CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    Ni Sư AYYA KHEMA - Diệu Liên Lý Thu Linh
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong kinh Sa Môn Quả, Đức Phật còn phải giảng 
                    giải cho Potthapàda nhiều điều để tu tập, trước khi chỉ dạy 
                    cho ông về phương pháp hành thiền cũng như sự đoạn diệt tăng 
                    thượng tưởng. Giờ Đức Phật thuyết về chủ đề chánh niệm và sự 
                    hiểu biết rõ ràng (tỉnh giác). Đây là phương cách mà Ngài đã 
                    khai triển trong rất nhiều bản kinh: đầu tiên là gìn giữ 
                    giới luật, kế đến là kiềm chế các căn, rồi đến chánh niệm và 
                    sự hiểu biết rõ ràng (tỉnh giác). Hai điểm sau cùng đi đôi 
                    với nhau, thường được nhắc đến cùng lúc. Sati là chánh niệm 
                    và Sampajanna là sự hiểu biết rõ ràng. 
                  
                  
                    
                    
                                Và như thế nào... là một vị Tỷ kheo đã thành tựu 
                    về chánh niệm tỉnh giác ? Ở đây một vị Tỷ kheo khi đi tới, 
                    khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều 
                    tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang 
                    y, bình bát đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh 
                    giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, 
                    đứng, ngồi, nằm, thức, nói, đứng lặng đều tỉnh giác. Như thế 
                    đó, một vị Tỷ kheo đã thành tựu chánh niệm tỉnh giác. Chánh 
                    niệm có bốn lãnh vực: thân thọ tâm và pháp. 
                  
                  
                    
                    
                                Chánh niệm về thân được Đức Phật nói đến đầu 
                    tiên. Thực hành chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày là rất 
                    cần thiết, không chỉ trong lúc hành thiền. Nếu không có 
                    chánh niệm ngoài giờ hành thiền, thì cũng không thể có chánh 
                    niệm trong lúc hành thiền, vì chúng đi đôi với nhau. Vì thế 
                    chúng ta thực hành căn bản chánh niệm đầu tiên này bằng cách 
                    quán sát thân. Chúng ta ý thức về những gì mình đang làm, 
                    dầu đó là đi, đứng, ngồi, nằm, ươn vai, cúi đầu... hay bất 
                    cứ điều gì. Một trong những ích lợi của việc chánh niệm về 
                    thân là trong khi thực hành, chúng ta cũng giữ tâm được yên, 
                    không cho phép nó lăng xăng.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Lợi ích thứ hai là chánh niệm thanh tịnh hóa 
                    tâm. Nếu thực sự quán sát những gì mình đang làm, chúng ta 
                    không thể ngay trong giây phút đó bực bội, sân hận hay tham 
                    đắm. Đức Phật đã nhiều lần khuyên chúng ta nên sử dụng thân 
                    như là một đối tượng của chánh niệm. Trước hết, ta có thể dễ 
                    dàng cảm nhận, tiếp xúc được với thân mà không cần phải tìm 
                    kiểm sự có mặt của nó. Nếu thực hành được như thế, ta sẽ 
                    nhận thức được trong một thời gian ngắn sự có mặt của thanh 
                    tịnh, cũng như sự vắng mặt của bao tâm lý não phiền. Vì làm 
                    sao chúng ta có thể ở trong trạng thái bực bội, ham muốn hay 
                    ghét bỏ khi chúng ta quán sát những gì đang thực sự xảy ra? 
                    Lợi ích thứ ba là chánh niệm về thân giúp chúng ta có mặt 
                    ngay trong giây phút hiện tại, và dần dần ta nhận ra rằng 
                    không có giây phút nào khác hơn. Có mặt trong giây phút hiện 
                    tại thực sự là có mặt trong sự vĩnh cửu. Thông thường chúng 
                    ta thiết lập ranh giới trong từng giai đoạn: quá khứ, hiện 
                    tại và tương lai. Ta nhìn chúng như là ba giai đoạn, nhưng 
                    thực sự chúng ta chỉ có thể ở trong một, là hiện tại. Hai 
                    thời điểm kia là do tâm tạo; chúng là những ảo tưởng tạo ra 
                    bởi ký ức hay tưởng tượng. Phần lớn chúng ta sống trong quá 
                    khứ, hoặc hướng về tương lai, hoặc cả hai, nhưng nếu ta sống 
                    như thế thì ta khó mà giữ được chánh niệm cũng như hành 
                    thiền. Vì cả hai việc này đều xảy ra ngay trong giây phút 
                    hiện tại. 
                  
                  
                    
                    
                                Căn bản thứ hai của chánh niệm là sự ý thức về 
                    các cảm thọ, chúng ta cảm thấy gì. Căn bản thứ tư (chúng ta 
                    sẽ nói đến căn bản thứ ba trong chốc lát) là nội dung tư 
                    tưởng (pháp). Cả hai (thọ và pháp) đều có mặt trong lúc ta 
                    hành thiền và cần phải được duy trì trong đời sống hàng 
                    ngày. Thí dụ, khi một cảm thọ mạnh mẽ phát sinh, trước tiên 
                    ta phải nhận ra bản chất của nó và sau đó cố gắng thay thế 
                    một cảm thọ bất thiện với thiện. Chúng ta không cần phải tin 
                    vào tất cả mọi cảm xúc của mình. Nếu truy tìm nguồn gốc phát 
                    sinh của một cảm thọ, ta sẽ thấy rằng đó là do sự tiếp xúc 
                    của căn (giác quan) với trần cảnh (đối tượng). Một việc đáng 
                    để thể nghiệm. Đối với pháp (nội dung tư tưởng của chúng ta) 
                    cũng thế. Khi ta nhận thấy một tư tưởng là thiện, ta chỉ 
                    nhận biết như thế, rồi khi nó qua đi ta trở về chánh niệm 
                    thân. Nếu tư tưởng là bất thiện, ta cần nhanh chóng chuyển 
                    đổi nó. Chúng ta càng ít chứa điều bất thiện trong tâm, thì 
                    chúng càng ít có cơ hội để phát triển thành thói quen xấu 
                    trong tâm. Chúng ta càng ý thức về tâm tham (nói chung là 
                    tất cả những gì ta muốn), và tâm sân (nói chung là tất cả 
                    những gì ta không muốn), càng không để cho chúng có thời 
                    gian trụ lại trong tâm, thì ta càng để buông bỏ chúng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Căn bản thứ ba của chánh niệm là tâm thức hay 
                    những trạng thái tiềm ẩn. Đây cũng là một đối tượng quán sát 
                    quan trọng. Nếu chúng ta có thể nhận biết được tính chất bất 
                    thiện trước khi nó phát triển thành tưởng hay thọ, thì việc 
                    chuyển hóa nó sẽ dễ dàng hơn. Nhiều người mang những trạng 
                    thái tâm tiêu cực nặng nề đến nỗi họ cảm thấy rất khó thay 
                    đổi. Nhưng phần đông chúng ta có thể chuyển hóa từ bất thiện 
                    sang thiện. Nếu ta nhận ra được tính chất hờn dỗi, ghen tỵ 
                    hay sân hận đưa đến những suy nghĩ hay cảm thọ bất thiện, 
                    thì ta có thể cố gắng đối phó với chính trạng thái đó, trong 
                    nhận thức rằng nó chỉ là một trạng thái, không có gì quan 
                    trọng hơn. Đúng vậy không có gì mà chúng ta sở hữu, tư duy, 
                    hay thực hiện có một sự quan trọng căn bản hay sâu sắc nào. 
                    Đơn giản là chúng chỉ xảy ra. Chúng ta không cần phải duy 
                    trì một cảm thọ, một tâm hay một pháp nào, nếu chúng đe dọa 
                    hạnh phúc của bản thân. Bản thân chúng ta càng có được nhiều 
                    hạnh phúc, thì ta càng có thể ban tặng cho người khác nhiều 
                    hơn. Chúng ta không thể cho những gì mình không có. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đó là bốn căn bản chánh niệm: thân thọ tâm và 
                    pháp. Chánh niệm là sự thuần chú tâm; không kèm theo phán 
                    đoán. Đó chính là sự tỉnh giác hiểu biểt rõ ràng rằng các 
                    cảm xúc, tình cảm, tâm hay pháp là thiện hay bất thiện, để 
                    giúp chúng ta chuyển hóa. Mỗi người chúng ta đều có khả năng 
                    hiểu biểt rõ ràng; ta có đủ trí tuệ để làm điều đó. Dĩ 
                    nhiên, chúng ta cũng có tất cả những yếu điểm của một con 
                    người phàm phu, những yếu tố luôn mang đến sự bất hạnh, lo 
                    âu sân hận, phiền não, nhưng chúng ta không cần phải bám giữ 
                    chúng. Với tâm tỉnh giác, ta có thể nhận ra điều này và bắt 
                    đầu hoán chuyển những điều bất thiện thành thiện. Chúng ta 
                    thực hành điều này khi hành thiền, rèn luyện để các suy nghĩ 
                    lăng xăng qua đi và đem sự chú tâm trở lại với đề mục thiền 
                    quán, và chúng ta cũng thực hành như thế trong đời sống hàng 
                    ngày.   
                  
                  
                    
                    
                                Người gửi bài: Tịnh Tú
                    
                  
                  
                    
                    
                                Cùng Tác Giả:
                    
                  
                  
                  
                  
                    
                    
                                11-15-2008 11:23:46