SỨC MẠNH HOÀ HỢP
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    HT.Thích Trí Quảng
                    
                  
                  
                    
                    
                    
                    ---o0o---
                    
                  
                  
                    
                    
                                Được sự phân công của Thường trực Hội đồng Trị 
                    sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chúng tôi hướng dẫn phái 
                    đoàn Trung ương Ban Phật giáo Quốc tể, Ban Hoằng pháp, Ban 
                    Từ thiện xã hội cùng chư Phật tử đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc, 
                    miền Nam đi thăm viếng và cúng dường chư Tăng Ni trường hạ 
                    tại các tỉnh miền Trung.  
                  
                  
                    
                    
                                Trải qua năm nhiệm kỳ, 26 năm, tôi nhận trách 
                    nhiệm Trường ban Hoằng pháp và công việc hoằng pháp tại tất 
                    cả các tỉnh thành được tốt đẹp một phần cũng nhờ sự quan tâm 
                    hỗ trợ của chư tôn đức. Hôm nay, tôi chuyển sang công tác 
                    mới mà Giáo hội giao phó là Trưởng ban Phật giáo quốc tế, 
                    nhưng tôi vẫn coi hoằng pháp là công việc của người tu. Vì 
                    vậy, tôi mong qua nỗ lực phát triền ngành hoằng pháp vì Đức 
                    Phật dạy người xuẩt gia chỉ có một việc duy nhất là hoằng 
                    pháp lợi sinh, còn những việc khác đã có Hộ pháp Long thiên 
                    và cư sĩ tại gia đảm trách.  
                  
                  
                    
                    
                                Về phương diện quan hệ Phật giáo quốc tế , song 
                    song với sự phát triển của đất nước theo chủ trương Việt Nam 
                    muốn làm bạn với các nước trên thế giới, giới phật giáo 
                    chúng ta cũng mở tầm nhìn mới đến các nước bạn. Có thể nói 
                    mối quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo cá nước 
                    được xếp hàng đầu mà Giáo hội chúng ta phải quan tâm. Nhận 
                    lãnh trách nhiệm này, kèm theo trách nhiệm Trưởng ban Nội 
                    dung Đại lễ Phật đản năm nay tôi nhận thấy đã có sự thay đổi 
                    lớn lao của vị trí Phật giáo trong thời hiện đại. Thật vậy, 
                    năm 1999, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công  nhận Lễ Phật 
                    đản là ngày lễ của nhân loại, nhưng đến năm 2004, mới có 
                    sáng kiến của Phật giáo Thái Lan tổ chức Lễ Vesak quốc tế 
                    tại nước này. Và đến năm 2006, Lễ Vesak được tổ chức lớn hơn 
                    nữa, quy tụ gần 60 quốc gia, trong đó Đại biểu của Phật giáo 
                    Việt Nam là đoàn đông nhất trong các khách mời với trên 200 
                    người vừa 1à thành viên chín thức vừa là quan sát viên, 
                    khiến bạn bè năm châu tham dự lễ đã có cái nhìn khác về Phật 
                    giáo Việt Nam. Nghĩa là trước kia, họ nghĩ rằng Việt Nam 
                    không có tự do tín ngưỡng, Phật giáo không phát triển được. 
                    Nhưng Đại lễ Phật đản năm 2006, đoàn Phật giáo của chúng ta 
                    đông số lượng và chất lượng học vấn của Tăng Ni cũng vượt 
                    trội, vì đã có một số lớn Tăng Ni trẻ xuất thân từ các học 
                    viện có học vị thạc sĩ, tiến sĩ. Tham luận chính thức của 
                    đoàn, chúng ta còn có thêm năm bài tham luận tại các hội 
                    thảo chuyên đề.  
                  
                  
                    
                    
                                Từ cái nhìn khác về Phật giáo chúng ta, có những 
                    vị đã đến hỏi tôi về sinh hoạt Phật giáo Việt Nam. Tôi giới 
                    thiệu tổ chức của Giáo hội chúng ta hình thành từ năm 1981 
                    đến nay chỉ có một Giáo hội duy nhất trong nước. Điều này đã 
                    làm họ ngạc nhiên, vì theo quan niệm thông thường, hợp nhất 
                    là thu hẹp phân tán mới phát triển được và phân tán càng 
                    rộng, tổ chức phát triển càng nhanh. Nhưng chúng ta đã tạo 
                    kết quả ngược lại từ sự thống nhất, hợp nhất. Thực tế đã cho 
                    thấy trong những thời kỳ sinh hoạt Phật giáo chúng ta phân 
                    tán một cách tự do thì càng phân tán, chúng ta càng không 
                    gặp nhau và càng xa rời cội gốc của đạo pháp, để cuối cùng 
                    dẫn đến không hiểu nhau, chống phá nhau và kết thúc bằng sự 
                    tan rã, một điều mà chắc chắn đệ tử Phật không hề mong muốn.
                    
                  
                  
                    
                    
                                Đức Phật dạy mỗi người đi hoằng pháp một phương 
                    nhằm phát triển đạo Phật, nhưng cốt lõi phải giữ được sự hợp 
                    nhất. Đệ tử Phật dùng vô số phương tiện cứu độ chúng sinh, 
                    nhưng hương vị giải thoát của đạo Phật không được xa rời; 
                    phải hợp nhất để tìm được chân lý và sống gải thoát. Tuy 
                    nhiên, khi hợp nhất, chúng ta dễ thấy bị ràng buộc, bị cơ 
                    chế làm khó khăn, cảm thấy khó chịu; nhưng sinh hoạt hợp 
                    nhất lâu dần, chúng ta sẽ nhận thấy rõ có lợi hơn là phân 
                    tán, vì học được lẫn nhau những điều hay, thấy được mặt mạnh 
                    để phát huy và mặt yếu để khắc phục, tạo được sức mạnh của 
                    một tập thể hòa hợp, đoàn kết.  
                  
                  
                    
                    
                                Giáo hội chúng ta phát triển được đến ngày nay 
                    nhờ có sinh hoạt hợp nhất và tinh thần hợp nhất này đã  từ 
                    trước kia. Thật vậy, năm 1950, sáu tập đoàn Phật giáo của ba 
                    miền Bắc, Trung, Nam đã hợp nhất thành Tổng hội Phật giáo 
                    Việt Nam. Năm 1964 hợp nhất được 11 giáo phái thành lập Giáo 
                    hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nhưng sinh hoạt Phật giáo 
                    được thống nhất thành một khối mà cha anh chúng ta đã dày 
                    công xây dựng không thể tồn tại lâu dài nếu đất nước không 
                    độc lập, không có chủ quyền, còn bị ngoại bang chi phối. 
                    Chúng ta muốn thống nhất, nhưng các thế lực xấu không muốn 
                    chúng ta thống nhất, không muốn chúng ta mạnh, nên họ đã hỗ 
                    trợ sự chia rẽ, tách rời, để thành lập nhiều Giáo hội riêng 
                    lẻ.  
                  
                  
                    
                    
                                Vì vậy đến năm 1965, thực sự chỉ còn cái tên 
                    thống nhất, vì một  tập đoàn như Hội Phật học Nam, Thiền 
                    Tịnh đạo tràng, Phật giáo Nguyên thủy,v.v... cho nên chỉ sáu 
                    tập đoàn trong Giáo hội thời ấy. Đến năm 1966, Đại hội kỳ 2 
                    của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại thêm sự phân 
                    hóa trầm trọng diễn ra, tách thành Giáo hội Phật giáo phái 
                    Việt Nam Quốc tự và Giáo hội Phật giáo phái Ấn Quang. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                May mắn thay, năm 1975, đất nước chúng ta được 
                    độc lập, thống nhất và đến năm 1981, giới Phật giáo đã đầy 
                    đủ thiện duyên tổ chức thành công Đại hội thống nhất Phật 
                    giáo cả nước. Phải nói đây mới là lần thống nhất thực sự 
                    trọn vẹn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, hình thành Giáo 
                    hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua 27 năm, nhờ 
                    sinh hoạt trong một Giáo hội duy nhất, đã tạo cho Phật giáo 
                    chúng ta sức mạnh của sự đoàn kết, sức mạnh của tập thể và 
                    chính thành quả này làm cho Phật giáo các nước bạn quan tâm 
                    và kính nể Phật giáo Việt Nam.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi tôi trình bày như vậy, gợi cho các đại biểu 
                    có suy nghĩ là Giáo hội Phật giáo Việt Nam tập hợp các hệ 
                    phái sinh hoạt chung được, thì Phật giáo thế giới có thể làm 
                    như chúng ta được hay không. 
                  
                  
                    
                    
                                Các tu sĩ truyền bá giáo lý ở khắp mọi nơi đều 
                    tùy duyên mà phát triển và làm lợi ích cho nhiều người. Thể 
                    hiện tinh thần này theo kinh Pháp Hoa, Đức Phật được ví như 
                    người thợ làm đồ gốm, với một thứ đất sét duy nhất, nhưng 
                    tùy theo yêu cầu của người tiêu dùng mà làm thành những món 
                    hàng khác nhau. Cũng vậy, chân lý đạo Phật chỉ có một vị 
                    giải thoát, nhưng sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để 
                    thích ứng với văn hóa, phong tục, tập quán của từng nơi, 
                    từng lúc khác nhau. Vì vậy mà Phật đưa ra vô số pháp môn tu. 
                    Nhà truyền giáo nương pháp phương tiện giảng dạy, nhưng 
                    không chấp phương tiện là cứu cánh để giữ được cuộc sống 
                    giải thoát. 
                  
                  
                    
                    
                                Kinh nghiệm của Phật giáo Việt Nam là thống nhất 
                    tổ chức và lãnh đạo thống nhất ý chí và hành động; nhưng 
                    pháp môn biệt truyền không trái Chánh pháp vẫn được tôn 
                    trọng. Giáo hội chúng ta đặt trên nền tảng thống nhất sinh 
                    hoạt như vậy, quyền tự do tu hành của từng hệ phái không bị 
                    xâm phạm, nên mọi người dễ dàng chấp nhận, lại có lợi hơn 
                    nữa là tạo được sức mạnh của một tập thể đoàn kết.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Từ sự hiểu biết đúng đắn về Phật giáo Việt Nam, 
                    bạn bè các nơi đã chấp nhận tư tưởng mới của chúng ta, dẫn 
                    đến năm 2007, họ đề nghị Việt Nam nên tổ chức Lễ Vesak quốc 
                    tế nhằm giúp Phật giáo các nước học hỏi kinh nghiệm thống 
                    nhất của Giáo hội chúng ta để có thể thống nhất Phật giáo 
                    thế giới, từ đó cùng chung sức với nhau đóng góp cho sự tiến 
                    bộ văn minh và tình người cho cộng đồng nhân loại.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Trên nền tảng tốt đẹp như vậy, đến năm 2008, 
                    chúng ta đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản quốc tế lớn 
                    nhất mà từ trước chúng ta chỉ mơ ước, chưa bao giờ thực hiện 
                    được. Không những chúng ta tổ chức Đại lễ Phật đản tại Mỹ 
                    Đình, Hà Nội, mà tại Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh... 
                    hầu như khắp các tỉnh thành trong cả nước đều tổ chức Lễ 
                    Phật đản tại địa phương mình thật trang nghiêm long trọng. 
                    Riêng Phật giáo Thừa Thiên-Huế đã tổ chức được một Lễ Phật 
                    đản mang đậm nét văn hóa tiêu biểu của Phật giáo cố đô. Đó 
                    là một niềm danh dự của Phật giáo tỉnh nhà. Điều này đã 
                    khiến cho bạn bè khắp nơi đến Việt Nam nhận thấy được thực 
                    lực của Phật giáo chúng ta.  
                  
                  
                    
                    
                                Hôm nay, có duyên thăm chư tôn đức Ban Trị sự và 
                    chư Tăng Ni tỉnh nhà, tôi không còn được gặp các bậc tôn túc 
                    ngày nào; nhưng qua sinh hoạt của chư Tãng Ni gọi cho tôi 
                    suy nghĩ rằng các anh em đều có niềm hãnh diện về những gì 
                    của tiền nhân để lại. Và những điều tốt đẹp ấy thể hiện 
                    trong suy nghĩ, trong hành động của anh em đã nói lên được 
                    tinh thần của những người đi trước truyền lại cho anh em, 
                    gọi là vô tận đăng theo kinh Duy Ma.  
                  
                  
                    
                    
                                Vô tận đăng là ngọn đèn vô cùng tận được mồi từ 
                    Đức Phật sang chư Tổ, cho đến chúng ta và chúng ta tiếp nối 
                    ngọn đèn trí tuệ đó để truyền lại cho thế hệ mai sau. Nhận 
                    thấy đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh hôm nay, tôi tin 
                    tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo tỉnh nhà nói 
                    riêng sẽ thắp sáng mãi ngọn đèn Chánh pháp lan rộng khắp năm 
                    châu bốn biển.  
                  
                  
                    
                    
                                Cũng trên tinh thần đó, tôi có suy nghĩ rằng đạo 
                    Phật phát xuất từ Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ và trải qua 
                    một thời gian dài, tư tưởng của Đức Phật đã được truyền bá 
                    khắp các châu lục; nhưng Phật giáo đến nơi nào cũng đều hội 
                    nhập với xã hội tại nơi đó. Và hội nhập xã hội thì đương 
                    nhiên chịu ảnh hưởng văn hóa, phong tục, tập quán của từng 
                    dân tộc khác nhau, qua những thời kỳ khác nhau. Vì vậy, sinh 
                    hoạt Phật giáo ngày nay thường có tính chất đa dạng.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Vì sinh hoạt ở nhiều hình thức khác nhau ở các 
                    quốc gia khác nhau đã làm cho giới Phật giáo đôi khi có suy 
                    nghĩ lệch lạc, thường chấp vào pháp môn phương tiện của Phật 
                    mà để cho phiền não, nghiệp chướng nổi lên, lại cứ ngỡ lầm 
                    rằng mình đúng, mình là chánh thống của Phật giáo, còn những 
                    người tu pháp môn khác là sai lầm. Từ sự hiểu biết lệch lạc 
                    như thế sẽ rơi vào tăng thượng mạn, coi thường những tổ chức, 
                    những sinh hoạt Phật pháp khác mình; như vậy, chính lòng 
                    mình cũng bất an.  
                  
                  
                    
                    
                                Khi tự nghĩ mình đúng, nhưng chưa chắc đúng; 
                    thật ra mình đúng ở điểm nào và người sai điểm nào. Vì trên 
                    lập trường Đại thừa Phật giáo, có hai chữ "Phương tiện" mà 
                    chúng ta cần suy nghĩ. Phương tiện là tùy từng chỗ khác nhau, 
                    tùy từng lúc khác nhau, mà chúng ta có những pháp môn khác 
                    nhau để thích ứng với hoàn cảnh, giúp cho mọi người được 
                    giải thoát; đó mới là điều quan trọng mà người học Phật phải 
                    thấy biết.  
                  
                  
                    
                    
                                84.000 pháp Phật chỉ có một vị giải thoát. Cho 
                    nên người chấp pháp chắc chắn không được giải thoát, vì đã 
                    rơi vào biên kiến và sẽ cảm thấy nặng lòng. Thuở xưa, còn 
                    ngồi ghế nhà trường, tôi từng rơi vào tâm trạng này, nên tôi 
                    muốn chia sẻ kinh nghiệm này với Tăng Ni trẻ. Bao giờ tâm 
                    hồn chúng ta thanh thản, không vướng mắc với bất cứ điều gì, 
                    mới có thể đi vào dòng thác trí tuệ Như Lai; còn  phương 
                    tiện thì mỗi người có pháp khác nhau để hành đạo.  
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tôi nhớ Hòa thượng Trí Thủ khi còn sinh tiền đã 
                    dạy rằng trong thời kỳ Phật pháp suy đồi, tên Phật còn không 
                    có, thì một ông thầy ở thôn quê đi cúng đám bấy giờ cũng trở 
                    thành số một. Lúc đó, tuổi còn trẻ, nghe vậy, đương nhiên 
                    tôi không bằng lòng, vì chỉ tôn trọng người đồng chơn nhập 
                    đạo, khó chấp nhận người bán thế xuất gia, làm sao chấp nhận 
                    ông thầy đi cúng, không hiểu đạo lý. Nhưng khi tuổi đạo lớn 
                    hơn, tôi có suy nghĩ khác, mới nhận thấy lúc Phật giáo suy 
                    đồi, không có các bậc cao tăng, thì chính những ông sư đó 
                    vẫn giữ được hình bóng của đạo Phật, cho nên chúng ta cần 
                    trân trọng những vị này. Đương nhiên, lúc Phật pháp hưng 
                    thạnh, với sự hiện hữu của các bậc cao tăng thì hoàn cảnh đã 
                    đổi khác, sinh hoạt phải trở nên tốt đẹp. Điều này gợi nhắc 
                    chúng ta tập nhìn sự vật đúng như thật của nó, đừng mang 
                    định kiến mà chê trách người khác. 
                  
                  
                    
                    
                                Trong Đại lễ Vesak năm nay, tôi vô cùng hoan hỷ, 
                    vì có dịp gặp gỡ các nhà nghiên cứu, các học giả, các vị cao 
                    tăng thuộc các pháp môn khác, dân tộc khác. Tôi cảm nhận mỗi 
                    người là một hóa thân của Phật. Dĩ nhiên hóa thân Phật không 
                    phải là Phật; nhưng đệ tử Phật hành đạo ở các nơi đều tạo 
                    được sự hài hòa với đời sống và phong tục, tập quán nơi đó, 
                    nên Phật giáo ở mỗi nơi đã thể hiện những sắc thái khác nhau. 
                    Mặc dù Phật giáo mỗi nước có hình thức khác nhau, suy nghĩ 
                    khác nhau vì ảnh hưởng những nét văn hóa khác nhau, giới 
                    Phật giáo trên khắp các châu lục vẫn có thể chấp nhận nhau 
                    trên lộ trình giác ngộ,  giải thoát, làm cho Phật giáo mỗi 
                    ngày thêm hưng thạnh.  
                  
                  
                    
                    
                                Thật vậy, nếu giới Phật giáo không chấp nhận 
                    nhau, chắc chắn Phật giáo phải suy yếu. Ngay trong một quốc 
                    gia như Việt Nam chẳng hạn, chúng ta thấy ở miền Tây Nam bộ 
                    có Phật giáo Nam tông Khmer hoàn toàn khác với chúng ta; 
                    nhưng nếu không có hình thức Phật giáo này, chưa chắc Phật 
                    giáo phát triển được trong đồng bào dân tộc Khmer. Để có 
                    được thành quả này, điều quan trọng là Phật giáo Khmer có 
                    thể hiểu và chấp nhận chúng ta; muốn như vậy, chúng ta phải 
                    hiểu và chấp nhận họ trước.  
                  
                  
                    
                    
                                Tôi còn nhớ 30 năm trước, người tu Bắc tông ăn 
                    chay nên thường có sự phân biệt và chê trách những nguời tu 
                    ăn mặn. Nhưng khi sang Thái Lan, tôi thấy Phật giáo Thái Lan 
                    rất kỵ việc chư Tăng ăn chiều. Như vậy đã có cái nhìn khác 
                    biệt trong Phật giáo chúng ta.  
                  
                  
                    
                    
                                May mắn trong giới Phật giáo chúng ta có Hòa 
                    thượng Minh Châu xuất thân từ Phật giáo Bắc tông, nhưng ngài 
                    đã khoác áo Nam tông để tạo mối thân thiện gần gũi với các 
                    Hòa thượng Thái Lan. Họ thấy ngài giống họ ở chiếc y và 
                    giống ở tư duy về Phật pháp, vì ngài cũng dịch kinh Pàli. Từ 
                    đó, Hòa thượng trở thành gạch nối giữa Phật giáo Việt Nam và 
                    Phật giáo Thái Lan. Xa hơn nữa, có thể nói qua trí tuệ của 
                    Hòa thượng mà Phật giáo Thái Lan đánh giá Phật giáo Việt Nam 
                    một cách đúng đắn hơn, không phải nhà sư chỉ biết đi cúng 
                    đám, điển hình là Hòa thượng đã thể hiện rõ nét tư cách của 
                    một nhà học thuật đã đóng góp những công trình nghiên cứu 
                    Phật pháp có giá trị. Vì vậy, Viện  Đại học Phật giáo Hoàng 
                    gia Thái Lan Mahachulalongkorn đã trao bằng Tiến sĩ Danh dự 
                    cho Hòa thượng về công trình phiên dịch kinh tạng Pàli ra 
                    tiếng Việt. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì Đại 
                    học Phật giáo Hoàng gia Thái Lan công nhận Hòa thượng là học 
                    giả cống hiến rất nhiều cho nền văn học Pàli và đặc biệt Hòa 
                    thượng là nhà sư ngang tầm với các nhà sư cao đức của Thái 
                    Lan. Điều đó cũng có nghĩa là họ gián tiếp công nhận Phật 
                    giáo Việt Nam, giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Thái Lan 
                    đã có điểm chung.  
                  
                  
                    
                    
                                Từ đó mới dẫn đến sự kiện Phật giáo Việt Nam tổ 
                    chức Lễ Vesak  quốc tế năm nay. Lần này Đại lễ Vesak ở nước 
                    ta có một sự khởi sắc quan trọng, được nhiều quốc gia tham 
                    dự hơn (hơn 75 nước) với sự hiện diện của nhiều người tu các 
                    pháp môn khác nhau. Đặc biệt là trong cuộc gặp mặt lần này, 
                    tất cả hành giả nhìn nhau trong sự cảm thông sâu sắc, thể 
                    hiện tinh thần phân thân Phật trong kinh Pháp Hoa. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Thật vậy, trong các Lễ Vesak trước ở Thái Lan, 
                    thành thật mà nói những người tham dự còn cảm thấy bỡ ngỡ; 
                    nhưng trong Đại lễ Phật đản quốc tế tại thủ đô Hà Nội, các 
                    đại biểu gặp gỡ nhau trong tình thân thiện hơn và chấp nhận 
                    nhau thật nhẹ nhàng. Đặc biệt là Phật giáo Thái Lan đã có 
                    cái nhìn thoáng hơn, chấp nhận màu áo của Phật giáo Bắc tông, 
                    chấp nhận các pháp môn tu khác.  
                  
                  
                    
                    
                                Điều này nói lên sự thật rằng nếu chúng ta tập 
                    họp lại theo tinh thần Phật dạy để cùng nhau chia sẻ những 
                    kinh nghiệm hành đạo, những kiến thức Phật pháp là chúng ta 
                    đã thực hiện đúng Chánh pháp. Còn tập hợp mà nghi ngờ, không 
                    chấp nhận nhau là không đúng ý nghĩa của đạo Phật. 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Tinh thần hòa hợp của đạo Phật rất quan trọng. 
                    Phật giáo Việt Nam tồn tại và song hành cùng dân tộc trong 
                    suốt chiều dài lịch sử của đất nước chính là nhờ cái nhìn 
                    phóng khoáng, mới ứng dụng được sự hòa hợp nhuần nhuyễn với 
                    sinh hoạt tín ngưỡng nhân gian. Thật vậy, Phật giáo Việt Nam 
                    phát triển mạnh nhờ biết phát huy hình ảnh ban vui cứu khổ 
                    của Bồ tát Quan âm, một vị Bồ tát vô cùng cần thiết cho nhân 
                    dân Việt Nam luôn phải đối đầu với muôn vàn hiểm nguy của 
                    giặc ngoại xâm. Đó là một vị Bồ tát mang hình thức cư sĩ mà 
                    Phật giáo Nam truyền không thể chấp nhận. Ngoài ra, tư tưởng 
                    giải thoát theo Phật giáo Nam truyền  là sống cách ly cuộc 
                    đời chắc chắn khó tồn tại trong nhân dân Việt Nam mang nặng 
                    lòng yêu nước. Bất cứ người nào được kính trọng trong xã hội 
                    Việt Nam cũng phải có những đóng góp nhất định cho sự tồn 
                    tại của đất nước và dân tộc. Vì vậy từ thời kỳ dựug nước, 
                    giữ nước, giới Phật giáo đã có sự dấn thân, sự đóng góp 
                    không nhỏ cho xã hội tồn tại và phát triển, cho nên Phật 
                    giáo Việt Nam mới có được vị trí tốt đẹp ngày nay, không 
                    phải một sớm một chiều tự nhiên được vinh danh. Phong tục, 
                    tập quán của nhân dân Việt Nam như thế, nhu cầu của nhân dân 
                    Việt Nam như thế, tất yếu Phật giáo Việt Nam phải như thế. 
                    Kinh Pháp Hoa dạy rằng muốn truyền bá Chánh pháp, chúng ta 
                    phải quán sát nhân duyên, tùy duyên mà làm đạo, xem mọi 
                    người nghĩ gì, muốn gì, cần gì, làm được gì chúng ta giúp đỡ. 
                    Nói theo kinh điển là khai ra tất cả pháp môn phương tiện để 
                    thích ứng với hoàn cảnh của quần chúng, đáp ứng được yêu cầu 
                    của nhiều người, Phật giáo mới tồn tại và phát triển. Tinh 
                    thần này được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng thế gian tướng 
                    thường trụ, nhà truyền giáo bằng mọi phương cách gieo Phật 
                    pháp vào lòng người, giúp họ ứng dụng được trong cuộc sống, 
                    không phải chỉ nói suông. 
                  
                  
                    
                    
                                Thể hiện tinh thần hòa hợp sâu sắc Lễ Phật đản 
                    quốc tế năm nay đã tập hợp được tất cả các giới Phật giáo tu 
                    các pháp môn khác nhau ở các quốc gia khác nhau, cùng cảm 
                    thông, cùng học hỏi, chia sẻ hiểu biết và kinh nghiệm hành 
                    đạo cho nhau. Đó chính là ý nghĩa của sự hòa hợp, của sự tập 
                    trung phân thân Phật theo kinh Pháp Hoa.  
                  
                  
                    
                    
                                Tôi mong tất cả quý vị luôn hòa hợp trong ánh 
                    sáng từ bi, trí tuệ của Đức Phật, để xây dựng Phật giáo tỉnh 
                    nhà ngày càng vững mạnh, cùng hòa hợp trong ngôi nhà chung, 
                    Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Có như vậy, Phật giáo chúng ta 
                    mới phát triển và hội nhập trong cộng đồng nhân loại ở thế 
                    kỷ 21.    
                  
                  
                    
                    
                                (Viếng thăm và nói chuyện tại trường hạ chùa 
                    Từ Đàm, Huế và trường hạ chùa Phổ Đà, thành phố Đà Nẵng, 
                    ngày 6 và 7-8-2008) 
                  
                  
                    
                    
                                Nguồn: Báo Giác Ngộ số 445 
                    
                  
                  
                    
                    
                                Người gửi bài: Tịnh Tú (phatphap.wordpress.com & 
                    phatphapnhiemmau.com) 
                      
                  
                  
                    
                    
                                08-14-2008 14:23:46