Ấn Độ mà còn cả đối với tự thân Phật giáo. Quan 
                    niệm về sự không tồn tại một bản ngã bất biến thuộc về địa 
                    vực của kinh nghiệm tự chứng; có nghĩa, quan niệm này không 
                    thể được chứng thực một cách tuyệt đối trên bình diện thường 
                    nghiệm hay các phương pháp luận lý.  
                  
                  
                    
                    
                                Nói cách khác, nó khó có thể mang tính phổ quát 
                    nếu chỉ được thừa nhận bởi các tín đồ Phật giáo, những người 
                    sẵn sàng thừa nhận mọi tiền đề cho sự xác chứng một quan 
                    niệm như thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo, không 
                    thiếu những nỗ lực nhằm mang lại tính phổ quát cho quan niệm 
                    này.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta tìm thấy nỗ lực của các nhà Phân biệt 
                    thuyết (Vaibhāṣika) 
                    khi họ tìm cách chứng thực rằng mặc dù Ngã chỉ hiện hữu qua 
                    danh tự, hay giả hữu, nhưng vẫn có những yếu tố khác thực 
                    hữu (dravya) như tâm, tâm sở, một số yếu tố không tương ưng 
                    với tâm, và các yếu tố vô vi như Niết-bàn.  
                  
                  
                    
                    
                                Đây là những giải thích công phu và rất chi ly, 
                    nhằm xác nhận “nhân cách” của một cá thể, hay đúng hơn nhằm 
                    tạo một tính chất tích cực nào đó cho quan niệm khá tiêu cực 
                    về Ngã nói trên.  
                  
                  
                    
                    
                                Tuy nhiên, người ta vẫn có thể tự hỏi khi làm 
                    như thế có phải những nhà Phân biệt thuyết đang cố gắng thay 
                    thế nội dung của chủ thể tính bằng một khái niệm về sự tồn 
                    tại của tâm thức. Và người ta có quyền thắc mắc như thế khi 
                    liên hệ đến quan niệm về Niết-bàn của các nhà Phân biệt 
                    thuyết này.  
                  
                  
                    
                    
                                Nếu Niết-bàn được hiểu như là sự nguội lạnh của 
                    phiền não thì một thánh giả Phật giáo là ai trong trạng thái 
                    đã “nguội lạnh” đó? Nếu nói rằng chỉ có trạng thái “nguội 
                    lạnh” chứ không có một chủ thể làm nền cho sự nguội lạnh đó 
                    thì Phật giáo có thể bị đồng nhất với Vaiśeṣika 
                    về sự tồn tại độc lập của những thuộc tính nào đó.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu nói rằng Niết-bàn là một trạng thái trống 
                    rỗng thì Phật giáo không khác gì Hư vô luận. Nếu Niết-bàn là 
                    “trạng thái” nằm ngoài địa vực thường nghiệm thì những giải 
                    thích của các nhà Phân biệt thuyết lại rơi vào một loại siêu 
                    hình học giáo điều; và lúc đó Phật giáo không khác gì triết 
                    học truyền thống Ấn Độ; vì cả hai đều không thể chứng minh 
                    trên lãnh vực thường nghiệm sự không hiện hữu hay sự hiện 
                    hữu của một chủ thể tính nhất định.  
                  
                  
                    
                    
                                Tình trạng này dẫn Phật giáo đối mặt với một vấn 
                    đề sinh tử: Nếu xem Vô ngã là quan niệm cốt lõi và Niết-bàn 
                    là cứu cánh của Phật giáo thì phải thừa nhận triết học này 
                    là một loại siêu hình học giáo điều. Điều này có nghĩa tính 
                    thể của chân lý, phổ quát tính của chân lý đó, không được 
                    chứng minh trong Phật giáo.  
                  
                  
                    
                    
                                Trong lịch sử Phật giáo, rõ ràng các nhà Phân 
                    biệt thuyết đã làm hết sức mình để chỉ có thể duy trì Phật 
                    giáo như một loại triết học kinh viện hay giáo điều, tức chỉ 
                    như một tôn giáo thuần túy chỉ dành riêng cho những tín đồ 
                    hiện tại hay trong tương lai của mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Điều này không gì khác hơn một sự đóng băng của 
                    Phật giáo. Nếu những gì đã nói ở trên tương phù với lịch sử 
                    tồn tại của Phật giáo, thì chúng ta có thể nhận ra ngay 
                    những nỗ lực của các nhà Đại thừa to lớn như thế nào trong 
                    việc bảo vệ và phát triển giáo lý đặc thù của Phật giáo giữa 
                    bối cảnh của một nền triết học truyền thống của Ấn Độ như 
                    thế nào.  
                  
                  
                    
                    
                                Trước sự tấn công ác liệt của triết học truyền 
                    thống Ấn Độ, nhất là trong thời kỳ của Śaṅkara, 
                    các nhà Phân biệt thuyết ở Ấn Độ đã không thể tồn tại ngoại 
                    trừ người anh em của mình ở Sri Lanka là nơi may mắn họ 
                    không gặp một đối thủ nào cả trong việc bảo vệ nền triết học 
                    giáo điều của mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Tất cả đều rút lui nhường lại cho các nhà Đại 
                    thừa trong cuộc đương đầu một mất một còn với hệ tư tưởng 
                    hữu Ngã của nền triết học truyền thống Ấn Độ. Vậy thì các 
                    nhà Đại thừa đã bảo vệ và phát triển Phật giáo như thế nào? 
                    Dĩ nhiên là trong kho tàng vô tận của giáo lý nhà Phật, Đại 
                    thừa đã chọn một vũ khí đặc thù và tích cực nhất, làm nền 
                    tảng trung tâm cho mọi minh chứng và quảng bá giá trị của 
                    Phật giáo, đó là lý Duyên khởi (pratītyasamutpāda).  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Với lý Duyên khởi trong tay, các nhà Đại thừa 
                    bắt đầu phá hủy mọi giá trị được xem như tuyệt đối của tất 
                    cả các khái niệm đối đãi về thực tại tối hậu đã được thiết 
                    lập trong cả triết học truyền thống Ấn Độ cũng như triết học 
                    kinh viện Phật giáo.  
                  
                  
                    
                    
                                Thực tại tối hậu siêu việt mọi khái niệm, kể cả 
                    những khái niệm về Hữu ngã cũng như Vô ngã. Vô ngã có thể là 
                    thực tại tối hậu mà tự thân Đức Phật đã thực chứng; nhưng 
                    khi vì thương xót chúng sinh mà Ngài công bố điều này thì 
                    trong thế giới khái niệm của chúng sinh thực tại tuyệt đối 
                    đã trở thành một loại khái niệm đối đầu với khái niệm Hữu 
                    ngã của triết học truyền thống.  
                  
                  
                    
                    
                                Kết quả, với khái niệm này trong đầu thì một tín 
                    đồ Phật giáo chằng khác gì một tín đồ Ấn giáo. Họ đã đánh 
                    mất tuyệt đối tính của một chân lý mà vị Đạo sư của họ đã 
                    quảng bá thành công rực rỡ lúc sinh tiền khi họ nỗ lực bảo 
                    vệ chân lý này bằng mọi thứ khái niệm có thể có. Vô ngã là 
                    hệ quả chứ không phải là tiền đề của Duyên khởi.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thay vì xiển dương Vô ngã như một chân lý đối 
                    lập với chân lý Hữu ngã, tức gián tiếp làm cho Vô ngã trở 
                    thành một loại chân lý tương đối, các nhà Đại thừa đã nỗ lực 
                    duy trì tuyệt đối tính của mọi chân lý mà Phật giáo đã khai 
                    mở cho con người, không phải bằng cách bảo vệ các khái niệm 
                    về chúng mà là triệt tiêu mọi cấu trúc khái niệm có thể có 
                    về chúng. Nói cách khác, trong tay các nhà Đại thừa, Phật 
                    giáo đã siêu việt đấu trường tranh biện của mọi khái niệm 
                    đối đãi giữa hữu và vô, tương đối và tuyệt đối; trong đó có 
                    cả khái niệm hư vọng về cái gọi là tự lực và tha lực. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Dĩ nhiên khi làm như thế các nhà Đại thừa đã gặp 
                    phải không ít ngộ nhận từ chính những người anh em của mình 
                    khi họ cho rằng Đại thừa đã phá hủy mọi giá trị truyền thống 
                    của Phật giáo về cứu cánh tuyệt đối. Đây có thể xem như ngộ 
                    nhận lớn nhất bởi vì họ đã đồng nhất thái độ phá hủy mọi 
                    khái niệm về thực tại tối hậu với thái độ phá hủy giá trị 
                    tuyệt đối.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi một tín đồ Tịnh độ tông công khai tuyên bố 
                    rằng họ đã giao phó toàn bộ sinh mạng họ cho Đức Phật A Di 
                    Đà, rằng họ không còn bận tâm đến những đau khổ hay hạnh 
                    phúc của họ  nữa, thì đó cũng là lúc mà tất cả ma vương và 
                    ma quân đều khiếp sợ.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì họ đã thoát ra được vòng hào quang êm đềm ma 
                    quỷ của những khái niệm đối đãi bệnh hoạn đã giam cầm họ từ 
                    vô lượng kiếp. 
                  
                  
                    
                    
                    Đạo Sinh 
                    
                  
                  
                    
                    
                                (Hoằng Pháp)
                    
                  
                  
                    
                    
                                09-20-2008 11:23:46