Ý NGHĨA CHỮ XẢ TRONG ĐẠO PHẬT
                    
                  
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Xả là một trong 4 pháp Vô lượng tâm: Từ bi hỷ và 
                    xả. 4 trạng thái tâm này là kết quả của quá trình tu tập 37 
                    phẩm trợ đạo. Nói một cách khác, nó là kết quả của hành giả 
                    sau khi đã thành tựu giới định và tuệ. Tức là sau khi thấy 
                    rõ thực tướng của các pháp là vô thường, khổ, không và vô 
                    ngã, từ đó trạng thái hỷ xả của tâm mới xuất hiện, do vậy 
                    khái niệm xả trong đạo Phật không mang ý nghĩa bình thường, 
                    nó luôn luôn liên hệ với trí tuệ. Có nghĩa là nếu không có 
                    trí tuệ thì trạng thái xả ấy không phải là loại xả trong đạo 
                    Phật, dù là đạo Phật thuộc Thượng toạ bộ hay Phật giáo Đại 
                    thừa.  
                  
                  
                    
                    
                                Sự khác biệt về quan niệm ‘xả’ giữa hai phái chỉ 
                    là sự khác biệt về cách mô tả về trí tuệ. Theo Thượng toạ bộ 
                    cho rằng, trí tuệ (pa??a) chỉ xuật hiện khi nào có sự phân 
                    biệt, so sánh đối tượng, kết quả của sự phân biệt, nó cho 
                    chúng ta có sự nhận thức đúng về sự vật, cái đó là trí tuệ; 
                    Ngược lại, Đại thừa mô tả về trí tuệ bằng từ ngữ pra-jnparmit, 
                    pra là trước, trước khi; jn 
                    là nhận thức và parmita 
                    là đến bờ bên kia, tức là giác ngộ, từ này bổ nghĩa cho khái 
                    niệm jn, 
                    có nghĩa là sự nhận thức của bậc đã giải thoát, không phải 
                    là kẻ phàm phu. Như vậy từ pra-jnparmit 
                    là sự nhận thức trước khi có sự so sánh phân biệt về đối 
                    tượng. Có thể nói đây là cách giải thíc không đồng giữa hai 
                    trường phái về tuệ giác của Phật. Thế nhưng dù gì đi nữa, cả 
                    hai khái niệm này đều cùng có chung nguồn gốc, xuất phát từ 
                    sự hiểu biết, là trí tuệ. Do vậy, khái niệm ‘xả’ trong Phật 
                    giáo không đồng nghĩa với khái niệm ‘vô tri’ hay trạng thái 
                    'xả thọ' trong 3 thọ, là trạng thái vô tri vô giác, cũng như 
                    thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của con người. Đây chính 
                    là sự dị biệt về nhận thức luận giữa Phật giáo Tiểu thừa và 
                    Đại thừa. 
                  
                  
                    
                    
                                Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, 
                    khái niệm ‘xả’ trong Phật giáo nhấn mạnh hai điểm là sự xả 
                    bỏ hay chấp nhận sự chuyển biến của sự vật thuộc về vật chất 
                    và tư tưởg thuộc về tinh thần. Chỉ có sự chấp nhận này mới 
                    mang lại cho chúng ta cuộc sống an vui và hạnh phúc, thoát 
                    khỏi sự mâu thuẫn giữa nhận thức và thực tại. Với thái độ 
                    chấp nhận như vậy, đó là biểu thị tâm tư giải thoát không 
                    còn sự chấp trước, thoát khỏi sự dao động khấy nhiễu của 6 
                    trần. Đây chính là nội dung và ý nghĩa của chữ xả mà chúng 
                    ta sẽ thảo luận trong bài viết này. 
                  
                  
                    
                    
                                1-    Mối quan hệ giữa xả và trí tuệ
                    
                  
                  
                    
                    
                                Theo tryuền thống kinh tạng Pàli hay Àgama mô 
                    tả, khái niệm ‘xả’ là một trong ‘Bốn vô lượng tâm’: Từ, bi, 
                    hỷ và xả. 4 pháp vô lượng tâm này không nằm trong 37 phẩm 
                    trợ đạo: 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 
                    7 bồ đề phần và 8 chánh đạo[1]. 37 phẩm trợ đạo là những 
                    phương pháp tu tập của Phật giáo Nguyên thủy, 4 vô lượng tâm 
                    là kết quả của sự tu tập 37 phẩm trợ đạo đó. Liên quan đến 
                    quan điểm này trong “Kinh Trung Bộ” (Majjhima-Nikàya) 'Kinh 
                    Bát Thành' (Atthakanàgara-sutta)[2] ghi rằng, sau khi vị Tỷ 
                    kheo đoạn trừ 5 triền cái, thành tựu 4 thiền, tâm được giải 
                    thoát. Lúc bấy giờ tâm của vị Tỷ kheo ấy liền xuất hiện lòng 
                    từ bi hỷ xả đối với mọi loài chúng sanh. Như vậy, tâm xả này 
                    phải có liên hệ đến trí tuệ hay nói một cách khác, trạng 
                    thái tâm xả này phải do giới định tuệ hình thành, không phải 
                    do tâm ngu muội, không có giới định và tuệ. Cái gì do giới 
                    định tuệ tạo thành thì cái ấy được gọi là Phật pháp, và 
                    ngược lại cái gì không do 3 yếu tố này hình thành thì cái ấy 
                    không thể gọi là Phật pháp. Cũng vậy, loại xả nào do trí tuệ 
                    tạo thành thì xả ấy có liên hệ với Phật pháp. Ngược lại loại 
                    xả nào do vô tri vô minh tạo thành thì loại xả ấy không liên 
                    hệ với Phật pháp. 
                  
                  
                    
                    
                                Thế thì giữa xả và trí tuệ có mối liên hệ như 
                    thế nào ? Liên quan câu hỏi này, trước hết chúng ta căn cứ 
                    kinh điển Pàli, "Kinh Trung Bộ" tập 1, 'Kinh Tất Cả Lậu 
                    Hoặc' (Sabbàsava-sutta) đức Phật giải thích như sau: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu 
                    hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người 
                    không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế 
                    nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người 
                    thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các 
                    Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được 
                    sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các 
                    Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh 
                    khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.[3] 
                  
                  
                    
                    
                                Ở đây, từ ‘lậu hoặc’ tức chỉ cho những phiền não 
                    hay là những loại khổ đau trong đời sống của con người. Trên 
                    thật tế, khổ đau có nhiều loại, nhưng không ngoài hai loại 
                    chính là khổ đau về thể xác và khổ đau về tinh thần. Loại 
                    khổ đau về thể xác là loại khổ đau tự nhiên không ai tránh 
                    khỏi, dù chúng ta có tu hay không tu, giàu hay nghèo...thì 
                    vẫn phải chịu loại khổ đau này, như hiện tượng bịnh hoạn là 
                    một điển hình cụ thể. Là con người không ai có thể tránh 
                    khỏi nổi khổ đau này, mục đích giáo dục của Phật giáo không 
                    nhằm giải quyết nổi khổ đau này, vấn đề chính mà Phật giáo 
                    muốn giải quyết chính là những loại khổ đau về tinh thần. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Qua nội dung và ý nghĩa chính của bài kinh này, 
                    đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân khổ đau là 
                    ‘thiếu sự hiểu biết’, như vậy nếu chúng ta muốn trừ diệt 
                    những nổi khổ đau này, phải lấy sự hiểu biết đoạn trừ, đó là 
                    lý do tại sao đức Phật nói đoạn kinh này: 
                  
                  
                    
                    
                    Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người 
                    thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thế nào gọi là thấy và biết ? ở đây đức Phật gọi 
                    người thấy và biết là người có ‘như lý tác ý’ và gọi người 
                    không biết không thấy là người ‘không như lý tác ý’. Ý nghĩa 
                    của từ ‘như lý tác ý’ là đạo lý hay bản thân của sự vật như 
                    thế nào thì chúng ta suy nghĩ như thế ấy, không phải sự suy 
                    nghĩ xuất phát từ sự tưởng tượng, mang tính mơ hồ không có 
                    thật. Như vậy cái gì xuất phát từ ‘không như lý tác ý’ thì 
                    cái ấy sanh đau khổ; Ngược lại cái gì được hướng dẫn bỡi 
                    ‘như lý tác ý’ thì cái ấy sẽ mang lại hạnh phúc và an lạc. 
                    Tại sao hành vi nào có ‘như lý tác ý’ lại mang lại hạnh phúc 
                    an lạc ? vì ‘như lý tác ý’ chính là vai trò của trí tuệ. 
                    việc gì được trí tuệ phán xét thì việc ấy được rõ ràng. Việc 
                    gì mà chúng ta thấu rõ yếu tố sanh và diệt của nó, khi sự 
                    việc ấy sanh diệt, người đó không bao giờ có thái độ nuối 
                    tiếc hay giận hờn khi sự kiện ấy sanh hay diệt. Thái độ 
                    không nuối tiếc, chính là tâm xả trong 4 vô lượng tâm, là 
                    trạng thái xả của sự giải thoát, tâm này chỉ xuất hiện khi 
                    nào có trí tuệ. Cũng vậy, "Bát Nhã Tâm Kinh" thuộc hệ kinh 
                    điển Phật giáo Đại Thừa cũng cùng chung quan điểm cho rằng: 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bồ tát Quán Tự Tại bằng trí tuệ thấy rõ bản chất 
                    của 5 uẩn là không, nhờ vậy mà không còn bất cứ loại đau khổ 
                    nào.  
                  
                  
                    
                    
                                Nội dung và ý nghĩa của câu kinh này nhấn mạnh, 
                    nhờ trí tuệ quán chiếu thấy được bản chất của 5 uẩn 
                    (pa?ca-skandha) là không, do thấy rõ 5 uẩn (Sắc, thọ tưởng, 
                    hành thức) là không, cho nên không còn chấp thủ 5 uẩn, cho 
                    nên, đoạn trừ tất cả phiền não. Phiền não chỉ được đoạn trừ, 
                    khi có trí tuệ xuất hiện, khi trí tuệ thì tâm xả mới xuất 
                    hiện. Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta nhận thức rằng, 
                    tâm xả luôn luôn liên hệ đến trí tuệ, hay nói một cách khác 
                    tâm xả là kết quả của trí tuệ, tuệ là nhân của xả, xả là quả 
                    của tuệ, nhờ trí tuệ mà thấy rõ thực tướng các pháp. Đây là 
                    ý nghĩa chữ xả trong Phật giáo, không nên hiểu chữ xả liên 
                    hệ đến vô minh. 
                  
                  
                    
                    
                                2-    Xả là sự chấp nhận sự chuyển biến của sự 
                    vật
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nguồn gốc của khổ đau là vô minh. Vô minh thể 
                    hiện bằng hai loại tâm, thứ nhất là tham lam với những đối 
                    tượng khả ái; thứ hai là lòng sân hận với những đối tượng 
                    bất khả ái. Tham mà không được cho nên khổ, ghét mà cứ xuất 
                    hiện trước mắt cho nên khổ. Nói một cách khác hai loại khổ 
                    này là do sự ‘chấp trước’ mà có. Thế nào gọi là chấp trước ? 
                    chấp trước là sự không chấp nhận thật tại không ưu thích, có 
                    nghĩa là thật tại là như thế mà chúng ta không muốn nó như 
                    thế, muốn nó tồn tại theo sự suy nghĩ chủ quan của mình, sự 
                    không chấp nhận này được gọi là chấp trước. Ví dụ người yêu 
                    của mình không còn thương yêu mình nữa, cô ta đã ra đi, thế 
                    nhưng như ý thức không chấp nhận sự kiện này, do vậy khổ 
                    sanh. Sự khổ đau này do không chấp nhận thực tại mà có, nếu 
                    chúng ta chấp nhận thì khổ không sanh. Như vậy khái niệm 
                    không chấp trước của Phật giáo mang ý nghĩa khuyên chúng ta 
                    nên chấp nhận sự thật, mặc dù sự thật đó có ảnh hưởng xấu 
                    với chúng ta, vì thật tại là như thế chúng ta phải suy nghĩ 
                    và hành động như thế, không thể suy nghĩ khác đi đước. Đây 
                    chính là ý nghĩa của câu ‘như lý tác ý’ mà đức Phật đã dạy. 
                    Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, không chấp 
                    trước không có nghĩa là không nên phân biệt hình tướng đúng 
                    sai, nam nữ, thiện ác…như chúng ta thường dùng trong cuộc 
                    sống, chúng ta cần thận trọng khi sử dụng những khái niệm 
                    này trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa, vì bản thân 
                    những khái niệm này đều mang ý nghĩa đặc trưng riêng của nó, 
                    chúng ta không nên tách nó ra khỏi bối cảnh của nó mà lý 
                    giải, hoặc vay mượn một loại ngôn ngữ khái niệm khác giải 
                    thích về nó, vì điều đó dễ sanh sự ngộ nhận. Nói một cách 
                    khác, chúng ta không nên vay mượn bất cứ một khái niệm triết 
                    học nào hay bất cứ khái niệm trong tôn giáo nào để thay thế 
                    hay giải thích khái niệm trong Phật học, vì Phật học không 
                    tương đồng với khái niệm của triết học hay tôn giáo, đây là 
                    điều mà người làm công tác nghiên cứu Phật học cần chú ý.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Từ ý nghĩa của khái niệm xả mà chúng ta vừa 
                    trình bày trên, nếu chúng ta một cách nghiêm túc nghiên cứu 
                    về khái niệm xả được mô tả trong các kinh điển của Phật giáo 
                    thì chúng ta thấy khái niệm xả tâm được mô tả dưới hai góc 
                    độ, một là xả đối với vật chất và hai là xả đối với mặt tri 
                    kiến hay quan niệm. Trong phần này chúng ta chúng ta tìm 
                    hiểu trạng thái xả tâm đối với vật chất. 
                  
                  
                    
                    
                                Như chúng ta đã biết, pháp mà đức Phật chứng ngộ 
                    dưới cội cây Bồ đề là giáo lý Duyên khởipratìya- samutpàda). 
                    Giáo lý này cho chúng ta nhận thức rằng, sự hình thành mọi 
                    sự mọi vật trên thế gian này là đều do nhiều nhân nhiều 
                    duyên kết họp lại mà thành, trong đó ngay cả con người chúng 
                    ta cũng thế, là một tập thể bao gồm sắc (rùpa), thọ 
                    (vedanà), tưởng (samj?a), hành (samskàra) và thức (vij?àna) 
                    hay gọi là ngũ uẩn (pa?ca-skandha). vì bản chất của các pháp 
                    là duyên khởi, cho nên đặc tính của nó là vô thường. Vì đặc 
                    tính của các pháp là vô thường cho nên nó cũng vận hành theo 
                    quy luật tự nhiên của nó, cái gì vận hành theo quy luật tự 
                    nhiên thì nó không thể tùy thuộc vào ý chí của chúng ta, đó 
                    là lý do tại sao đức Phật gọi các pháp là vô ngã (anàtman). 
                    Như vậy là sự mâu thuẫn giữa nhận thức và sự hiện hữu của sự 
                    vật, vì ý thức chúng ta mong muốn sự vật như thế này, nhưng 
                    trên thực tế sự vật lại vận hành như thế khác. Như chúng ta 
                    muốn người thân của ta không già bịnh và chết, nhưng không 
                    một người thân nào của chúng ta không trải qua hiện trạng 
                    này. Sự mâu thuẫn này dẫn đến sự khổ đau, vì chúng ta không 
                    chấp nhận sự vật vô thường. Đây chính là điểm mà đức Phật 
                    khuyên chúng ta nên nhìn thẳng vào bản chất của con người, 
                    để chúng ta hiểu được nó, tránh khỏi sự khổ đau. Như rất 
                    nhiều kinh trong kinh điển A hàm hay Nikàya đức Phật đã 
                    trình bày. Ví dụ ‘Kinh Tạp A hàm” Kinh số 33 đức Phật đã 
                    phân tích thân ngũ uẩn như sau: 
                  
                  
                    
                    
                                Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã thì không 
                    thể có bịnh, khổ sanh nơi sắc, và cũng không nên đối với sắc 
                    ước muốn khiến nó như thế này, hay không muốn khiến nó như 
                    thế kia, vì sắc là vô ngã, cho nên có bịnh, khổ sanh ra nơi 
                    sắc, và cũng được muốn khiến đối với sắc là như vậy, hay 
                    đừng là như vậy. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như 
                    vậy. 
                  
                  
                    
                    
                                - Này các Tỷ kheo, ý thầy nghĩ thế nào, sắc là 
                    thường hay vô thường ? 
                  
                  
                    
                    
                                - Tỷ kheo bạch Phật: Vô thường, bạch Thế Tôn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Này các Tỷ kheo, nếu là vô thường, có phải là 
                    khổ không ? 
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch đức Thế Tôn, là khổ. 
                  
                  
                    
                    
                                - Này các Tỷ kheo, nếu sắc là vô thường, là khổ. 
                    Là pháp biến dịch. Như vậy vị đa văn thánh đệ tử có nên ở 
                    trong đó thấy là ngã, khác ngã, hoặc ngã ở trong nhau chăng 
                    ? 
                  
                  
                    
                    
                                - Tỷ kheo bạch Phật: Không nên bạch Thế Tôn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng quán như 
                    vậy.”[4] 
                  
                  
                    
                    
                                Qua đoạn văn vừa dẫn trên cho ta nhận thức rằng, 
                    cái mà chúng ta gọi là ‘thân của ta’. Thật ra thân đó được 
                    kết họp bỡi 5 yếu tố mà thành, tức là sắc, thọ, tưởng, hành 
                    và thức. Điều đó đồng nghĩa là thân này do duyên khởi mà 
                    sanh, khi nó không còn đủ duyên thì nó phải vận hành theo 
                    luật tự nhiên của nó là ‘chuyển biến’ từ thanh xuân cho đến 
                    già hay từ già cho đến chết, bất cứ ai với thân thể là con 
                    người thì phải chịu qui luật chung này, không ai thoát khỏi, 
                    dù cho có tu hay không tu, dù cho là phàm phu hay thánh 
                    nhân. Đây là định luật vận hành của con người hay vũ trụ. 
                    Thế nhưng phàm phu chúng sanh không rõ về định luật này, cho 
                    nên có thái độ không chấp nhận định luật vô thường chuyển 
                    biến này, do vậy mà sanh khổ. Nguyên nhân nổi khổ này phát 
                    sinh chính là thật tại thì chuyển biến mà ý thức thì muốn nó 
                    không chuyển biến, chính sự mâu thuẫn giữa sự nhận thức và 
                    thực tại cho nên phát sanh khổ. Như vậy chúng ta muốn chấm 
                    dứt nổi khổ này chỉ có cách duy nhất là chấp nhận qui luật 
                    vô thường này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật khuyên chúng 
                    ta nên nhận thức một cách rõ ràng rằng, sắc, thọ, tưởng, 
                    hành và thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, do vậy 
                    chúng ta không nên chấp trước nó là tôi, là của tôi, là tự 
                    ngã của tôi. Sự chấp nhận sự vô thường chuyển biến của mọi 
                    sự mọi vật và ngay cả con người chính là tâm xả, trạng thái 
                    tâm xả này xuất hiện chỉ khi nào chúng ta nhận thức đúng đắn 
                    về bản chất của con người. Đây cũng chính là ý nghĩa của 
                    câu: ‘Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa tuệ quán, liền 
                    thấy 5 uẩn đều không cho nên không còn đau khổ.’ Có nghĩa là 
                    do vì thấy rõ thật tướng của 5 uẩn là vô thường, nhờ vậy mà 
                    không còn chấp 5 uẩn là thật có, vì không chấp thủ cho nên 
                    khổ không do đâu mà sanh. Ở đây, thái độ không chấp thủ là 
                    tâm xả trong bốn vô lượng tâm hay loại xả cõi thiền thứ 4 
                    trong bốn thiền. 
                  
                  
                    
                    
                                3-     Xả là sự chấp nhận sự biến đổi về tư 
                    tưởng
                    
                  
                  
                    
                    
                                Loại khổ thứ hai là loại khổ về tư tưởng. Loại 
                    khổ này được xuất hiện do sự cố chấp về mặt tư tưởng, có 
                    nghĩa là quan điểm tư tưởng không đúng hoặc không còn phù 
                    họp với thực tế nữa, nhưng vẫn khư khư cố chấp cho nó là 
                    đúng, giữ vững lập trường quan điểm tư tưởng của mình, chính 
                    sự cố chấp này đã tạo thành nổi khổ không những cho chính 
                    mình mà còn gây nổi khổ cho kẻ khác, nếu như quan điểm đó có 
                    liên quan đến người khác. Ở đây chúng ta có thể đơn cử một 
                    ví dụ đơn giản và dễ hiểu mà trong cuộc sống chúng ta thường 
                    gặp. Ví dụ như quan điển về việc hôn nhân cho rằng, cha mẹ 
                    đặt đâu con ngồi đó. Ở xã hội ngày nay, nhất là những xã hội 
                    của những nước Âu Mỹ, nếu như cha làm mẹ nào vẫn còn giữ 
                    quan điểm này, bắt con cái phải chấp nhận tuân lệnh cha mẹ, 
                    điều đó không những chính người ấy chuốt lấy phiền não khổ 
                    đau mà còn làm cho người con khổ đau nữa, không những thế mà 
                    còn trái với luật pháp Vì sao ? Vì quan niệm hôn nhân của 
                    thời đại ngày nay, hoàn toàn không còn giống như thời đại 
                    của cha ông chúng ta trước đây. Đôi nam nữ cần phải có thời 
                    gian tối thiểu để tìm hiểu lẫn nhau về tánh tình, quan niệm 
                    sống, quan niệm gia đình, chủng tộc, tôn giáo…, trước khi 
                    chấp nhận cưới nhau. Điều đó trái hẳn với quan niệm hôn nhân 
                    với ngày xưa, cha mẹ cưới gả cho ai thì con pải chấp nhận. 
                    Bất cứ quan niệm nào không còn giá trị trong cuộc sống, có 
                    nghĩa là nó đã bị đào thải ra khỏi xã hội, nếu như ai đó vẫn 
                    cố chấp thì sẽ bị xã hội cô lập. Như vậy người đó tự chuốt 
                    lấy khổ đau và phiền muộn. Thái độ cố chấp này bắt nguồn từ 
                    sự thiếu tri thức, trong Phật pháp gọi là thiếu trí tuệ, do 
                    vì thiếu trí tuệ cho nên người ấy không chịu sửa đổi nhận 
                    thức sai lầm của mình, cho nên sanh đau khổ. Hành vi không 
                    chịu sửa sai chính là thái độ cố chấp, vì cố chấp cho nên 
                    không xả bỏ pháp bất thiện, quan điểm bất chính. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Liên quan đến khái niệm xả về quan điểm tư 
                    tưởng, chúng ta thấy trong kinh điển Phật giáo có khá nhiều 
                    kinh được đề cập. Trước nhất là “Kinh Tạp A hàm” Kinh số 
                    262, đức Phật dạy rằng:  
                  
                  
                    
                    
                                Người thế gian điên đảo nương vào hai bên: hoặc 
                    ‘có’ hoặc ‘không’. Họ bám lấy các cảnh giới, tâm liền chấp 
                    trước. Này Ca Chiên Diên…lúc cái khổ này sanh là khổ sanh, 
                    lúc cái khổ này diệt là khổ diệt. Đối với điều này không 
                    nghi, không mê lầm, không do người khác mà có thể tự biết. 
                    Đó gọi là chánh kiến mà Như Lai đã nói. Vì cớ sao ? Này Ca 
                    Chiên Diên ai hay chánh quán như thật về thế gian tập thì 
                    không sanh kiến chấp cho thế gian là ‘không’, ai hay chánh 
                    quán như thật về thế gian diệt, thì không sanh kiến chấp cho 
                    thế gian là ‘có’. Này Ca Chiên Diên, Như Lai xa lìa nhị 
                    biên, nói trung đạo, nghĩa là: Cái này có cho nên cái kia 
                    có, cái này sanh cho nên cái kia sanh. Nghĩa là duyên vô 
                    minh có hành, cho đến sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, 
                    não tập. Cái này không cho nên cái kia không, cái này diệt 
                    cho nên cái kia diệt, nghĩa là vô minh diệt thì hành 
                    diệt….khổ não diệt.[5] 
                  
                  
                    
                    
                                Qua đoạn kinh trên, đức Phật cho chúng ta nhận 
                    thức, đức Phật không chủ trương cuộc đời này là thật có hay 
                    thật không, vì ‘có’ hay ‘không’ là hai khái niệm tương đối, 
                    đứng từ hai góc độ ‘sanh’ hay ‘diệt’ khác nhau của cùng một 
                    sự kiện. Nếu ta đứng từ góc độ sự vật đang trong quá trình 
                    hình thành thì chúng ta không thể gọi nó là ‘không’, vì nó 
                    đang hình thành có nghĩa là nó đang hiện hữu; Ngược lại, nếu 
                    chúng ta đứng từ góc độ sự vật đang trong quá trình biến 
                    hoại thì chúng ta không thể gọi sự vật là ‘có’, vì nó đang 
                    chuyển biến từ có đến không. Nếu chúng ta không đứng từ hai 
                    góc độ này nhìn về sự vật thì sự vật ấy không thể gọi là có 
                    hay không, là sanh hay diệt, vì có hay không, sanh hay diệt 
                    chỉ là một hiện tượng trong quá trình tồn tại của sự vật. Do 
                    vậy chúng ta không thề gọi nó là không hay có. Đây chính là 
                    ý nghĩa của câu: 
                  
                  
                    
                    
                                Ai hay chánh quán như thật về thế gian tập thì 
                    không sanh kiến chấp cho thế gian là ‘không’, ai hay chánh 
                    quán như thật về thế   gian diệt, thì không sanh kiến chấp 
                    cho thế   gian là ‘có’.  
                  
                  
                    
                    
                                Có và không là hai mặt của một vấn đề, lìa có 
                    không có khái niệm ‘không’, lìa không cũng không có khái 
                    niệm ‘có’, bất tức cũng bất ly. Cái khổ của chúng sanh là 
                    đứng bên này hay bên kia, một là ‘có’ hai là ‘không’. Mang 
                    quan điểm là ‘có’, khi thấy sự vật biến hoại, tạo thành tâm 
                    lý hốt hoảng, sợ chúng không còn, do vậy lo âu phiền muộn 
                    cũng theo đó mà sanh; Khi có quan điểm là ‘không’ thì lại 
                    cho rằng, không có nhân không có quả, không có thiện cũng 
                    không có ác, không có tội cũng không có phước. Từ quan niệm 
                    sai lầm này đã dẫn đến cá nhân chủ nghĩa, có tư tưởng tận 
                    hưởng dục lạc, không sợ tội phước. Đây là nguyên nhân của 
                    mọi khổ đau cho con người. Muốn thoát khỏi sự khổ đau này, 
                    con người cần phải từ bỏ những quan điểm sai lầm hay không 
                    còn phù họp với cuộc sống. Sự từ bỏ này chính là ý nghĩa 
                    khái niệm ‘xả’ trong đạo Phật.  
                  
                  
                    
                    
                                Từ ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn, nó cũng gợi ý 
                    cho chúng ta hiểu rằng, xả không mang ý nghĩa cái gì cũng xả 
                    bỏ, ngay cả những nhu cầu cần thiết của đời sống  hằng ngày 
                    của con người. Đức Phật dạy chúng ta biết hỷ xả là sự xả bỏ 
                    họp lý, tức là cái gì không còn giá trị, không liên hệ với 
                    cuộc sống chúng ta nữa, hay nói đúng hơn  nó không giúp ích 
                    cho ta trong sự nghiệp đoạn trừ phiền não, thành đạt an lạc 
                    và hạnh phúc thì cái ấy cần phải xả bỏ, cho dù cái ấy được 
                    mệnh danh là gì đi nữa. Như trong “Kinh Kim Cang” nói rằng: 
                    “Chánh pháp còn phải bỏ đi huống là phi pháp”. Câu kinh này 
                    là một chứng minh cụ thể cho chúng ta thấy rằng, tinh thần 
                    xả trong đạo Phật rất khách quan, nói lên tính trong sáng, 
                    tôn trọng sự thật của đạo Phật. Dù đó là những lời giảng dạy 
                    của Phật, nhưng khi nó không còn thiết thực liên quan giúp 
                    ích cho sự giác ngộ và giải thoát nữa thì lời kinh đó chúng 
                    ta cũng cần phải bỏ đi, không nên nắm giữ. 
                  
                  
                    
                    
                                Để tránh trường họp ngộ nhận về ý nghĩa của câu 
                    kinh này, chúng ta cần giải tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa 
                    của nó như thế nào. Thật ra câu kinh này được xuất phát từ 
                    ‘Kinh Ví Dụ Con Rắn’ (Alaggadùpamasutta) trong “Kinh Trung 
                    Bộ” với nội dung và ý nghĩa như sau: 
                  
                  
                    
                    
                                Này các Tỷ kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các ông, 
                    ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để giữ lấy. Hãy nghe 
                    và khéo tác ý… 
                  
                  
                    
                    
                                Này các Tỷ kheo, ví như có người đi trên con 
                    đường lớn dài, đến vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và 
                    hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có 
                    thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ bên này 
                    đến bờ bên kia…Chư Tỷ kheo rồi người đó thâu góp có, cây, 
                    nhành, lá kết thành chiếc be, và dựa trên chiếc bè này, tinh 
                    tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi 
                    đến bờ bên kia rồi, người đó suy nghĩ: Chiếc bè này lợi ích 
                    nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân 
                    qua bờ bên kia một các an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này 
                    trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn. Chư 
                    Tỷ kheo, nếu người đó làm như vậy có đúng không? 
                    
                  
                  
                    
                    
                                - Bạch Thế Tôn, không. 
                  
                  
                    
                    
                                - Chư Tỷ kheo, người đó phải làm thế nào cho 
                    đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ kheo, người đó sau 
                    khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: Chiếc bè này lợi 
                    ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này mà ta qua được bờ bên kia 
                    một cách an toàn. Nay ta kéo chiếc bè này lên bờ đất khô, 
                    hay nhận chìm xuống nước và đi đến chỗ nào ta muốn. Chư Tỷ 
                    kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. 
                    Cũng vậy này Tỷ kheo, ta thuyết pháp như chiếc be để vượt 
                    qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ kheo, các ông cần 
                    hiểu ví dụ chiếc bè…Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống là phi 
                    pháp.”[6] 
                  
                  
                    
                    
                                Qua nội dung và ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn 
                    trên, nó gợi ý cho chúng ta hiểu về ý nghĩa của khái niệm xả 
                    rằng, trước hết đức Phật khẳng định giáo pháp của ngài nói 
                    ra giống như chiếc bè để vượt qua sông, không phải để nắm 
                    giữ. Có nghĩa là lời của ngài giảng dạy chỉ mang tính đối 
                    cơ, giúp cho hành giả đạt đến sự giải thoát, khi hành giả 
                    căn cơ chưa đủ, không thể lãnh hội giáo pháp của ngài thì 
                    không nên lấy đó làm phương pháp tu tập, hoặc là hình thức 
                    mà ngài giảng dạy không còn phù họp với con người và xã hội 
                    ngày nay, thì chúng ta cũng chỉ nên học tập tinh thần giảng 
                    dạy, không nên bám lấy hình thức giảng dạy tạo thành chướng 
                    ngại cho con đường tu tập, tìm cầu sự giải thoát giác ngộ, 
                    hoặc giả khi chúng ta đã thành đạt giải thoát, cũng không 
                    nên bám lấy chấp chặt vào lời giảng dạy. Đây chính là ý 
                    nghĩa của câu: Ta thuyết giảng giáo pháp như chiếc bè để 
                    vượt qua, không phải để nắm giữ. Từ đó đức Phật đi đến kết 
                    luận: ‘Chánh pháp còn phải bỏ đi huống là phi pháp’. Lời dạy 
                    này có phải chăng đức Phật khuyên chúng ta nên buông xả tất 
                    cả ngay cả lời Phật dạy không ? Nếu chúng ta không nắm rõ ý 
                    nghĩa của tinh thần xả của kinh này, rất dễ dàng rơi vào sự 
                    ngộ nhận, dẫn đến hành động sai lầm, phát ngôn bừa bãi, 
                    thiện ác bất phân, đúng sai như một, não loạn tâm người, ảnh 
                    hưởng xấu đến cuộc sống của đạo Phật.  
                  
                  
                    
                    
                                Thế thì xả như thế nào mới đúng tinh thần đức 
                    Phật dạy ? Nếu chúng ta căn cứ vào đoạn kinh vừa dẫn, nó cho 
                    chúng ta một ý nghĩa khá rõ ràng. Tỷ kheo cảm thấy bờ bên 
                    này là nguy hiểm khổ đau, bờ bên kia thì an toàn và hạnh 
                    phúc. Điều đó xác định niềm tin và sự hiểu biết về chánh 
                    pháp, tất nhiên thấy rõ cuộc đời là khổ đau và cuộc sống 
                    xuất gia tu tập là giải thoát. Thứ đến, tư mình lấy cỏ, cây, 
                    cành, lá kết thành chiếc bè và sau đó tự mình chèo qua sông. 
                    Lời dạy này mang ý nghĩa chúng ta có được giác ngộ giải 
                    thoát hay không là do sự nổ lực tu tập của chính mình, không 
                    phải ai cho, cũng không phải chỉ ngồi đó cầu nguyện. Lại một 
                    điểm nữa, trong kinh xác định vị tỷ kheo đã đến bờ bên kia 
                    (paramita), đến bờ giải thoát, nhưng thái độ khác nhau về 
                    chiếc bè. Trường họp thứ nhất Tỷ kheo sau khi qua sông vì 
                    lòng tri ân, cho nên cứ ôm giữ chiếc bè, không chịu buông bỏ 
                    chiếc, để được giải thoát; Trường họp thứ hai, Tỷ kheo sau 
                    khi đến bờ bên kia, bỏ chiếc bè tại dòng sông và tự do đi 
                    nơi nào mình muốn. Trong hai trường hợp này, đức Phật chê 
                    trách trường họp thứ nhất có thái độ nắm giữ, không xả bỏ, 
                    và tán đồng trường họp thứ hai là người đã làm đúng với cách 
                    sử dụng chiếc bè, thực thi tinh thần xả bỏ đúng lúc. Giáo 
                    pháp của Phật cũng thế, nó có giá trị giúp chúng sanh hiểu 
                    rõ đâu là thiện đâu là bất thiện, đâu là hạnh phúc đâu là 
                    khổ đau, để cho chúng sanh hiểu rõ tránh làm việc bất thiện, 
                    ngược lại làm việc thiện, ngỏ hầu thành đạt sự giác ngộ và 
                    giải thoát, nó không phải là những vật chỉ để cho chúng ta 
                    kính lễ đọc tụng hằng ngày mà ý nghĩa trong đó chúng ta 
                    không hề hay biết; Giới luật của Phật nhằm giúp cho thân tâm 
                    thanh tịnh, đời sống hòa vui, không phải là những giới điều 
                    để chúng ta phiền trách người khác, hay để tụng đọc vào mỗi 
                    nửa tháng. 
                  
                  
                    
                    
                                Như vậy, tinh thần xả trong đạo Phật được xác 
                    định, khi đã đến bờ bên kia muốn được tự do đi lại thì nên 
                    quên thuyền, nhưng khi chưa đến thì thuyền vẫn là phương 
                    tiện tốt cho ta qua sông. Cũng vậy, người đã được giác ngộ 
                    không nên vì hình thức giáo dục trong kinh điển mà bận lòng, 
                    chướng ngại sự giải thoát, nhưng nếu như chúng ta chưa giác 
                    ngộ, lời Phật dạy kinh sách vẫn là kim chỉ nam để hướng dẫn 
                    chúng sanh đến bờ giải thoát. Đến được bờ sông bên kia chỉ 
                    nhờ thuyền bè, cũng vậy chúng sanh muốn vào cảnh giải thoát 
                    của chư Phật không thể không nương vào Phật pháp. Như vậy, 
                    khi nào chúng ta đã giác ngộ thì lúc ấy chúng ta mới có thể 
                    xả bỏ chánh pháp để được giải thoát, nhưng khi chưa giác ngộ 
                    lời Phật dạy nó luôn luôn là chiếc bè tốt để cho chúng ta 
                    đến bờ giác.  
                  
                  
                    
                    
                                4-     Kết luận
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu như 37 phẩm trợ đạo là những phương pháp tu 
                    tập trong Phật giáo Thượng tọa bộ thì kết quả của việc tu 
                    tập đó là 4 vô lượng tâm — từ, bi, hỷ và xả. Nói cách khác, 
                    lòng từ bi hỷ xả trong Phật giáo phải được huấn luyện ngang 
                    qua quá trình tu tập của giới định và tuệ. Từ, bi, hỷ, xả mà 
                    không được trí tuệ hướng dẫn, nó đồng nghĩa với lòng thương 
                    yêu và sự xả bỏ của kẻ vô minh phàm phu. 
                  
                  
                    
                    
                                Tinh thần ‘xả’ trong đạo Phật là thái độ ‘xả’ 
                    luôn luôn gắn liền với trí tuệ, gắn liền với ‘như lý tác ý’, 
                    là trạng thái thấy biết đúng như sự thật, lúc bây giờ tâm xả 
                    mới bắt đầu xuất hiện, vì nó đã thấy được bản chất của các 
                    pháp, cho nên không còn chấp trước nữa. Thái độ không còn 
                    chấp trước là thái độ xả trong Phật giáo, không mang ý nghĩa 
                    bình thường mà chúng ta thường sử dụng. 
                  
                  
                    
                    
                                Có hai loại xả: Một là xả về mặt vật thể và hai 
                    là xả về mặt tri kiến. Xả về mặt vật thể là xả bỏ hay chấp 
                    nhận sự biến hoại tự nhiên của các vật thể, như sự đau bịnh 
                    và tử vong của con người, hay sự hoại diệt của cái mà chúng 
                    ta thường gọi là vật sở hữu. Xả chỉ xuất hiện khi nào chúng 
                    ta thấy rõ bản thân của mọi vật là vô thường vì sự hiện hữu 
                    của chúng do duyên khởi. Khi nào chúng ta như thật tuệ tri 
                    như vậy, chúng ta mới chấp nhận sự biến đổi của chúng. Sự 
                    chấp nhận biến đổi là ý nghĩa của chữ xả trong đạo Phật. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Kế đến, xả về mặt tri kiến là sự chấp nhận sửa 
                    đổi quan niệm sai lầm của mình. Quan điểm sai lầm được xuất 
                    hiện từ sự tư duy không chính xác, trong kinh điển thường 
                    dùng là ‘không như lý tác ý’, do đó hình thành quan điểm 
                    không đúng, nó là nguyên nhân của mọi khổ đau. Trong cuộc 
                    sống sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường vấp phải lỗi 
                    lầm này, từ việc làm ăn cho đến tôn giáo tín ngưỡng, chúng 
                    ta cố chấp không chịu sửa sai cho nên chúng ta khổ. Muốn 
                    chấm dứt sự khổ đau này, chúng ta cần phải có trí tuệ, tư 
                    duy chín chắn và khách quan, từ đó chúng ta mới sửa đổi 
                    những sai lầm của mình. Thái độ chấp nhận sửa đổi quan điểm 
                    sai lầm là tinh thần xả trong đạo Phật. 
                  
                  
                    
                    
                                Taipei, ngày 06/09/2005 
                  
                  
                    
                    
                                SÁCH THAM KHẢO
                    
                  
                  
                    
                    
                                1- HT Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, "Kinh Tạp A 
                    hàm" tập 2, Viện NCPHVN Ấn hành 1994.
                    
                                2- HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp 
                    A hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993. 
                                3- HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, 
                    Viện NCPHVN ấn hành 1992. 
                                4- HT Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, 
                    Viện NCPHVN ấn hành 2000. 
                  
                  
                    
                    
                                [1] HT Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, "Kinh Tạp A 
                    hàm" tập 2, Viện NCPHVN Ấn hành 1994, trang 598.
                    
                  
                  
                    
                    
                                [2] HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập 2, 
                    Viện NCPHVN ấn hành 2000, trang 29~37.
                    
                                [3] HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập 1, 
                    Viện NCPHVN ấn hành 1992, trang 19~20. 
                                [4] HT. Thiện Siêu và ThanhTừ dịch, “Kinh Tạp 
                    A hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993, trang 68~69.
                    
                  
                  
                    
                    
                                [5] HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A 
                    hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993, trang 511~512.
                    
                  
                  
                    
                    
                                [6] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, 
                    Viện NCPHVN ấn hành 1992, trạng~307, 
                     09-29-2008 10:23:45