TU CHỈ QUÁN NƠI SÁU CĂN
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    HT. Thích Nhật Quang
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Hôm nay chúng ta trao đổi về phương pháp áp dụng 
                    Chỉ Quán đối với các đối tượng của các giác quan. Con người 
                    có bao nhiêu giác quan thì có bấy nhiêu đối tượng. Là Phật 
                    tử, ta ứng xử thế nào khi các giác quan tiếp xúc với cảnh 
                    duyên, với đối tượng của nó mà không bị mất mình. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Muốn không bị mất mình, không trôi lăn theo trần 
                    cảnh, nhất định chúng ta phải có công phu, có nội lực thâm 
                    hậu. Nếu thiếu đạo lực, khi đối diện với các cảnh duyên ta 
                    không làm chủ được, sẽ bị nó kéo lôi, trôi giạt, như người 
                    xưa nói “bội giác hợp trần”. Ngược lại, ta sống với ông chủ 
                    thì các cảnh duyên không làm gì được mình, gọi là “bội trần 
                    hợp giác”. Áp dụng pháp tu này không phải đợi thời gian, 
                    ngay đây tu liền. Trong mọi tình huống, lúc nào chúng ta 
                    cũng sẵn sàng áp dụng phương thức này. 
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta có sáu giác quan thì có sáu đối tượng. 
                    Thông thường mình bị những đối tượng đó làm lầm, làm mù mắt 
                    do đó không thấy được lẽ thực của tất cả các pháp. Người 
                    thấy được lẽ thực của tất cả các pháp là thấy được chân lý, 
                    gọi là kiến đế. Chữ “đế” là chân lý, là lẽ thực. Người tu 
                    đối với tất cả cảnh duyên, phải thấy được thực chất của nó. 
                    Một khi thấy được thực chất của nó là chúng ta đã bước được 
                    một bước khá vững vàng, đã phát sinh trí tuệ của mình. Thật 
                    ra các cảnh duyên không là gì cả. Bởi vì nó là những hiện 
                    tượng bên ngoài, không thật, ví như rơm rác chẳng nên quan 
                    trọng nó làm gì. Nhưng nếu không tỉnh giác, chúng ta chưa có 
                    nội tại vững vàng, chính những rơm rác này sẽ là vấn đề kéo 
                    lôi ta trôi giạt lang thang không bến định, không biết bao 
                    giờ mới dừng.  
                  
                  
                    
                    
                                Con mắt chúng ta luôn luôn tiếp cận với những 
                    hình sắc bên ngoài. Nhưng đối với cảnh duyên, chúng ta có bị 
                    mất mình hay không lại là một vấn đề. Phật tổ chỉ dạy chúng 
                    ta không nên chạy theo những cảnh duyên này, không lầm nó và 
                    cũng không bao giờ để nó kéo lôi mình đi đâu cả. Mỗi khi mắt 
                    chạm đến hình sắc ta liền biết nó không thực, là đồ giả, 
                    không có gì đáng kể. Do đó ta không lầm chạy theo, không bị 
                    mắc míu với nó. Nhờ thế ta đình chỉ mọi lăng xăng, dừng được 
                    vọng tưởng. Một khi chúng ta dừng được rồi thì có sự định 
                    tỉnh. Một khi được định rồi, con mắt tuệ sẽ mở dần, sáng ra. 
                    Chừng đó ta thấy tận gốc thực tánh của tất cả cảnh duyên này 
                    không thật. Tu tới đây có thể nói là trí tuệ Bát-nhã hiện 
                    tiền, đúng với tinh thần Lục Tổ Huệ Năng dạy định tuệ đồng 
                    đẳng.  
                  
                  
                    
                    
                                Trí tuệ Bát-nhã đã phát sinh, đã hiện thành thì 
                    tất cả cảnh duyên đều bị phẫu thuật và giải tỏa, không cái 
                    nào có thể kéo lôi chúng ta nổi. Cho nên định của nhà thiền 
                    được gọi là đại định, định trong mọi tình huống, Lục Tổ gọi 
                    là “Na-già thường tại định”. Đó là loại định tỉnh trong mọi 
                    oai nghi, mọi tình huống, lúc nào cũng như thế. Điều chúng 
                    ta cần gầy dựng hôm nay là bắt đầu thực tập sự định tỉnh 
                    này.  
                  
                  
                    
                    
                                Sở dĩ từ bao nhiêu đời kiếp, chúng ta không dừng 
                    được vòng lẩn quẩn luân hồi sinh tử, cứ như những giòng nước 
                    đã xa nguồn, không biết bến đỗ là đâu là vì ta không định 
                    tâm. Quả thực như thế, vọng tưởng dấy khởi tạo nghiệp. Từ đó 
                    vòng luân hồi cuốn hút khiến ta trôi giạt, loay hoay lẩn 
                    quẩn trong đó mãi. Khi thấm nhuần lời Phật tổ dạy, mình thấy 
                    quả thực từ tâm niệm dấy khởi nên các cảnh duyên có sức hấp 
                    dẫn, có năng lực kéo lôi chúng ta. Bao giờ năng lực đó còn 
                    kéo lôi chúng ta thì vòng luân hồi loay hoay lẩn quẩn còn 
                    mãi không dứt. Vì thế chúng ta áp dụng lời Phật dạy tu làm 
                    sao để dừng được vòng lẩn quẩn này.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta là tác nhân đã gầy dựng, đã lầm tạo nên 
                    vòng lẩn quẩn đó, bây giờ chính chúng ta là chủ nhân, đủ tư 
                    cách để giải tỏa, cắt đứt nó. Khi nhận được như vậy rồi, ta 
                    không còn đổ thừa và đợi chờ ai giải quyết cho mình cả. Bởi 
                    không ai có quyền cắt đứt hay ban cho cái quả mà chính ta 
                    gây nhân. Nếu có ai vì lòng từ bi ban cho ta quả tốt đẹp thì 
                    chắc hẳn tất cả chúng ta đã lên đỉnh cao hết rồi. Nhưng hiện 
                    tại chúng ta vẫn còn chìm ngập trong vòng luân hồi khổ đau, 
                    còn bị vọng tưởng kéo lôi, chưa làm chủ được mình. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nghiệm lại trong từng phút giây, quả thực sự 
                    tỉnh giác của chúng ta còn yếu, do đó những lăng xăng bên 
                    ngoài vẫn là vấn đề quan trọng đối với mình. Như vậy dù mình 
                    có mong cầu, khấn nguyện phép thánh tiêu trừ hóa giải những 
                    lỉnh kỉnh cho mình cũng không bao giờ được. Bởi vì tất cả 
                    những gì ta có ngày hôm nay là do mình bày đặt ra. Bây giờ 
                    chính ta phải phẫu thuật, giải tỏa những hậu quả đó, chứ 
                    không ai khác hơn ta cả. Phúc duyên thù thắng của mình là có 
                    đức Phật và giáo pháp của ngài, chỉ dạy cho ta cách thức 
                    giải tỏa, tháo gỡ những vướng mắc tồn đọng ấy. Ngoài ra 
                    chúng ta còn có tăng đoàn hỗ trợ, bảo vệ cho đại nguyện của 
                    mình được thực hiện cho tới ngày viên mãn. Nương vào phúc 
                    trí vô song của Tam bảo, của các bậc thầy tổ, chúng ta phấn 
                    chấn gầy dựng sự nghiệp của chính mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Thật ra trần cảnh bên ngoài cũng như các giác 
                    quan của chúng ta không có lỗi chi cả, dính mắc là tại thức 
                    tình phân biệt. Chúng ta không đình chỉ được tâm vọng tưởng 
                    vì đạo lực kém, sức tỉnh giác yếu nên mình thấy cảnh bên 
                    ngoài như vầy như kia, hoặc tốt hoặc xấu, từ đó mà sinh sự 
                    cố. Muốn đình chỉ tâm lăng xăng cho yên ổn, chỉ có điều duy 
                    nhất là kiện toàn nội lực, trí lực luôn sẵn sàng, ta không 
                    bị thức tình phân biệt làm nhiễu loạn. Sự kích động bên 
                    ngoài không thể lay chuyển nổi sự định tỉnh, sáng suốt của 
                    mình. Được thế chúng ta nhìn bất cứ cảnh duyên nào cũng 
                    không có vấn đề. Chừng đó ta thật sự tự do, có quyền nhìn 
                    ngó mà không sợ bị kéo lôi. Đó là kết quả từ công phu tu 
                    hành do chúng ta gầy dựng mà được vậy.  
                  
                  
                    
                    
                                1- Khi mắt thấy sắc tu chỉ quán 
                    
                  
                  
                    
                    
                                “Chỉ” là đình chỉ, “Quán” là thấy được thực chất 
                    của tất cả các pháp. Cho thấy, cho nhìn, cho quan sát, nhưng 
                    đình chỉ những vọng tưởng và thấy được thực chất của tất cả 
                    vấn đề thì bình yên. Không có cái gọi là lăng xăng, điên 
                    đảo, lầm mê, chạy theo, mắc míu đối với tất cả các cảnh 
                    duyên. Đó là do dùng trí tuệ chân thật của mình quán chiếu 
                    thực chất của các pháp, biết nó không thật nên không mắc 
                    míu. 
                  
                  
                    
                    
                                2- Khi tai nghe tiếng tu chỉ quán
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tất cả chúng ta đều có tánh nghe. Người sống với 
                    tánh nghe là có quyền nghe mà đình chỉ được những phân biệt 
                    về âm thanh bên ngoài. Chúng ta nghe âm thanh nhưng không 
                    chạy theo âm thanh đó, không khen nó hay, không chê nó dở. 
                    Nghe cứ nghe, không để phân biệt lôi dẫn. Từ cái nghe này 
                    soi lại, nhận ra căn gốc của mình, đó là cái thường nghe. 
                    Theo tinh thần kinh Lăng-nghiêm Phật dạy, cái thường nghe 
                    bất sinh bất diệt, luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta. Không 
                    luận đại tăng hay tiểu tăng, người xuất gia hay tại gia, nếu 
                    sử dụng được căn nghe của mình đối với tất cả âm thanh, tự 
                    xoay về, không chạy theo các âm thanh, nhận được tánh nghe 
                    thường hằng bất sinh bất diệt nơi chính mình. Người đó được 
                    nhĩ căn viên thông. Được nhĩ căn viên thông thì có thể nghe 
                    khắp, nghe suốt, nghe hết các loại âm thanh.  
                  
                  
                    
                    
                                Từ căn nghe, nếu chúng ta biết xoay về, có công 
                    phu, có nội lực đầy đủ, chúng ta sẽ tu tập được nhĩ căn viên 
                    thông. Chỉ có điều mình chịu xoay lại hay không chịu xoay 
                    lại thôi. Nếu nghe mà phân biệt thì mất mình, không nhận ra 
                    được tánh nghe. Như đang ngồi đây nghe pháp, bất thần có 
                    tiếng nhạc ở đâu đó phát ra, nếu chúng ta không định tỉnh, 
                    mình sẽ không nghe pháp nữa mà chú mục vào tiếng nhạc. Như 
                    vậy rõ ràng chúng ta đã bị âm thanh đó kéo lôi, đã mất mình 
                    rồi. Thường con người luôn mất mình trong những trường hợp 
                    như thế, do đó cứ bị mắc míu hoài không có lối thoát. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Với người có công phu, có sức tỉnh, biết âm 
                    thanh nào cũng giả huyễn, không thật. Ví dụ nếu người bị cái 
                    lưỡi ngắn không đủ phát động thành âm thanh, hai hàm răng 
                    thiếu đi, không đủ kín để tạo thành âm thanh, hai môi cũng 
                    thiếu mất, không thể tạo âm thanh… thì họ phát âm không 
                    được. Rõ ràng âm thanh do duyên hợp thành, không có thực thể 
                    cố định. Tại sao chúng ta lại kẹt chấp nơi nó? Người tu luôn 
                    quán chiếu như thế. Tất cả mọi hiện tượng giữa đây, dù đã có 
                    nhân tố chánh nhưng thiếu duyên vẫn không thành tựu. Tóm 
                    lại, tất cả các pháp hình thành đều do hội đủ nhân duyên. 
                    Nếu thiếu một nhân, một duyên nào nó sẽ không thành tựu tốt 
                    đẹp được. Nhân duyên thiếu một hoặc hai thì sự hợp thành 
                    chưa hoàn chỉnh. Nếu thiếu nhiều hơn nữa, dưới trung bình, 
                    nghĩa là chỉ được ba bốn mươi phần trăm thì sự hợp thành 
                    hoàn toàn thất bại.  
                  
                  
                    
                    
                                Chúng ta đã có con mắt tuệ rồi, nhất định không 
                    còn lầm, không chạy theo, không phân biệt, không chấp nhận 
                    một cách dễ dàng các pháp bên ngoài. Ví dụ ta nổi bực lên vì 
                    gặp việc bất như ý, liền quán chiếu sự việc ấy có thực đâu 
                    mà phiền não, nhờ thế buông bỏ xuống được ngay. Đó là một 
                    pháp tu. Mọi đối đãi trên thế gian này cũng đều giả lập, 
                    duyên sinh, có thật đâu mà chấp nó. Thương ghét là giả tạm, 
                    được mất là giả tạm, thành bại là giả tạm… Nếu mỗi chúng ta 
                    nhận được, sống được như vậy thì đầy đủ định tuệ, nhất định 
                    sẽ giác ngộ giải thoát ngay trong hiện đời, không khó khăn 
                    gì cả. Phật nói trong mỗi chúng ta có cái thực, đó là Phật 
                    tánh hay tánh giác. Chỉ khi nào mình đình chỉ vọng tưởng 
                    điên đảo thì mới nhận và bảo nhậm tánh giác ấy.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                3- Mũi ngửi mùi tu chỉ quán
                    
                  
                  
                    
                    
                                Ở đây Tổ dạy chúng ta đừng chạy theo, đừng dính 
                    mắc mùi vị. Chỗ này nói dễ nhưng thực hành khó lắm. Bình 
                    thường quý vị không nghiện ngập hay thâm quen một mùi vị nào 
                    thì không có vấn đề gì, nhưng một khi đã nghiện hoặc thâm 
                    quen rồi thì chuyện không vướng mắc, không chạy theo, không 
                    phải dễ đâu. Ví dụ người nghiện thuốc lá, vừa nghe mùi thuốc 
                    lá là biết thuốc gì, phân biệt tức thì. Bởi bén nhạy như thế 
                    nên sự phân biệt cũng theo đó nhanh nhẹn vô cùng. Nghe mùi 
                    thuốc lá chẳng những phân biệt rành rẽ mà còn cảm thọ nữa. 
                    Nếu không có chỉ quán, không dừng được sự phân biệt và cảm 
                    thọ, nhất định cái mũi sẽ dẫn quý vị đi tới chỗ có thuốc lá. 
                    Thế là đã mắc míu vào nó rồi. Một gói thuốc lá ngon bằng cả 
                    số tiền quý vị kiếm được trong một ngày hay hơn thế nữa, 
                    cũng sẵn sàng đem nướng sạch vì cơn nghiện sai khiến. Vì vậy 
                    nên khổ, khổ do nghiệp dẫn. 
                  
                  
                    
                    
                                Ngày xưa, thời chúng tôi còn ở trường nội trú, 
                    có những huynh đệ thiệt là khổ vì sự thâm quen, nghiện ngập 
                    của mình. Tới giờ ngủ rồi, đại chúng đã tắt đèn, người huynh 
                    đệ nghiện thuốc nhè nhẹ bước xuống giường lẻn ra ngoài mua, 
                    rồi tìm chỗ hút. Sau khi hút rồi vô ngủ không được, khuya 
                    thức dậy học bài không nổi. Sáng mai tới trường là ngà lừ 
                    đừ. Ngày nào cũng thế nên sự học hành, tu tập bị thoái hóa. 
                    Đó là chỉ nêu ví dụ thâm quen về những mùi vị thông thường 
                    thôi, còn có những mùi vị khác hiểm nguy hơn nữa. Một khi đã 
                    sa vào bẫy rập của nó rồi, khó mà thoát ra được. Đã thế thì 
                    nói chi đến công phu tu hành nữa. Thật là khổ.  
                  
                  
                    
                    
                                Đối với người tu, Phật dạy phải dè dặt từng dấy 
                    niệm, cẩn thận trước tất cả cảnh duyên. Dù cảnh duyên nhỏ 
                    thôi, nó cũng tác động để thành lớn hồi nào mình không hay. 
                    Tốt hơn hết, chúng ta cố gắng tỉnh và làm chủ đối với mùi 
                    vị. Mỗi một tăng sĩ có mặt nơi đây, mai này làm chủ ở một 
                    phương sở nào đó, quý vị đại diện cho tăng-già tuyên dương 
                    chánh pháp “Trụ Như Lai xứ, hành Như Lai sự”, ở nhà Như Lai 
                    và giữ gìn mạng mạch của Như Lai. Trách nhiệm lớn như vậy, 
                    nếu chúng ta sơ suất để cho tì vết dính vào đời tu của mình, 
                    dù tì vết không đáng nhưng cũng làm tổn giảm công đức và uy 
                    tín của một chân tăng, trở ngại cho cả hai mặt tự lợi và lợi 
                    tha của chúng ta.  
                  
                  
                    
                    
                                Trụ trì nói theo dân gian là “làm dâu bá tánh”. 
                    Làm dâu thế nào? Tôi không làm dâu nên cũng chẳng biết 
                    chuyện này, nhưng thực sự công tác quản lý, tiếp cận, ứng xử 
                    và giải quyết mọi vấn đề trong tinh thần đạo lý, an ổn, hòa 
                    giải đối với bá tánh, là vấn đề không đơn giản chút nào. Vì 
                    vậy đòi hỏi chúng ta phải có sự định tỉnh, sáng suốt, cương 
                    quyết mới có thể đảm đương được trọng trách này.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                4- Tu chỉ quán khi lưỡi nếm vị
                    
                  
                  
                    
                    
                                Khi lưỡi tiếp xúc với các mùi vị, nếu không quán 
                    chiếu nó là không thật, chúng ta rất dễ sinh đắm nhiễm. Tuy 
                    biết vị do nhân duyên giả hợp mà thành, nhưng nếu không làm 
                    chủ được, cái giả này sẽ thành thật cho coi. Nó quấy rầy, 
                    làm xáo trộn việc tu hành của chúng ta. Thành ra pháp tu có 
                    thể thành tựu hay không, tất cả đều từ nơi mình. Nếu chúng 
                    ta làm chủ được cái lưỡi thì không có vấn đề gì. Trái lại, 
                    người mất tự chủ, ăn không được, không có sức khỏe, sẽ quạu 
                    quọ, ứng xử không hay với mọi người chung quanh… hậu quả dài 
                    dài như thế.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy đối với việc ăn uống, người tu phải khéo 
                    điều hòa cái lưỡi của mình. Tiếp cận với chất mặn biết mặn, 
                    tiếp cận với chất ngọt biết ngọt, không sinh tâm đắm nhiễm 
                    tìm cầu hoặc chán ghét chối bỏ. Tu chỉ quán nơi lưỡi là thế. 
                    Mặn ra mặn, ngọt ra ngọt nhưng không đam mê, mắc míu bởi 
                    những vị ấy, chứ không phải mặn ngọt gì cũng như nhau, lẫn 
                    lộn tạp nhạp. 
                  
                  
                    
                    
                                5- Khi thân xúc chạm tu chỉ quán
                    
                  
                  
                    
                    
                                Nếu khi thân xúc chạm nên biết tất cả những cái 
                    đó như bóng trong gương, như huyễn như hóa, không thật. Gặp 
                    cái vui thích ý thì không khởi tham đắm, gặp cái khổ trái ý 
                    thì không khởi tâm ghét giận, hoặc xúc chạm những thứ không 
                    khổ không vui cũng không nhớ tưởng trở lại.  
                  
                  
                    
                    
                                Đó là đình chỉ một loạt tất cả những mống tâm có 
                    khả năng làm trở ngại việc tu hành của mình. Nếu người có 
                    trí giác, tỉnh táo, thường quán chiếu nhận và thấy được tất 
                    cả xúc chạm của thân không thật, làm chủ hoàn toàn thì không 
                    có vấn đề gì, không khởi lên bất cứ ý niệm nào, như thế sẽ 
                    bình an. Ngược lại, người tham đắm cảm thọ khoái lạc nơi 
                    thân sẽ tạo nghiệp theo sau, chìm sâu trong đó thì rất trở 
                    ngại cho việc tu hành.  
                  
                  
                    
                    
                                Tất cả những cảm nhận của chúng ta, như cảm nhận 
                    vui thích, cảm nhận không vui thích, cảm nhận trung tính 
                    giữa vui thích và không vui thích. Cảm nhận nào cũng do nhân 
                    duyên tựu thành, thiếu một trong các duyên ấy thì sự cảm thọ 
                    không còn, rõ ràng nó không thật, vô thường. Do đó đối với 
                    tất cả cảm thọ chúng ta bình thường, an nhiên tự tại, không 
                    bị động bởi chúng. Người thông minh bén nhạy với cảm thọ 
                    thường rất khó tu ở thân căn. Vì sự bén nhạy ấy dẫn họ chạy 
                    đi, dễ lầm, dễ mất mình. Từ cảm thọ dẫn tới tưởng tượng, 
                    phân biệt, trải qua một loạt vọng động. Thân cảm thọ, tâm 
                    cảm thọ dẫn theo tưởng. Tới đây thì sinh chuyện lớn hơn, 
                    ngồi đó mà tưởng, nằm cũng tưởng, đi đứng chi cũng tưởng 
                    tượng được hết. Nếu phát huy hết mức sự tưởng tượng, con 
                    kiến người ta có thể tưởng tượng ra con bò! Nguy hại như 
                    thế.  
                  
                  
                    
                    
                                Qua tưởng tượng rồi suy nghĩ, cứ thế miên man 
                    trong đầu. Lúc nào cũng suy gẫm, cũng bất an, cũng lăng xăng 
                    nên không khi nào sống được với cái chân thật. Một triết gia 
                    Tây phương nói: “Tôi còn suy nghĩ là biết có tôi”, quả là 
                    một lầm lẫn to lớn. Họ chấp nhận suy nghĩ là mình, coi như 
                    chấp nhận cái bóng giả bên ngoài là mình. Như vậy mình là 
                    cái không thật rồi. Cho nên đạo Phật nhìn thấu được thực 
                    tướng của các pháp, biết rõ giòng suy nghĩ chẳng qua là 
                    những dấy động từ bóng dáng các tiền trần. Hợp đủ điều kiện 
                    nó suy nghĩ như thế, thiếu đi thì suy nghĩ khác. Những tựu 
                    thành như vậy làm sao cho là mình thật được. Phật nói các 
                    pháp do nhiều thứ hợp lại nên không thật. Chủ yếu của lời 
                    Phật dạy là làm sao giải tỏa cho chúng ta đừng mắc míu trong 
                    ý tưởng. Do đó cái nhìn của nhà Phật là cái nhìn giải thoát. 
                    Chữ “giải” là cởi ra, chữ “thoát” là trót lọt. Cho nên cái 
                    gì còn mắc míu đều phải được tháo gỡ hết.  
                  
                  
                    
                    
                                Trở lại vấn đề tu chỉ quán đối với cảm thọ của 
                    thân tâm. Nếu chúng ta không niệm thân, nhất là các bậc có 
                    trách nhiệm trong tăng đoàn, phải học và áp dụng bài kinh 
                    niệm thân thật kỹ lưỡng. Niệm thân là gì? Nói cho dễ hiểu là 
                    biết thân này không thật. Ví dụ thân này đi được, đứng được, 
                    hoạt động được là do nhiều điều kiện hợp lại. Nếu các điều 
                    kiện ấy không đầy đủ nữa thì thân ngưng hoạt động thôi. 
                    Chúng ta hiểu như vậy nên những nhu cầu của thân, đều dùng 
                    con mắt tuệ làm chủ, không để nó hoàn toàn kéo lôi. Dứt 
                    khoát không để bị lệ thuộc nó, như vậy mình sẽ là người chủ 
                    động và từ đó ta giải thoát. Có giải thoát chúng ta mới đem 
                    đạo lý hướng dẫn cho mọi người chung quanh cùng được giác 
                    ngộ giải thoát như mình. Đó là toàn bộ ý nghĩa bài kinh Niệm 
                    thân. 
                  
                  
                    
                    
                                6- Khi trong ý biết tu chỉ quán
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tức là tu chỉ quán khi ý đang hoạt động, đang có 
                    những dấy niệm về các cảnh duyên bên ngoài. Làm sao chúng ta 
                    tu chỉ quán khi ý đang làm việc? Đây là vấn đề gốc. Các giác 
                    quan trước làm việc mà ý không chịu cộng tác thì giòng nghĩ 
                    tưởng và phiền não bị giới hạn, nó có mặt rất khiêm nhường. 
                    Chỉ khi nào ý chịu làm việc thì ảnh hưởng hoạt động của các 
                    giác quan mới rộng lớn. Vì vậy người biết điều chỉnh và làm 
                    chủ được là người biết dừng cái ý của mình. Đây cũng gọi là 
                    người biết tu. Khi quý vị dạy Phật tử tu tâm chính là bảo họ 
                    coi chừng cái ý đấy. Nếu như làm chủ được cái ý là biết tu 
                    tâm. 
                  
                  
                    
                    
                                Tâm nói đây không phải là tâm thật, nó chỉ là 
                    bóng dáng của tiền trần, tâm này là vọng tưởng. Nó chợt hiện 
                    chợt mất lăng xăng vì chạy theo pháp trần, người đời gọi là 
                    tâm, chẳng qua cũng chỉ là bóng dáng của tiền trần, là ý 
                    thức phân biệt mà thôi. Tâm chân thật theo tinh thần Phật 
                    dạy là cái sáng suốt trùm khắp, lớn lao vô cùng, nó không có 
                    hình thức nào. Thành ra người biết tu là người dừng được ý, 
                    làm chủ được ý nghiệp của mình.  
                  
                  
                    
                    
                                Đọc chuyện Tề Thiên, quý vị thấy bốn thầy trò 
                    Đường Tăng chung làm một việc mà trở thành công trình vĩ 
                    đại, đó là từ Trung thổ đi Tây phương thỉnh kinh, tức là cầu 
                    chánh pháp. Người dẫn đầu cho sự nghiệp này là Đường Tăng. 
                    Chúng ta cũng thấy rõ với hai con mắt đẹp của Đường Tăng thì 
                    không thấy được đâu là ma, là quỷ, đâu là thực là giả. Bởi 
                    vậy ma biến thành người đẹp, cho nên Đường Tăng bị bắt. Chỉ 
                    có Tề Thiên trợn con mắt lửa tròng vàng lên thấy rõ đâu là 
                    ma, đâu là quỷ, đâu là thực, đâu là giả… khẳng định rõ ràng 
                    như vậy nên ma quái không làm lầm ông Tề nổi. Một nhân vật 
                    lăng xăng, bị rầy bị quở, có khi bị sư phụ niệm chú “khẩn 
                    cô” đau cái đầu muốn chết, vậy mà là người đóng vai trò 
                    chính. Đó chính là ý thức. Chúng ta muốn tu hành thành Phật 
                    chắc rằng phải điều cái ý. Ý được điều phục theo đúng chánh 
                    pháp thì thanh tịnh, nhất định sẽ thành tựu đạo nghiệp giác 
                    ngộ giải thoát.  
                  
                  
                    
                    
                                Việc tu hành của chúng ta cũng vậy, nói gì thì 
                    nói chứ để ý buông lung, chắc chắn mất mình. Khi thân tiếp 
                    xúc với cảnh, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, 
                    lưỡi nếm vị… chúng ta không điều được ý là bị mất mình, bị 
                    con khỉ đột dẫn đi. Khi nào mình làm chủ được, tâm thể mới 
                    hiện thành, bấy giờ mọi việc đều là Phật sự. Phật sự với ma 
                    sự không có biên cương cố định, hễ lầm chạy theo cảnh duyên 
                    là ma sự, là Tề Thiên. Đình chỉ được, làm theo đúng sự hướng 
                    dẫn của sư phụ, gầy dựng công đức để thành tựu Phật vị, đó 
                    là Đấu Chiến Thắng Như Lai.  
                  
                  
                    
                    
                                Tu là từ bỏ những lăng xăng trong tâm. Thành 
                    Phật thành Tổ cũng chính từ tâm này. Cho nên điều chỉnh ý, 
                    làm chủ được ý tức là biết tu tâm. Nhận được tâm, sống được 
                    với tâm rồi thì tất cả mọi lăng xăng, những giả cảnh giả 
                    duyên, các hình tướng bên ngoài không làm gì được chúng ta, 
                    bấy giờ mình sẽ tự tại giải thoát. Kinh Đại Phẩm nói: Phật 
                    bảo ông Tu Bồ Đề: Nếu Bồ-tát khi đi thì biết đi, khi ngồi 
                    thì biết ngồi, cho đến mặc y tăng-già-lê, nhìn, chớp mắt 
                    v.v... đều nhất tâm. Ra vào đều trong thiền định thì chính 
                    người ấy là Bồ-tát Đại thừa. Như vậy người nhiếp ý được là 
                    Bồ-tát đại thừa, chứ không phải tìm cầu Bồ-tát đại thừa ở 
                    đâu xa. Chúng ta dám buông bỏ những gì không cần thiết, đó 
                    là Bồ-tát đại thừa. Tuy nhiên, hiểu như thế nhưng khi vào 
                    công phu không phải đơn giản đâu. Phải gan dạ quyết chí lắm 
                    mới được. 
                  
                  
                    
                    
                                Có một vị Phật tử làm nghề thợ rèn đến hỏi thầy 
                    mình: “Thưa thầy, thầy dạy con pháp tu để được an tâm.” Ông 
                    thầy nói: “Có gì lạ đâu, ông làm thợ rèn thì biết rồi, muốn 
                    được những món đồ thuần kim loại, bén tốt thì phải loại hết 
                    những cặn bã trong kim loại ra, từ đó tạo thành những món đồ 
                    tinh ròng tốt đẹp. Tu hành cũng như thế, lọc bỏ hết cặn bã 
                    trong tâm đi thì sẽ được an tâm thôi”. Ở đây Phật dạy khi 
                    ngồi, khi nằm, khi đi, khi đứng, khi mặc y tăng-già-lê, 
                    nhướng mày chớp mắt, lúc nào cũng nhất tâm ở trong thiền 
                    định, như vậy là Bồ-tát đại thừa.  
                  
                  
                    
                    
                    Đi đứng nằm ngồi tu chỉ quán, nghĩa là dụng chỉ quán trong 
                    các cảnh duyên, lúc nào cũng tỉnh, cũng định, cũng sáng suốt 
                    thì không bị động, không bị kéo lôi bởi cảnh duyên bên 
                    ngoài. Đó là Bồ-tát đại thừa. Chúng ta không dám khinh ai, 
                    cũng không dám tự hào mình được cái gì, nhưng phút giây nào 
                    ta quay về nhận và sống được với ông chủ của mình thì biết 
                    ta có giòng họ bà con với chư vị Bồ-tát đại thừa. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trong Thích Luận có lời khen ngợi người tu hành 
                    theo pháp đại thừa chỉ quán được an vui lợi lạc thế này: 
                    Người xuất gia tâm hướng về đạo, mặc áo vá ăn cơm hẩm, ở 
                    hang núi, dạo chơi trong rừng vắng, lấy đạo mầu làm vui, lấy 
                    trí tuệ làm mắt, xem thấy thật tướng các pháp, không còn bị 
                    vô minh mờ tối che đậy, giải thoát khỏi phiền não sinh tử, 
                    dùng trí tuệ này quán chiếu, soi sáng thế gian thì tất cả 
                    vạn tượng đều ở trong Như Lai tạng tâm. Ở trong Như Lai 
                    tạng, tâm địa trạm nhiên vắng lặng, không bị tất cả cảnh 
                    giới lay động, người được như vậy thì còn gì bằng. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Bây giờ chúng ta điểm lại từng câu. Người xuất 
                    gia tâm hướng về đạo, tức tâm mình luôn luôn rỗng rang sáng 
                    suốt hợp với đạo. Mặc áo vá, ăn cơm hẩm, ở hang núi, dạo 
                    chơi trong rừng vắng. Tùy, chúng ta chạy xe trên đường phố, 
                    ở chỗ ồn náo mà tâm vắng lặng thì cũng có thể gọi là dạo 
                    chơi trong rừng vắng. Chỉ xin con khỉ ý thức dừng lặng là 
                    được, còn nó lăng xăng ngược xuôi không điều phục được thì 
                    dù thân ở chốn rừng vắng vẫn không gọi là yên ổn nơi chốn 
                    tĩnh lặng. Lấy đạo mầu làm vui, lấy trí tuệ làm mắt, xem 
                    thấy thật tướng các pháp. Con mắt trí tuệ lúc nào cũng mở 
                    sáng, thấy được lẽ thực của tất cả các pháp thì các pháp 
                    không làm gì được mình.  
                  
                  
                    
                    
                    Không còn bị vô minh mờ tối che đậy, giải thoát khỏi phiền 
                    não sinh tử, dùng trí tuệ này quán chiếu soi sáng thế gian 
                    thì tất cả vạn tượng đều ở trong Như Lai tạng, tâm địa trạm 
                    nhiên vắng lặng, không bị tất cả cảnh giới lay động, đó là 
                    người không ai bì được. Người phát huy được con mắt Bát-nhã 
                    rồi, không bị các pháp kéo lôi, người đó không còn mờ tối 
                    bởi sự che đậy của vô minh, giải trừ mọi bức xúc phiền não 
                    trong lòng. Người này vận dụng đạo lực trí tuệ của mình soi 
                    rọi thế gian, dìu dẫn chúng sinh trên bước đường tu học đến 
                    viên mãn.  
                  
                  
                    
                    
                                Người phát tâm tu tập chỉ quán cần phải xem tâm 
                    như đã chết, buông xuống tất cả, năng sở không hai, không 
                    khởi phân biệt, sau mới có thể biết pháp chỉ quán là chiếc 
                    búa bén đốn phá tất cả pháp, là đao thép cắt đứt mọi tình 
                    chấp, là thềm thang bước lên bờ giác ngộ, là diệu dược trừ 
                    các nghiệp phiền não. Nếu trong tất cả thời siêng tu chỉ 
                    quán, trong tất cả oai nghi niệm niệm sáng tỏ chẳng mờ, công 
                    phu không gián đoạn, không dừng nghỉ thì lo gì Phật đạo 
                    chẳng thành, sinh tử chẳng dứt. 
                  
                  
                    
                    
                                Ở đây chúng ta đã nắm vững phương thức dừng hết 
                    những lăng xăng khi các giác quan tiếp xúc với cảnh duyên 
                    bên ngoài. Khi làm chủ được là ta đã thể hiện tu tập pháp 
                    chỉ quán thành công. Khi đã làm chủ, người đó đối với tâm 
                    năng duyên và cảnh bị duyên, hai thứ ấy không còn dính dáng 
                    nữa. Bấy giờ tâm và cảnh nhất như. Tâm lúc nào cũng rỗng 
                    rang sáng suốt, cảnh là cảnh giả, những hiện tượng bên ngoài 
                    không làm gì được ta. Người thấy và hằng sống như vậy là tâm 
                    cảnh như như.  
                  
                  
                    
                    
                                Người tu tập được chỉ quán là người có năng dụng 
                    lớn, có búa bén hay cắt đứt tất cả tình chấp sai lầm. Đó 
                    cũng là thềm thang bước lên bờ giác ngộ, là diệu dược trừ 
                    tất cả các nghiệp phiền não. Cho nên nói chỉ quán cũng chính 
                    là nói đạo lực tròn đầy của một bậc chân tăng, của một vị 
                    trụ pháp vương gia, giữ gìn mạng mạch của đức Như Lai, trên 
                    cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh. Đó cũng chính là vai 
                    trò, sứ mệnh, trách nhiệm của chúng ta. 
                  
                  
                    
                    
                                Thế nên biết tu chỉ quán trong khi ngồi hay khi 
                    trải duyên đối cảnh đều là những phương pháp thiện xảo đưa 
                    hành giả đến chỗ cứu kính Niết-bàn, an vui vĩnh viễn, không 
                    bị khổ trầm luân trong sinh tử vây bủa nữa. Vì vậy người sơ 
                    phát tâm cần phải dõng mãnh nỗ lực hạ thủ công phu tu tập 
                    chỉ quán. Câu kết ngài Trí Khải động viên phải có công phu 
                    chỉ quán. Chúng ta muốn thành tựu tự lợi tốt đẹp, muốn dìu 
                    dẫn chúng sinh trên bước đường Phật đạo viên mãn, nhất định 
                    không thể thiếu pháp tu chỉ quán. Lúc nào cũng thể hiện đầy 
                    đủ công phu chỉ quán, đó là thể hiện nội lực thâm hậu của 
                    một thiền tăng. 
                  
                  
                    
                    
                                (Thiền Viện Thường Chiếu)
                    
                  
                  
                    
                    
                                09-02-2008 11:23:46