Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
TÂM LÀ GÌ?
His Holiness the Dalai Lama
Tuệ Uyển chuyển ngữ
---o0o---
            Lập trường chính yếu của đạo Phật chính là sự tương duyên khởi thỉ hay tính duyên khởi. Lời tuyên bố này là tất cả những hiện tượng cả chủ thể kinh nghiệm và đối tượng bên ngoài, cùng tồn tại tuỳ thuộc trên những nguyên nhân và điều kiện, không có điều gì tồn tại mà không có nguyên nhân. Đưa ra nguyên tắc này, nó trở nên điều cốt yếu để hiểu điều gì là nguyên nhân và có những loại nguyên nhân nào.
            Theo sự giải nghĩa của đạo Phật, có hai loại nguyên nhân chính được đề cập đến:
            1- Những nguyên nhân ngoại tại: hình sắc vật lý và những hiện tượng, và 
            2- Những nguyên nhân nội tại: như nhận thức, hiểu biết, và những hiện tượng tâm linh, tinh thần.
            Lý do cho một sự hiểu biết nguyên nhân trở nên rât quan trọng trong tư tưởng và thực hành của đạo Phật vì -rằng nó liên hệ một cách trực tiếp  đến những cảm giác khổ đau và hạnh phúc của tất cả chúng sinh và những kinh nghiệm khác -rằng nó vượt trội hơn, chiếm ưu thế trong đời sống của chúng sinh, điều mà vươn lên không chỉ từ trong cơ chế nội tại nhưng cũng từ những nguyên nhân và điều kiện ngoại tại. Vì vậy điều quan yếu để thấu hiểu không chỉ từ những hoạt động của những nguyên nhân tâm linh và nhận thức nội tại mà còn là sự liên hệ của chúng với thế giới vật chất ngoại tại.
            Sự kiện là những kinh nghiệm nội tại của hạnh phúc và khổ đau là trong tự nhiên của những trạng thái của chủ thể tâm linh và nhận thức thì rất rõ ràng đối với chúng ta. Nhưng làm thế nào những hiện tượng chủ thể nội tại liên hệ đến những sự kiện ngoại tại và thế giới vật chất để tạo ra những vấn đề nguy hại.
            Câu hỏi của hoặc là có một hiện thực vật lý ngoại tại của nhận thức và tâm của chúng sinh đã từng được bàn đến bởi những nhà tư tưởng Phật giáo. Cố nhiên có những quan điểm khác nhau trên vấn đề này trong số những trường phái khác nhau của tư tưởng.
            Một trường phái (Duy thức) khẳng định, quả quyết rằng không có hiện thực ngoại tại, không có ngay cả những đối tượng ngoại tại, và rằng thế giới vật chất mà chúng ta nhận biết trong bản chất chỉ là một sự phản chiếu của tâm chúng ta. Từ nhiều quan điểm, kết luận này vượt trội hơn hẳn, là tột bực. Một cách triết lý, và cho vấn đề thuộc nhận thức này, nó dường như hợp lý hơn để duy trì một vị thế chấp nhận hiện thực không chỉ thế giới chủ thể của tâm mà còn của đối tượng ngoại tại của thế giới vật lý.
            Bây giờ, nếu chúng ta trắc nghiệm khởi nguyên của những kinh nghiệm nội tại và của những vấn đề ngoại tại, chúng ta thấy rằng có một sự đồng thể cơ bản tự nhiên của sự tồn tại của chúng trong điều mà cả hai cùng bị chi phối ảnh hưởng bởi nguyên nhân chính yếu. Đúng như trong thế giới tâm linh nội tại và những sự kiện tri thức, mỗi giây phút của kinh nghiệm đến từ sự có trước liên tục của nó và tiệm tiến cho đến vô tận. Cũng như thế, trong thế giới vật lý mỗi đối tượng và sự kiện phải có một sự liên tục trước đáp ứng như nguyên nhân của nó, từ điều là sự hiện diện của giây phút hiện tại của vấn đề ngoại tại tiến đến sự tồn tại, hiện hữu.
            Trong một vài tài liệu Phật giáo, chúng ta tìm thấy phát sinh của sự  tiếp diễn liên tục của nó, thế giới vĩ mô của thực tại  vật lý của chúng ta cuối cùng có thể ngược dòng đến trạng thái trong điều mà tất cả chất điểm vật chất được súc tích trong điều mà chúng ta được biết như "hạt không gian" hay vi trần. Nếu tất cả những vấn đề vật lý của thế giới vũ trụ vĩ mô của chúng ta có thể truy tìm đến một trạng thái nguyên thỉ như thế, rồi thì câu hỏi được nêu lên là làm thế nào để những hạt bụi vi trần này phối hợp với nhau về sau và tiến triển thành thế giới vĩ mô điều mà có thể trực tiếp sản sinh ra trên những chúng sinh những kinh nghiệm nội tại của hạnh phúc hay khổ đau.
            Để trả lời cho điều này, giáo nghĩa đạo Phật đã hướng đến lý thuyết về nghiệp báo, những hoạt động vô hình của tạo tác và hiệu quả, điều này cung cấp một sự giải thích, làm thế nào những hạt vi trần vô tri giác tạo nên những biểu hiện khác nhau.
            Những hoạt động vô hình của nghiệp nhân, hay nghiệp lực (karma: nghiệp:  nghĩa là hành động: action), liên kết với động cơ của tâm thức con người và chính điều ấy cho phép khởi lên những hành động ấy. Vì vậy một sự hiểu biết về tâm thức tự nhiên của con người và vai trò của nó là chủ yếu đối với sự thấu hiểu về kinh nghiệm và sự liên hệ giữa tâm và vật, giữa tâm thức và sự kiện.
            Chúng ta có thể thấy từ kinh nghiệm của chính chúng ta là trạng thái tâm thức chúng ta thể hiện một vai trò phần lớn trong kinh nghiệm hằng ngày và trong  trạng thái vật lý hay tâm lý tốt đẹp của chúng ta. Nếu một người có một tâm tĩnh lặng và vững vàng, điều này ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm của người ấy với quan hệ cùng những người khác. Nói một cách khác, nếu ai đấy duy trì một trạng thái tâm thức tĩnh lặng, thanh thản, và hoà bình, hoàn cảnh chung quanh hay điều kiện bên ngoài có thể chỉ làm quấy nhiễu một cách hạn chế. Nhưng điều này cực kỳ khó khăn cho những người mà trạng thái tâm thức tháo động, bồn chồn, áy náy, không yên để được an tĩnh và vui vẻ ngay cả chung quanh họ là những điều kiện thuận tiện nhất hay là những bằng hữu thân thiết nhất. Điều này chỉ cho thấy rằng quan điểm của tâm thức chúng ta là nhân tố chủ yếu trong sự quyết định kinh nghiệm hoan hỉ và hạnh phúc, và vì vậy cũng là sức khỏe tốt.
            Để tổng kết, có hai nguyên nhân tại sao là quan trọng để hiểu tính tự nhiên của tâm.
            1- Bởi vì có một sự liên hệ mật thiết giứa tâm thức và nghiệp quả.
            2- Trạng thái của tâm đóng một vai trò chủ yếu trong kinh nghiệm của chúng ta về khổ đau và hạnh phúc.
            Nếu hiểu tâm thì rất quan trọng,, rồi thì cái gì là tâm, và cái gì là tính tự nhiên của tâm?
            Tài liệu của đạo Phật, cả hiển giáo và mật tông, chứa đựng những luận giải rộng rãi về tâm và tính tự nhiên của nó. Đặc biệt trong mật tông tantra, luận giải về những cấp độ khác nhau về sự  vi tế của tâm và  thức (tâm thức, nhận thức, ý thức) . Kinh điển hiển giáo không nói nhiều về sự liên hệ giữa trạng thái khác nhau của tâm và trạng thái sinh lý tương ứng của chúng. Tài liệu của tantra, về phương diện khác, là đầy đủ với sự chỉ dẫn đến những sự tỉ mỉ khác nhau của những cấp độ của tâm thức và sự liên hệ như thế với những tình trạng sinh lý như những trung tâm năng lực sinh động của cơ thể, những kinh mạch năng lượng, nơi những năng lượng lưu chuyển trong ấy,...Mật điển tanra cũng giải thích, làm thế nào, bằng cách vận động những nhân tố sinh lý thông qua những thiền tập yoga đặc hữu, một người có thể tác động ảnh hưởng trên trạng thái của tâm thức. 
            Theo mật điển tantra, cơ bản tự nhiên của tâm là tinh khiết một cách căn bản. Tính tự nhiên nguyên sơ này được gọi một cách kỷ thuật là "ánh sáng trong suốt", là tịnh quang (clear light). Những cảm xúc phiền não khác nhau như khát ái, thù ghét và ghanh tị là những sản phẩm của điều kiện (khách trần phiền não). Chúng không là phẩm chất nội tại của tâm bởi vì tâm có thể tẩy sạch được chúng (bởi vì chúng là khách trần phiền não). Khi tịnh quang tự nhiên này của tâm bị hạn chế hay bị che phủ sự biểu hiện bản chất chân thật của nó bởi những điều kiện của những cảm xúc  và tư tưởng phiền não, người ta được nói là bị vướng mắc trong sự hiện hữu của vòng luân hồi. Nhưng khi, do sự áp dụng và thực tập những kỷ năng thiền tập thích hợp, cá nhân có thể hoàn toàn kinh nghiệm tự tại tịnh quang tự nhiên của tâm từ những ảnh hưởng và điều kiện của những trạng thái phiền não, người ấy đang tiến trên con đường của sự giải thoát chân thật và hoàn toàn giác ngộ.
            Vì thế, từ quan điểm của đạo Phật, cả ràng buộc và tự tại chân thật tuỳ thuộc vào những trạng thái khác nhau của tâm tịnh quang này, và trạng thái kết quả mà thiền giả cố gắng để thâm nhập qua áp dụng những kỷ năng thiền tập khác nhau là một trong những điều mà tính cơ bản tự nhiên của tâm hoàn toàn chứng tỏ tất cả những khã năng giác ngộ khẳng định của nó, hay Phật tính, Phật quả. Một sự thông hiểu tâm tịnh quang vì vậy trở nên cốt yếu trong phạm vi của nổ lực tâm linh.
            Thông thường, tâm có thể được định nghĩa như một thực thể, một sự tồn tại có tính tự nhiên đơn thuần kinh nghiệm, nó là, "sáng sủa và thông hiểu", tịnh quang và tuệ giác. Nó là sự thông hiểu tự nhiên, tuệ giác bản nhiên, hay năng lực, nó được gọi là tâm và điều này không là vật chất. Nhưng trong phạm trù của tâm cũng có tất cả những cấp độ, như những tri giác cảm xúc, những thứ không thể hoạt động hay vươn lên hiện hữu ngoài sự tuỳ thuộc trên những bộ phận sinh vật lý như các cơ quan cảm xúc của chúng ta (mắt, tai, mũi,...). Và trong phạm trù của sáu thức, tâm thức, có nhiều sự phân chia khác nhau, hay những loại tâm thức hết sức lệ thuộc trên căn cứ sinh vật lý, bộ não của chúng ta, cho sự khởi lên của chúng. Những loại tâm thức này không thể được thấu hiểu trong sự cô lập hay tách rời với những cơ quan sinh vật lý.
            Bây giờ một câu hỏi căn bản được nêu lên: Làm thế nào mà những loại khác nhau của sự kiện nhận thức - tri giác cảm xúc, trạng thái tâm lý, v.v...- có thể tồn tại và chiếm hữu sự hiểu biết tự nhiên này, quang minh - trong sáng ?  Theo khoa học Phật giáo về tâm, những sự kiện nhận thức này chiếm hữu  sự hiểu biết tự nhiên, tuệ giác bản nhiên bởi vì tự nhiên cơ bản của quang minh ở dưới (nền tảng) tât cả những sự kiện nhận thức. Đây là điều mà chúng tôi diễn tả sớm hơn như cơ bản tự nhiên của tâm, quang minh tự nhiên của tâm, hay tuệ giác bản nhiên.
            Vì vậy, khi những trạng thái khác nhau của tâm được diễn tả trong kinh luận Phật giáo, chúng ta sẽ tìm thấy những luận giải về những loại khác nhau của những điều kiện đã khiến khởi lên những sự kiện nhận thức.Thí dụ, trong trường hợp của những tri giác cảm xúc,  đối tượng bên ngoài hoạt động như những điều kiện hay nguyên nhân khách quan, khoảnh khắc ngay trước của ý thức là điều kiện trực tiếp; và cơ quan cảm giác là điều kiện sinh vật lý hay điều kiện vượt trội hơn. Nó dựa trên căn bản của tập họp ba điều: điều kiện nguyên nhân, điều kiện trực tiếp (duyên), và điều kiện sinh lý - mà những kinh nghiệm như những tri giác cảm xúc xãy ra.
            Một nét đặc trưng khác nữa của tâm là nó có khã năng quán sát chính nó. Vấn đề khã năng của tâm quán sát và thể nghiệm chính nó đã là một câu hỏi triết học từ lâu. Thông thường, có nhiều cách khác nhau trong điều mà tâm có thể quán sát chính nó. Thí dụ, trong trường hợp trắc nghiệm những kinh nghiệm quá khứ, như những việc xãy ra hôm qua chúng ta có thể gợi lại kinh nghiệm ấy và trắc nghiệm nó, vì vậy vấn đề rắc rối không khởi lên. Nhưng chúng ta cũng có những kinh nghiệm trong lúc - điều mà tâm quán sát trở nên tỉnh giác tự chính nó trong khi vẫn bận rộn trong sự quán sát kinh nghiệm của nó. 
            Ở đây, bởi vì cả tâm quán sát và tình trạng trí óc quán sát hiện diện cùng một lúc, chúng ta không thể giải thích hiện tượng tâm vừa tự tỉnh giác, vừa là chủ thể và vừa là đối tượng xãy ra đồng thời, thông qua viện dẫn đến nhân tố của khoảng cách thời gian.
            Vì vậy thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về tâm, chúng ta đang nói về một mạng lưới cao cấp phức tạp của những sự kiện và trạng thái tinh thần khác nhau. Thông qua những đặc tính nội quán, tự trắc nghiệm của tâm chúng ta có thể quán chiếu, thí dụ, những tư tưởng đặc hữu nào trong tâm chúng tại một thời điểm được định, những đối tượng nào tâm chúng ta đang nắm giữ, những loại khái niệm nào chúng ta có, v.v.và v.v...Trong trạng thái thiền định, thí dụ, khi chúng ta đang thiền tập và phát triển nhất tâm, chúng ta liên tục áp dụng khã năng nội quán tự trắc nghiệm để phân tích tinh thần (tâm thức) chú ý của chúng ta là có tập trung nhất tâm trên đối tượng hay không, hay có bất cứ một sự uể oải, giải đãi nào xâm chiếm, hoặc chúng ta có bị tán loạn hay không,v.v và v.v...Trong trường hợp này chúng ta đang áp dụng những nhân tố tâm thức khác nhau và nó không như là một tâm đang được trắc nghiệm chính nó. Đúng hơn là, chúng ta đang áp dụng nhiều nhân tố tinh thần (tâm thức) để trắc nghiệm tâm chúng ta.
            Như một câu hỏi là có một trạng thái tinh thần (tâm thức) duy nhất có thể quán chiếu và trắc nghiệm chính nó hay không, điều này đã là một câu hỏi hết sức quan trọng và khó khăn trong Phật học về tâm. Một vài nhà tư tưởng Phật giáo từng xác nhận rằng có một khã năng của tâm gọi là "tự ý thức" hay "tự tỉnh thức". Nó có thể được nói rằng đây là một khã năng nhận thức đầy đủ (tổng giác) của tâm, một tâm có thể quán sát chính nó. Nhưng nội dung này vẫn là điều đã và đang được bàn cãi.  Đấy là những ai xác nhận rằng có một sự tồn tại khã năng tổng giác phân biệt hai khía cạnh trong tinh thần hay nhận thức, sự kiện; một là ngoại tại và đối tượng trong cảm giác rằng có sự phân hai của chủ thể và đối tượng, trong khi điều kia là nội quán tự nhiên và nó là điều cho phép tâm tự quán chiếu chính nó. Sự hiện hữu của khã năng tự nhận thức tổng giác của tâm đã và đang được bàn cải, đặc biệt trong trường phái tư tưởng triết học Phật giáo Prasanghika * (*Prasanghika: Một nhánh của trường phái Madhyamika, do nhà hiền triết Phật giáo Buddhapajita -môn đồ của Ngài Long Thọ - sáng lập -/- Tuệ Uyển).
            Trong những kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta có thể quán chiếu điều ấy, đặc biệt trên cấp độ tổng quát, tâm chúng ta tương quan với và tuỳ thuộc trên tình trạng sinh vật lý của cơ thể. Đúng như trạng thái của tâm chúng ta, phiền muộn hay hân hoan, ảnh hưởng đến sức khoẻ vật lý, và tình trạng vật lý cũng rất ảnh hưởng đến tâm chúng ta.
            Như chúng tôi đã lưu ý trước đấy, Mật điển Phật giáo tantric lưu tâm đến những trung tâm năng lượng đặc biệt trong cơ thể mà  chúng tôi nghĩ rằng, chúng có thể có một vài nối kết với điều mà một vài chuyên gia sinh học thần kinh gọi là bộ não thứ hai, hệ thống miễn nhiễm và đề kháng bền bĩ. Những trung tâm năng lượng này đóng một vai trò quan yếu trong sự gia tăng hay giảm thiểu những trạng thái khác nhau của cảm xúc trong tâm chúng ta. Nó là bởi vì trong sự quan hệ mật thiết giữa tâm và thân thể, và sự tồn tại của trung tâm sinh vật lý đặc hữu trong cơ thể chúng ta mà những luyện tập yoga vật lý và sự thực tập những kỷ năng thiền định đặc biệt xoáy vào sự luyện tâm có thể có những tác động trên sức khoẻ. Nó đã cho thấy rằng, thí dụ, bằng vào việc áp dụng những kỷ năng thiền tập thích hợp, chúng ta có thể kiểm soát, điều khiển hơi thở của chúng ta và làm tăng hay giảm nhiệt độ cơ thể của chúng ta.
            Xa hơn nữa, cũng đúng như thế khi chúng ta có thể áp dụng những kỷ năng thiền tập khác nhau trong thời gian của trạng thái tỉnh thức, trên căn bản sự thấu hiểu sự liên hệ tế nhị giữa tâm và thân thể, có thể chúng ta thực tập những thiền định khác nhau trong khi chúng ta  trong những trạng thái của giấc mộng. Sự liên hệ của những khã năng của những thực tập như thế là ở tại một trình độ nhất định nó có thể cách ly tất cả những cấp độ của nhận thức tâm lý với tất cả những trạng thái  vật lý và hướng đến tại một cấp độ tinh vi, tế nhị hơn của tâm và thân thể. Trong một ngôn ngữ khác, chúng ta có thể cách ly tâm chúng ta với cơ thể vật lý thô thiển. Chúng ta có thể, thí dụ, tách rời tâm  độc lập với thân thể chúng ta trong thời gian  ngũ và có thể làm thêm những việc mà chúng ta không thể làm trong thân  thể thông thường. Tuy vậy, chúng ta có thể không được đền trả cho những việc làm như thế.
            Vì vậy chúng ta có thể thấy ở đây dấu hiệu rõ rệt của một sự liên  kết gần gũi giữa thân thể và tâm: chúng có thể bổ sung cho nhau. Trong ánh sáng của vấn đề này, chúng tôi rất vui để thấy rằng một số khoa học gia  đã tiến hành những sự nghiên cứu đầy ý nghĩa, đáng chú ý trên tâm/thân/sự liên hệ và sự quan hệ mật thiết của chúng cho sự hiểu biết của chúng ta về tính tự nhiên của tinh thần và vật chất được tốt đẹp. Ban của chúng tôi là bác sĩ  Benson [Herbert Benson, MD, Associate Professor of Medicine, Harvard Medical School], trong vài năm nay đã và đang tiến hành những thí  nghiệm trên những thiền giả Tây tạng. Những thí nghiệm tương tự như thế cũng đang được tiến hành ở Czechoslovakia. Đánh giá cho những tìm tòi của chúng ta cho đến bây giờ, chúng tôi cảm thấy tin tưởng rằng vẫn có một khối lượng lớn việc sẽ được hoàn tất trong tương lai.
            Với sự thẩm thấu và sáng suốt mà chúng ta có được từ những nghiên cứu như thế, không nghi ngờ gì nữa là sự hiểu biết của chúng ta về tâm và cơ thể, và cũng là của sức khỏe tâm lý và vật lý, sẽ được giàu có một cách bao la hơn. Một số khoa học gia hiện đại diễn tả đạo Phật không như là một tôn giáo mà là một khoa học về tâm, và dường như có được một vài sở cứ cho lời tuyên bố này.
            http://lamayeshe.com/otherteachers/hhdl/mind.shtml
--o0o--