|     | 
  
           
  | 
              BỒ TÁT HẠNH 
             
                --o0o--
                   Ý Nghĩa
                   Vía Phật - 
                  Bồ Tát Trong Năm
                   ---o0o---
                   
                  
                  TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA
                   
                  
                  (Bodhidharma)
                   
                  Thích An Hải
                   
                  --o0o--
                 
                1. Tiểu sử
                Nếu tính từ Tổ Sư 
                Maha Ca Diếp đời thứ nhất truyền xuống Ấn Độ, Bồ Đề Đạt Ma là vị 
                tổ thứ 28, sang Trung Hoa, ngài là vị tổ thứ nhất Thiền Tông, 
                ngài xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XI, khoảng 1000 năm sau Phật 
                Niết bàn.
                Ngài là người của 
                nước Quốc Hương, thuộc Nam Thiên Trúc (De-Khan), Ấn Độ, con thứ 
                ba của vua Hương Chí dòng Sát Đế Lợi, thuở nhỏ ngài có ý chí 
                siêu việt và đặc tài hùng biện.
                Nhân khi vua Hương 
                Chí thỉnh tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La vào hoàng cung cúng dường. 
                Trong số phẩm vật có viên bảo châu, Tổ hỏi ba vị hoàng tử:
                -Trên đời này còn có 
                vật gì quí bằng hạt châu này chăng?-Vương tử Nguyệt Tịnh Đa La, 
                và con thứ của vua là Công Đức Đa La đều đồng ý cho rằng:  “Hạt 
                châu ấy quí giá cùng tột, không phải trong nhà vua thì khó có 
                được”. -Bồ Đề Đa La thưa: “Châu này của thế gian chưa đủ làm cao 
                hơn hết, nếu so vơí Pháp bảo, nó chỉ cứu nghèo đói, không cứu 
                được khổ sinh tử. Aùnh sáng trí tuệ hơn hẳn ánh sáng bảo châu, 
                vì có trí tuệ người ta mới nhận ra quí báu của châu. Trong các 
                thứ trong sạch chỉ có tâm trong sạch là hơn hết, như tâm tổ sư 
                trong sạch sáng tỏ báu kia liền hiện. Những ai có đạo đức thì 
                tâm cũng quí báu như thế.”
                Tổ Sư khen ngợi tài 
                biện luận của Bồ Đề Đa La và hỏi tiếp:
                -Trong các vật, vật 
                gì không tướng?
                -Trong các vật, chẳng 
                khởi là không tướng.
                -Trong các vật, vật 
                gì là tối cao?
                -Trong các vật, nhơn 
                ngã là tối cao
                -Trong các vật, vật 
                gì tối đại?
                -Trong các vật, pháp 
                tánh là tối đại.
                Tổ vui lòng biết đại 
                pháp sẽ có người xứng đáng nối dõi truyền bá lợi ích chúng sinh. 
                Một hôm vua Hương Chí hỏi tổ:-“Tôi thấy các thầy đều tụng kinh, 
                tại sao Tôn Giả không tụng?”-Tổ đáp:-“Tôi thở ra chẳng tiếp các 
                duyên, hít vào không ở trong ấm giới, thường tụng kinh này trăm 
                ngàn muôn ức quyển.”
                Vua Hương Chí băng hà 
                hoàng cung đều vang lên tiếng khóc, duy có Bồ Đề Đa La điềm 
                tỉnh, ngồi nhập định chỗ hoàn linh cửu cha suốt bảy ngày. An 
                táng nhà vua xong, Bồ Đề Đa La, xin phép mẹ và hai anh đi xuất 
                gia. Thấy cơ duyên thuần thục, Tổ Bát Nhã độ ngài cho làm đệ tử, 
                thỉnh chư tăng làm lễ thế phát và truyền giới cụ túc, tổ bảo:
                -Đối với các pháp con 
                đã được thông suốt, nên đổi hiệu là Bồ Đề Đạt Ma. Từ đấy ngài 
                được thân cận hầu hạ bên thầy.
                Bodhidharma :Bồ Đề là 
                đạo chính giác: Đạo thông suốt, giác là ngộ chân chính, giác ngộ 
                pháp tính. Đạt Ma là pháp, qui tắc, quỹ trì. Qui tắc là khuôn 
                mẫu, phép tắc; quỹ trì là duy trì tư tưởng, nắm giữ ý tứ. Bồ Đề 
                Đạt Ma, là nắm giữ phép tắc, ý tứ đạo giác ngộ của chư Phật.
                Một hôm Tổ Bát Nhã Đa 
                La gọi ngài đến truyền pháp yếu và phó chúc:
                - Chánh pháp nhãn 
                tạng của Đức Như Lai lần lược truyền trao, nay trao lại cho 
                ngươi khéo truyền bá đừng cho đoạn dứt, nghe ta nói kệ:
                Tâm địa sanh như 
                chủng,
                Nhơn sự phục sanh lý.
                Quả mãn Bồ Đề viên.
                Hoa khai thế giới 
                khởi.
                Dịch:
                Đất tâm sanh các 
                giống,
                Nhơn sự lại sanh lý.
                Quả đầy Bồ Đề tròn,
                Hoa nở thế giới sanh.
                Khi lãnh thụ bài kệ 
                nói pháp và y bát, ngài Bồ Đề Đạt Ma trở thành vị tổ thứ 28 
                Thiền Tông, một pháp tử chân truyền, Tổ Bát nhã dặn dò:
                -Con tạm giáo hóa ở 
                nước này, sau sang Trung Hoa, mới là duyên lớn. Song đợi ta diệt 
                độ 60 năm sau sẽ đi. Nếu đi sớm, có điều không tốt.
                Những việc kiết hung 
                về sự giáo hoá ở Trung Hoa, ngài cầu xin tổ chỉ dạy, Tổ dùng 
                những lời sấm ký tiên đoán, xong rồi hiện các thứ thần biến thị 
                tịch. Ngài và các đệ tử quyến thuộc làm lễ trà tỳ nhục thân sư 
                phụ, lượm xá lợi, xây tháp cúng dường.
                Vâng lời tổ dạy, ngài 
                ở tại nước nhà giáo hoá chúng sinh, vị huynh đệ với ngài là Phật 
                Đại Tiên cùng chung sức với việc hoằng pháp độ sinh. Người ta 
                nói: “Hai ngài là hai vị hoạt Phật mở cửa cam lồ tấm mát thế 
                gian nhiệt não!”
                Vua Nguyệt Tịnh băng, 
                con vua là thái tử Dị Kiến nối ngôi, không bao lâu sau vua lại 
                tin theo ngoại đạo bài bác Phật giáo. Ngài cho đệ tử là Ba La Đề 
                đến cung vua nhiếp hóa. Sau khi trở về phật giáo, vua Dị Kiến 
                mới biết Ba La Đề là đệ tử của chú mình. Nhà vua cho người thỉnh 
                ngài về hoàng cung giáo hóa một thời gian; thấy cơ duyên sang 
                Trung Hoa đã đến, ngài đem lời huyền ký của Tổ Bát nhã Đa La 
                thuật lại cho vua biết. Vua không thể can ngăn, đành sắm một 
                chiếc thuyền buôn cho thủy thủ đưa ngài vượt biển sang Trung 
                Hoa; vua và quần thần, đệ tử tiển đưa ngài đến cửa biển: ngài ở 
                trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng Châu, nhằm 
                đời Lương, niên hiệu phổ thông năm thứ nhất (520 sauTC),ngày 
                21/09 năm canh tý, quan Thứ Sử tỉnh này ra đón tiếp ngài, dâng 
                sớ về triều tâu lên Lương Vũ Đế, vua được sớ sai sứ lãnh chiếu 
                chỉ thỉnh ngài về Kim Lăng ( kinh đô nhà Lương) cúng dường, vua 
                Vũ Đế hỏi:
                -Trẩm từ lên ngôi đến 
                nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng rất nhiều, vậy có công đức gì 
                không? Sư đáp: “đều không có công đức, tại sao ? Bởi vì những 
                việc vua làm là nhân hữu lậu, chỉ có tiểu quả trong vòng Nhân - 
                thiên như ảnh tuỳ hình, tuy có phúc đức  nhưng không phải thật.” 
                Vua hỏi:
                -Thế nào là công đức 
                chân thật?-Sư đáp: Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, 
                như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc xây 
                chùa, chép kinh, độ tăng cầu được. - Vua hỏi
                -Thế nào là Thánh Đế 
                Đệ Nhất Nghĩa? - Sư đáp:
                -Một khi đã tỉnh rõ, 
                thông suốt rồi, không có chi gọi là Thánh 
                ( Quách Nhiên Vô 
                Thánh).
                -Ai đang đối diện với 
                trẩm đây?
                -Tôi không biết.
                Vua Võ Đế không lãnh 
                ngộ được, lòng không vui, lui về nghỉ, sư biết tâm vua không kết 
                hợp pháp mình, vì vậy đến ngày 19/10 năm ấy, sư qua Giang Bắc, 
                đến 23 tháng 11, sư sang Lạc Dương. Đến đời Hậu Ngụy, vua Hiếu 
                Minh, năm Thái Hòa thứ 10, sư lên Tung Sơn, vào chùa Thiếu Lâm, 
                ngồi ngó vách, trọn ngày làm thinh. Người đời không hiểu gì cả, 
                gọi sư là “Bích Quán Bà La Môn”, nghĩa là ông Bà La Môn ngó 
                vách.
                Về sau vua Lương Võ 
                Đế được Chí Công Hòa thượng, một cao tăng đắc đạo, cho biết Bồ 
                Đề Đạt Ma là Quán Âm Đại Sĩ truyền tâm ấn Phật, lời thầy nói là 
                chân lý, vua Vũ Đế cho sứ đến chùa Thiếu Lâm thỉnh cầu, thì Tổ 
                Sư Đạt Ma đã nhập thất. Mẫu đối thoại kỳ đặc trên được Đức Lục 
                Tổ quyết Nghi cho Vi Thứ Sử, Pháp Bửu Đàn Kinh, phẩm III như 
                sau: “....cất chùa, chép kinh, độ tăng bằng cách đãi chay làm 
                phước là phước đức, công đức phải thấy trong bản tánh mình. 
                Phước đức và công đức khác nhau”, rõ là vua Lương Vũ Đế không am 
                tường phật lý.
                Có vị tăng tên Thần 
                Quang, học thông các kinh sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh 
                ngài tìm đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà ngài vẫn ngồi 
                im lặng ngó vào vách. Quang nghĩ: “Người xưa xả thân cầu đạo, 
                nay ta chưa được một trong muôn phần của các ngài”. Hôm ấy nhằm 
                tiết mùa đông ( mùng 9 tháng chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, 
                Thần Quang vẫn đứng yên ngoài trời chấp tay hướng về ngài. Đến 
                sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối, gương mặt Thần Quang vẫn thản 
                nhiên. Ngài thương tình xoay ra hỏi:
                - Ông đứng suốt đêm 
                trong tuyết, ý muốn cầu việc gì ?
                Thần Quang thưa:
                - Cúi mong Hoà thượng 
                từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng sinh.
                - Diệu đạo của chư 
                Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, nhẫn 
                được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay, huống là dùng chút 
                công nhỏ này cầu làm sao được pháp chân thừa ?
                -  Thần Quang nghe sư 
                quở, tự lấy dao bén chặt đứt cánh tay trái, để tỏ lòng thành 
                khẩn cầu đạo, Tổ sư biết đây là pháp khí (một khí dụng tốt để 
                truyền bá chánh pháp) nên nói:
                - Chư Phật ban sơ 
                phát tâm cầu đạo dám bỏ thân, ông nay chặt tay trước mặt tôi, 
                vậy ông muốn cầu gì ?
                - Pháp ấn của Chư 
                Phật con có thể được nghe chăng?
                - Pháp ấn của Chư 
                Phật không thể từ người khác mà được.
                - Tâm con chưa an, 
                xin thầy dạy pháp an tâm.
                - Ngươi đem tâm ra 
                đây ta an cho.
                - Con tìm tâm không 
                thể được.
                - Ta đã an tâm cho 
                ngươi rồi.
                - Thần Quang nhơn đây 
                được giác ngộ, ngài đổi tên Thần Quang là Huệ Khả. Từ đây kẻ 
                tăng người tục đua nhau yết kiến ngài, tiếng tâm vang dậy. Vua 
                Hiếu Minh Đế nước Ngụy sai sứ ba phen cầu thỉnh, ngài đều từ 
                chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật cúng dường: Một 
                cây tích trượng, hai y kim tuyến, một bình bát,.....thấy vua có 
                lòng thành ngài phải nhận. Ngài mở cửa phương tiện nói pháp để 
                giáo hóa môn đồ, người người cảm mến qui y Tam Bảo.
                Chín năm trôi qua, kể 
                từ khi đến Trung Quốc, sư có ý muốn hồi hương, nên gọi các đệ tử 
                đến nói:
                - “Giờ ta ra đi sắp 
                tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình.
                Đạo phó ra bạch:
                -“Theo chỗ thấy của 
                con, muốn thấy đạo, phải chẳng chấp văn tự, cũng chẳng lìa văn 
                tự.
                Sư đáp:
                - Ông được lớp da của 
                tôi rồi.
                Tổng Trì Ni nói:
                - “Chỗ giải của con, 
                như Tổ A-Nan mừng vui thấy nước Phật A Súc Bất động được một 
                lần, sau không còn thấy lại nữa. - Sư nói: - Bà được phần thịt 
                của ta!
                Đạo Dục thưa:
                - Bốn đại vốn không, 
                năm uẩn chẳng phải thật có, chỗ của con không một pháp nào khá 
                được.
                Sư nói:
                - Ông được bộ xương 
                của tôi rồi !
                Sau cùng, tới phiên 
                Huệ Khả, Huệ Khả lễ bái sư rồi đứng im lặng ngay tại chỗ, không 
                bạch, nói gì cả. Sư bảo:
                - Ông được phần tuỷ 
                của tôi.
                Ngài gọi Huệ Khả đến 
                dặn dò:
                - Xưa Như Lai trao 
                “chánh pháp nhãn tạng” cho ngài Ca Diếp, từ đó Chánh pháp được 
                liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ông, ông khá nắm 
                giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một 
                việc ông nên khá biết.- Huệ Khả bạch:
                - Xin thầy từ bi chỉ 
                bảo mọi việc.
                Tổ bảo:
                - Trong truyền tâm  
                ấn để khế hợp chỗ tâm chứng, ngoài trao cà sa để định tông chỉ. 
                Đời sau có người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói: “Ta người Ấn, ông 
                là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy gì để minh 
                chứng?”Ông gìn giữ pháp y này đem ra làm biểu tín, thì sự giáo 
                hoá không bị trở ngại. Hai trăm năm sau ta diệt độ, y bát dừng 
                không truyền, vì lúc đó Phật pháp thạnh đấu tranh, người hiểu 
                đạo nói lý rất nhiều, người hành đạo và thông lý rất ít. Tuy 
                nhiên người thầm thông lặng chứng cũng có, vậy ông nên cố xiển 
                dương đạo pháp, đừng khinh người chưa ngộ. Hãy nghe ta nói kệ:
                Ngô bổn lai tư thổ
                Truyền pháp cứu mê 
                tình
                Nhất hoa khai ngũ 
                diệp
                Kết quả tự nhiên 
                thành
                Nghĩa:
                Ta sang đến cõi này
                Truyền pháp cứu mê 
                tình
                Một hoa nở năm cánh
                Nụ trái tự nhiên 
                thành
                Sư lại nói thêm: “Ta 
                có bộ kinh Lăng Già 4 cuốn, nay cũng giao luôn cho ông, đó là 
                đường vào tâm giới, giúp chúng sinh mở được kho tri kiến của 
                Phật. Ta từ Nam Ấn đến phương đông này, thấy Xích Huyện Thần 
                Châu (Trung Quốc), có đại thừa khí tượng, nên vượt qua nhiều 
                nơi, vì pháp tìm người. Nay được ông để truyền thọ y pháp, chí 
                ta đã toại ! Nói xong, sư cùng đệ tử đến chùa Thiên Thánh, lưu 
                lại ba hôm. Có người tên Thành Thái, tự Dương Huyễn Chi, sớm mộ 
                phương tu thành phật đến hỏi:
                - Nghe sư bên Tây 
                Thiên, thừa tiếp pháp Ấn làm tổ, vậy xin dạy cho con biết đường 
                đưa đến tổ vị như thế nào ?
                Sư đáp:- Sáng tỏ Phật 
                tâm, nói làm phù hợp đó gọi là tổ.
                - Ngoài ra còn gì 
                không ?
                - Nên sáng tâm người, 
                biết rành kim cổ, chẳng chán có không, đối đáp chẳng nắm, chẳng 
                hiền, chẳng ngu, không mê không ngộ; giải được như thế đáng xưng 
                là tổ.
                Thành Thái lại hỏi:- 
                Đệ tử thành tâm quy y Tam bảo đã mấy năm rồi, nhưng trí tuệ còn 
                mù mờ, chân lý chưa rõ. Cúi xin Sư từ bi khai mở đường tu cho 
                gần với Phật tổ. Ngài vì ông nói kệ:
                Diệc bất đổ ác nhi 
                sanh hiềm
                Diệc bất quán thiện 
                nhi cần thố
                Diệc bất xả trí nhi 
                cận ngu
                Diệc bất phao mê nhi 
                tựu ngộ
                Đạt đại đạo hề quá 
                lượng
                Thông phật tâm hề 
                xuất độ
                
                Bất dữ phàm thánh đồng triền
                Siêu nhiên danh chi 
                viết tổ.
                Dịch nghĩa:
                Cũng đừng thấy dữ mà 
                sanh chê
                Cũng đừng thấy lành 
                mà ái mộ
                Cũng đừng bỏ trí mà 
                gần ngu
                Cũng đừng vứt mê cầu 
                ngộ
                Được vậy thì:
                Đến đại đạo to vô 
                lượng
                Thông phật tâm muốn 
                cứu độ
                Chẳng cùng phàm thánh 
                sánh vai
                Vượt trên đối đãi gọi 
                đó là tổ
                Thành Thái, nghe kệ 
                nửa vui nửa xót bạch:
                - Xin Sư ở lâu  nơi 
                thế gian để hoá độ chúng hữu tình.
                Sư nói:- Ta sắp đi 
                đây, không thể ở lâu; người đời căn tánh muôn sai, ta đã gặp 
                nhiều hoạn nạn rồi.
                Thành Thái:
                - “Ai làm hại sư, xin 
                cho biết, đệ tử nguyện trừ.”
                Tổ nói:
                - Ta đã đem bí mật 
                của Phật ra truyền để lợi ích chúng sanh, nay hại người để mình 
                an, làm sao có lý ấy đặng ?
                - Sư chẳng nói thì 
                lấy gì tiêu biểu cho sức thông biết khắp cùng của sư ?
                Sư đọc một bài kệ sau 
                đây có tính cách như một bài sấm:
                Giang tra phân ngọc 
                lãng
                Quản cự khai kim toả
                Ngũ khẩu tương cộng 
                hành
                Cữu thập vô bỉ ngã
                Dịch:
                Thuyền lướt, chia 
                sóng ngọc
                Đuốc nêu, mở khóa 
                vàng
                Năm miệng ta cùng khứ
                Chín, mười hết ta, 
                chàng.
                Thành Thái không hiểu 
                gì cả, chỉ gắn ghi vào lòng rồi tạ từ lui gót.
                Bài sấm của sư đương 
                thời không ai độ được, nhưng về sau có phần ứng nghiệm. Dưới 
                thời nhà Ngụy kẻ anh tài chống lại Thiền môn rất nhiều, nào là 
                Quan Thống Luật Sư, Lưu Chi Tam Tạng ... thấy Sư lấy tâm làm 
                trọng, các vị đã cùng Sư luận nghị mấy phen nhiệt liệt, trong 
                khi ấy xa gần, sư đều cho nổi lên một trận huyền phong và đổ 
                xuống một trận mưa pháp, chan hòa ban rảii khắp nơi, sự thành 
                công vẻ vang này kích thích kẻ ác gia tâm làm thuốc độc hại sư.
                Trên thực tế, sư đã 
                bị thuốc 5 lần, đến lần thứ 6, thấy sứ mệnh hoằng hóa đã hoàn 
                thành, công việc truyền pháp cũng đã có người, sư không tự cứu 
                nữa, ngồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm 
                Bính Thìn, nhằm niên hiệu Đại Thông năm thứ 2, nhà Lương ( 529 
                TC), ( năm Thái Hòa thứ 19, đời Hiếu Minh Hậu Ngụy). Đến ngày 28 
                tháng chạp cùng năm, nhục thể của Sư được nhập tháp tại chùa 
                Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Đúng như lời sấm của sư, câu “Ngũ khẩu 
                tương cộng hành”, vì ghép chữ ngũ (五) 
                trên chữ khẩu (口), 
                thành chữ ngô (吾), 
                câu này có nghĩa là “Ta sẽ đi”. Còn câu chót “Cửu thập vô bĩ 
                ngã”. Sư nói trước ngày viên tịch: mồng 9 tháng 10.
                Ba năm sau, Tống Vân 
                qua nhà Ngụy, đi sứ Tây Vức về, gặp Sư Đạt Ma tại ngọn núi Thông 
                Lãnh, thấy Sư tay cầm một chiếc dép, một mình đi mau như bay, 
                Tống Vân hỏi:
                - Sư đi đâu đó ?
                Sư  đáp: -Ta về Tây 
                phương - Sư lại nói thêm
                - Chủ  của ông đã 
                chán đời rồi.
                Tống Vân sững sờ, từ 
                giã ngài về phục mạng thì ra vua Minh Đế đã băng hà, Hiếu Trang 
                Đế lên ngôi, ông đem việc ấy tâu lại, vua lệnh mở cửa tháp dở 
                nấp quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc 
                dép. Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu Lâm. Đến đời 
                Đường niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 15, nhằm năm Đinh Mão (728, 
                sau TC) môn đồ đòi chiếc dép về chùa Hoa Nghiêm, đến nay không 
                biết còn mất ở đâu.
                Vua phong ngài hiệu 
                Viên Giác Thiền Sư, pháp hiệu Không Quán.
                Theo truyền thuyết, 
                Ngài vượt sông Dương Tử trên một lá lau, tích này về sau trở 
                thành một chủ đề ưa thích  của hội họa thiền.
                Tác phẩm của ngài:
                - Đạt Ma Hoà Thượng 
                Tuyệt Quán luận
                - Nam Thiên Trúc, Bồ 
                Đề Đạt Ma Thiền Sư quán môn (Đại thừa pháp luận)
                - Thiếu thất lục môn 
                tập
                - Thích Bồ Đề Đạt Ma 
                vô tâm luận
                - Thiền Môn Nhiếp yếu
                -Thiếu Thất Dật 
                thư..vv..
                Từ điển Phật học Huệ 
                Quang:- “Theo sự khảo cứu các tư liệu đào được ở Đôn Hoàng, các 
                học giả cho rằng: Trong các tác phẩm để lưu truyền học thuyết 
                của Đạt Ma xưa nay hình như chỉ có Luận Nhị Nhập tứ hạnh là bộ 
                luận mang tư tưởng chân chính của Bồ Đề Đạt Ma”.
                2. Hình ảnh biểu 
                trưng
                Nói đến Bồ Đề Đạt Ma, 
                là người ta nghĩ ngay đến một vị Sư hình tướng dậm vỡ, mặc áo 
                tràng màu đen, quần nâu, trên vai quảy một chiếc gậy treo tòn 
                ten một chiếc dép, mặt mày nghiêm khắc, râu ria xồm xàm, đôi mắt 
                sáng quắc tinh anh, đứng trên một lá lau phiêu diêu trên sóng 
                gió. Hình tượng này được thờ kính trang nghiêm nơi hậu tổ phía 
                sau chính điện thờ Phật của đại đa số chùa chiền Việt Nam, Trung 
                Hoa, Nhật Bản..vv..biểu tượng ngài là một vị tổ sư quan trọng 
                trong các vị tổ được truyền y bát thay Phật hoằng hóa chúng 
                sinh.
                Sông biển là môi 
                trường sinh sống của các loài thủy tộc hiền và dữ, nơi có sóng 
                to gió lớn đe dọa mạng sống con người. Theo Kinh Đại Bát Nhã, 
                phẩm Thường Đề bồ Tát, “Sông biển cũng thường phát sanh châu 
                ngọc. Châu ngọc không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, chân tâm 
                thanh tịnh của Phật và chúng sanh cũng thế.” Cây bồ đề giác ngộ 
                phải bám sâu vào mãnh đất khổ đau mới đứng vững giữa cuộc đời  
                nhiều giông gió hứng chịu nắng mưa che bóng mát cho người. Ngài 
                đứng trên sóng gió oai nghi hùng dũng, điểm tựa là cành lau nhỏ 
                bé nói lên người giác ngộ giải thoát thân thể nhẹ nhàng, như hoa 
                sen tự tại trên ao hồ tỏa ngát hương thơm. Chiếc gậy tượng trưng 
                cho thiền pháp, gậy thiền. Một chiếc dép tượng trưng cho giáo lý 
                không hai, chúng sanh là Phật.
                Nhà họa sĩ, điêu khắc 
                kết hợp ý nghĩa biểu trưng, việc ngài mới đến Trung Hoa, vua 
                Lương Vũ Đế, một đại cư sĩ xây cất nhiều chùa, độ nhiều chúng 
                tăng, hiểu giáo nghĩa uyên bác, giảng pháp hay  đến chư Thiên 
                rắc hoa cúng dường, mà chưa thật chứng, nên bái thỉnh tổ sư giải 
                đáp câu hỏi:- “Thế nào là đệ nhất nghĩa thánh đế? -Sư đáp:- Một 
                khi đã tỉnh rõ thông suốt rồi, không có chi gọi là thánh”. 
                (Quách nhiên vô thánh). Vua Vũ Đế không lãnh hội được, lòng 
                không vui. Sau đó Tổ sư đứng trên một lá lau vượt sông Dương Tử 
                vào đất Ngụy lên núi Thiếu thất, ngồi nhìn vách chùa Thiếu Lâm 
                đến chín năm. Đoạn cuối đời sau khi ngài thị tịch khoảng ba năm, 
                sứ giả Tống Vân thấy sư ở núi Thông Lãnh tay cầm một chiếc dép 
                đi về hướng tây như bay. Biểu tượng ấy nói lên tư tưởng ngài 
                nhất quán, trước sau như một là: “Thiền tổ sư truyền ngoài giáo 
                điển, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
                3. Ý nghĩa hiện thực
                Ước mơ lớn nhất của 
                đời người là sống an tâm hạnh phúc. Qua sự giải đáp khai thị cho 
                sư Thần Quang Huệ Khả về yếu chỉ của Thiền Tông Tâm ấn, chúng ta 
                thấy rõ hiện thực tâm lý của Phật giáo đồ trưởng thành là an tâm 
                trong sinh tử. Lịch sử con người từ thuở hồng hoang đến nay văn 
                minh tiến bộ, có phải luôn luôn khủng hoảng trong hòa bình và 
                trong chiến tranh ! Chiến tranh thì sợ nghèo đói huỷ diệt sinh 
                mạng, của cải. Kẻ thắng kiêu hãnh, người bại hổ người. Hòa bình 
                thì tranh giành địa vị, khủng bố tâm lý cạnh tranh sang hèn vinh 
                nhục. Chung quy cũng vì sự tham muốn hưởng thụ quá đáng của một 
                số người ích kỷ. Tám điều khổ của Diệu Đế thứ nhất, phàm nhân 
                không ai tránh khỏi.
                Muốn hết khổ được an 
                tâm người ta thực hiện nhiều phương cách kinh tế, khoa học, văn 
                chương, triết học, tôn giáo, chính trị, quân sự.vv..nhưng được 
                gì?- khổ đau, hoảng loạn, bất an vẫn tồn tại trong cuộc sống. 
                Trong đạo Phật, các phương pháp tu hành của nhiều tông phái, 
                cuối cùng cũng đến an tâm trong sinh tử. Riêng ý của Tổ sư Bồ Đề 
                Đạt Ma là phải nhìn xuyên thấu tâm mình. Tâm chúng sinh có chơn 
                và vọng. Biết được chơn vọng thực tướng, thực tính vẫn là 
                “không”, siêu khỏi nhận thức này thì thành Phật. “ Chẳng cùng 
                phàm thánh sánh vai, vượt lên trên mới gọi là tổ”. Tổ hiểu biết  
                như Phật, an tâm hạnh phúc.
                4. Ý nghĩa tâm linh
                Ngài sinh ra đã có 
                túc nghiệp tốt. Phúc đức lớn được sinh vào cung vua làm Hoàng 
                Thái Tử, sống trên nhung lụa học hành chu đáo, được bái kiến Tổ 
                sư Bát Nhã Đa La, cúng dường nghe pháp buổi đầu tiên là trí tuệ 
                phát sáng. Tiến trình tư tưởng tâm linh ngài trong suốt nhạy bén 
                từ thuở còn niên thiếu khi bàn về giá trị bảo châu và trí tuệ:- 
                “Có trí tuệ người ta mới nhận ra bảo châu quý báu. Trong các thứ 
                trong sạch chỉ có tâm trong sạch là hơn hết. Như tâm Tổ sư trong 
                sạch sáng tỏ báu kia liền hiện”. Rồi ngài so sánh vật có tướng 
                và vô tướng:- “Tâm chẳng khởi là vô tướng”. Cuối cùng Bồ Đề Đa 
                La cũng giải được câu hỏi tối yếu của Tổ sư:- “Trong các vật 
                pháp tánh là tối đại”. Nghiên cứu qua đoạn tiểu sử này chúng tôi 
                có cảm nghĩ ngài đã ngộ đạo trước khi xuất gia được truyền tâm 
                ấn Phật !
                Ngài cũng là người 
                con chí hiếu. Khi phụ hoàng qua đời khác, ngài nhập định nâng đở 
                thần thức cha sinh vào cõi lành đến 7 ngày đêm, không mời thỉnh 
                chư tăng tụng kinh niệm Phật cầu siêu theo lẽ thường trong phật 
                giáo tín ngưỡng.
                Nhận thức rõ nỗi khổ 
                của chúng sanh và tâm an lạc xuất thế, ngài không lưu luyến ngai 
                vàng ngôi báu, quyết chí xuất gia tu học, xứng đáng được truyền 
                tổ vị, lãnh thọ Y bát làm chứng tín truyền pháp độ sanh.
                Tâm lý ngài được biểu 
                lộ siêu thoát khẳng định qua mẫu đối thoại với vua Lương Vũ Đế: 
                “Một khi đã tỉnh rõ, thông suốt rồi, không có chi gọi là thánh”. 
                Đối với Thần Quang, ngài không luận giải “tính không” mà chỉ 
                thẳng chân không diệu hữu là như thế: “Ngươi hãy đem tâm ra đây 
                ta an cho – Con tìm tâm không thể được – Ta đã an tâm cho ngươi 
                rồi”. Nét đặc sắc của Bồ Đề Đạt Ma qua sự khai thị giáo huấn là 
                như thế đó. Vì phân biệt, luận giải, chứng minh dễ làm người 
                nghe rơi vào thiên chấp, không thể lãnh hội làm sao sống với tâm 
                linh siêu việt như  Phật. Mà tâm linh này ai cũng có, sở dĩ 
                người ta cam phận làm chúng sinh vì không chịu học hỏi, khai 
                thác, sử dụng mà thôi.
                5. Tiểu sử đời Ngài 
                rất có ý nghĩa soi gương
                Đối với người muốn 
                tìm kiếm hạnh phúc siêu thế. Ngài đã tìm được hạnh phúc ấy và 
                sống như thực suốt cả cuộc đời trên nhân gian này.- Đã xuất thế 
                ly trần, ngài vẫn còn quan tâm đến người cháu là Dị Kiến, làm 
                vua không chánh kiến ảnh hưởng xấu đến quốc dân, nên tìm cách 
                giáo hoá. Tám mươi tuổi còn lên thuyền vượt biển sang Trung Hoa 
                tìm mảnh đất tốt cho hạt giống bồ đề nẩy nở. Nhờ công đức truyền 
                bá của ngài và những truyền nhân nối tiếp, ngày nay khắp nơi 
                trên thế giới ít nhiều gì cũng có người tu tập thiền pháp sống 
                an tâm hạnh phúc. Tâm từ bi trí tuệ của ngài biểu hiện rõ nét 
                khi nghe Thành Thái nguyện trừ kẻ làm hại sư -Sư nói: “ Ta đã 
                đem bí mật của Phật ra truyền để lợi ích chúng sinh, nay hại 
                người để mình an, làm sao có lý ấy đặng!”
                Trong số các tác phẩm 
                của ngài lưu thông xưa nay, được dịch ra nhiều thứ tiếng Anh, 
                Pháp, Việt, Nhật..vv..Phổ thông nhất là bản pháp luận Nhị Nhập 
                Tứ Hạnh, cũng gọi là Nhị Chủng Nhập, hai yếu tố chính nhập đạo 
                thiền, tổng quan được các pháp tu của Phật giáo như sau:
                - Lý nhập: 
                là mượn giáo để 
                ngộ vào Tông, tâm Tông. Tin sâu tất cả chúng sanh đều cùng một 
                chân tánh, vì khách trần bên ngoài, vọng tưởng bên trong che lấp 
                nên chân tánh không hiển lộ được. Nếu bỏ vọng về chân, tinh thần 
                ngưng trụ như vách đá, không phân biệt ta-người, thánh phàm một 
                bậc như nhau; cũng không lệ thuộc văn giáo, ngầm hợp với lý vô 
                vi vắng lặng hồn nhiên gọi lý nhập.
                - Hạnh nhập: 
                Cũng gọi Tứ hạnh 
                nhập: 1- Báo oán hạnh:- Người tu hành gặp khổ không buồn. 
                Dù hiện tại mình không có lỗi, lãnh quả khổ là do sai lầm nhiều 
                kiếp trước. Chấp nhận nương theo đó tu gọi là Hạnh trả oán. 
                2-Tuỳ duyên hạnh:- Chúng sanh do nghiệp chuyển thành, chẳng 
                có cái tôi tự chủ, nên gió vui chẳng động, lặng lẽ tùy thuận 
                hành đạo. Gọi Tùy duyên hạnh. 3- Vô sở cầu hạnh:- Mê đắm 
                tham trước gọi là cầu. Kinh nói: “Còn cầu còn khổ, hết cầu mới 
                được vui”.Bậc trí ngộ được lẽ chân, chuyển ngược thế tục, tâm an 
                trụ vô vi, thân hình tùy nghi vận chuyển, gọi hạnh Không cầu 
                mong. 4- Xứng pháp hạnh:- Lý thanh tịnh của tự tánh gọi 
                là pháp. Tin hiểu được lẽ ấy, mọi hình tướng hóa thành không; 
                hết nhiễm trước, hết chấp hai bên. Kinh nói: “Pháp không có 
                chúng sanh, hãy lìa chúng sanh cấu, pháp không có tướng ngã, hãy 
                lìa ngã cấu”. Bậc trí tin hiểu như thế tùy xứng theo pháp hành 
                động, gọi Xứng pháp hạnh.”
                Lý nhập liên quan đến 
                đốn ngộ, hạnh nhập là nội dung của tiệm tu. Tiệm tu đốn ngộ, đốn 
                ngộ tiệm tu bao gồm Yếu chỉ Thiền tông tâm pháp. Pháp thiền này 
                nhiều thành phần xã hội trong các quốc gia trên thế giới ai cũng 
                có thể tu được!- Có một số người biết ngài chín năm ngồi nhìn 
                vách đá (cữu niên diện bích), cho rằng oai nghi lẫm liệt ấy khó 
                tu theo là thiếu nghiên cứu, tư tưởng ngài rất thoáng tùy theo 
                căn cơ hướng dẫn chúng sanh tu tiến đến nơi an lạc nội tâm.
                6. Nhận xét
                Tôn giáo nào trên thế 
                giới cũng có giáo điều, tín ngưỡng, thần thoại. Đạo Phật cũng 
                thế, nhưng Tổ sư Đạt Ma, truyền nhân trứ danh của đức Phật, pháp 
                tu của ngài luôn được trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật soi sáng một thứ 
                nội lực kỳ đặc phá tan các chướng ngại tri kiến, phiền não; 
                khẳng định đạo Phật là một tôn giáo không tôn giáo. Kể từ khi 
                ngài xuất gia tu học, nhận lãnh y bát, truyền bá phật pháp đến 
                khi viên tịch, trí tuệ siêu nhân toả sáng qua phong cách hành sử 
                giản dị, uy đức tự tại.
                Nếu nói tín ngưỡng, 
                Phật giáo đồ tin tưởng ngưỡng mộ ngài là người tu hành nghiêm 
                túc, thẳng thắng, hiền thiện minh triết.- Thần thoại, việc ngài 
                qua sông trên một lá lau, bị đầu độc sáu lần không chết, sau khi 
                viên tịch thân xác vùi sâu trong lòng đất còn hiện thân tướng 
                quảy một chiếc dép nơi đầu gậy Thiền gác trên vai đi như bay 
                trên ngọn thông lãnh..vv..Đối với một tu sĩ Phật giáo có thâm độ 
                công phu phát triển thần thông không phải là chuyện lạ. Nhưng 
                các nhà viết truyện, làm phim thấy lạ tô vẽ gần như hoang tưởng- 
                Giáo điều, ngài không để lại một điều răn cứng ngắt nào ngoài 
                những bản pháp luận khuyến tu dạy tu. Nhưng truyền thống Phật 
                giáo tu Thiền hay tu pháp môn nào cũng có giới pháp. Thọ trì 
                giới pháp cũng do tự nguyện.
                Tuy khẩu hiệu của 
                Ngài như một lá cờ phất thẳng là: “Giáo ngoại biệt truyền, trực 
                chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Ngài không rơi vào cực đoan 
                thiên chấp, những thiền bản của ngài rất thích hợp với kinh điển 
                Phật giáo, nhất là kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật, Lăng Già Tâm Ấn 
                .v.v…
                Tóm lại, thân thế, sự 
                nghiệp, tư tưởng, phong cách của ngài rất xứng đáng cho người có 
                hoài bão lớn soi gương sống thiền an tâm hạnh phúc cho bản thân, 
                thân quyến và chúng sinh nhân loại hoàn thiện tư cách hiền 
                thiện, minh triết, an lạc.
                          Tham khảo 
                theo:
                - Pháp Bửu Đàn 
                Kinh  - HT Minh Trực. THPG. HCM. 1994
                - Sử 33 Vị Tổ Thiền 
                Tông Ấn Hoa - HT. Thanh Từ. Tu viện Chơn Không xb.1971
                - Sáu cửa vào Động 
                Thiếu Thất - Bản dịch Trúc Thiên. THPG. HCM.1997
                - Từ Điển Phật học 
                Huệ Quang tập I - NXB. TP Hồ Chí Minh. 2002
                - Từ Điển Phật Học 
                Hán Việt - NXB. Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1998
                - Từ Điển Minh Triết 
                Phương Đông - NXB. Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1997  (Bouddhisme - 
                Hindonissme - Taoisme - Zen. Robert lafont - Paris 1991)
                - Tiểu sử sơ tổ Bồ Đề 
                Đạt Ma  - Chánh Trí |  |