| 
           
      
  
           
  |               
             
               TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
            
            
            
              
            
              
                
                   
                  - 
                  Không Là 
                  Duyên Khởi
 
                  
                
                
                   
                  - Hồng Dương
 
                  
                
                
                   
                  - --o0o--
 
                  
                
                -  
 
                - Duyên khởi có 
                nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, 
                liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói 
                theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật 
                vô ngã, hết thảy đều không”.õ “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, 
                không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát 
                Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung 
                luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như 
                đồng nghĩa. Đó là điều D. T. Suzuki phản đối kịch liệt.
 
                - Trong Thiền 
                luận, Tập Hạ, Tuệ Sỹ dịch, ông nhận xét: “Khi các người theo đạo 
                Phật nhắc tới chuỗi duyên sinh (hetu-pratyaya hay 
                kàrana-samutpàda) để cắt nghĩa sự cấu tạo của một đội thuyền hay 
                chế tác một Phật tượng, và nói rằng không có thứ gì được tạo ra 
                mà không có các nhân và các duyên, và nói thêm nữa rằng chúng 
                không đến từ những phương hướng nhất định nào, ý tưởng này có 
                thể hình như nhắm tới sự đồng nhất của tương đối tính và tánh 
                Không.”
 
                - Ông cho rằng 
                các học giả sai lầm muốn đồng nhất thuyết tánh Không (Sùnyatà) 
                với thuyết tương đối tính: “Theo họ, tất cả vạn hữu đều không, 
                vì hiện hữu của chúng hoàn toàn bị chi phối bởi nguyên lý tương 
                đối tính, cũng giống như nói rằng tất cả vạn hữu được buộc vào 
                định luật nhân quả. Nếu triết lý đạo Phật tựa trên nhân duyên và 
                nghiệp báo, đấy chỉ cho tương đối tính; nếu tất cả vạn hữu là 
                như thực vì mạng lưới nhân quả bủa lên toàn bộ đẳng cấp của hiện 
                hữu, và nếu chúng mang bản sắc là tánh Không như thế, tánh Không 
                là tương đối tính. Nhưng sự đồng nhất tánh Không và tương đối 
                tính này khó mà chấp nhận được; cái gọi là đồng nhất chỉ là sự 
                hỗn hợp. Những học giả này không nắm trọn mục đích của Đại thừa, 
                họ vẫn giữ nguyên lập trường cố hữu của mình, tức lập trường đại 
                khái có sẵn trước khi thức tỉnh giác quan nội tại mà chúng ta đã 
                đề cập tới. …... Tương đối tính là một trong những khái niệm mà 
                chúng ta đã dệt thành lúc chiêm quan hiện hữu từ quan điểm hữu 
                và vô, ở đó mọi vật đều có đối thể của nó. Mỗi “A” đều kèm theo 
                cái “phi A” của nó. Từ vị trí này, người ta không thể bước vào 
                cảnh giới của tánh Không; phải rời hẳn vị trí đó. Bao lâu triết 
                gia còn níu chặt vào đây, tương đối tính của ông vẫn săn đuổi  
                ông từng bước. Ông không thể kéo vật nào ra khỏi nó; không bao 
                giờ nó tự biến hình để trở thành tánh Không, để đi vào thế giới 
                của tánh Không. Hiện hữu tự nó phải được sửa soạn để thực hiện 
                một bước nhảy. ... Cứ ở lại trên mặt lưỡng nguyên đó, rồi sẽ 
                không bao giờ có thể bắc cầu được giữa hố cách của tương đối 
                tính và tánh Không. Vạn hữu trong thế gian là tương đối, vì tự 
                tính của chúng vốn không, không có ngược lại.”
 
                - Theo ông, 
                thuyết duyên sinh (kàrana-samutpàda) chỉ có thể áp dụng cho thế 
                giới của lưỡng nguyên và của tụ tập. Chừng nào còn bị ràng buộc 
                vào một thế giới của những sai biệt, chúng ta thấy đâu cũng 
                duyên sinh và tương đối, bởi vì đấy là nơi chúng hoạt dụng. 
                “Nhưng vì không hề thỏa mãn với tình trạng này, chúng ta nhảy 
                vào sự sống hay sự chết qua vực thẳm không đáy khơi mở trước 
                mắt. Bước nhảy đặt vào cõi Không, và chúng ta nhận ra rằng cuối 
                cùng chính cái Không nằm dưới thế giới của những nhân và những 
                duyên đó.”
 
                - Quan điểm của 
                ông là do Không mà có tạo tác của nhân duyên. “Không đến trước 
                nhưng không phải trước trong thời gian vì thời gian giả định một 
                chuỗi duyên sinh; cái đêán trước có nghĩa là cái căn bản. Khi 
                người ta có thể nghĩ đến duyên sinh hay tương đối tính được là 
                vì chúng đã có sẵn trong Không.” Hay nói theo Bồ tát Long Thọ: 
                 “Dĩ hữu Không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành” (Trung luận, 
                XXIV.14; Do tánh Không mà tất cả được thành tựu và hợp lý).
 
                - Đặc biệt đáng 
                lưu ý là tuy nói thế nhưng suốt Trung luận không thấy Bồ tát 
                Long Thọ dùng tánh Không để thuyết giảng Duyên khởi, không thấy 
                bài tụng nào đề cập sự sinh khởi sự vật từ tánh Không của chúng. 
                Ngược lại hầu như Trung luận chỉ thường xuyên sử dụng Duyên khởi 
                để thuyết giảng tánh Không, chỉ đề cập tánh Không mọi khi nói 
                đến một sự vật do duyên sinh. Điển hình là bài tụng XXIV.19ï: 
                “Chưa từng thấy có bất cứ pháp nào không sanh từ nhân duyên, Thế 
                nên tất cả các pháp đều Không.”
 
                - Trong bài 
                tụng I.3, Ngài nói đến bốn loại duyên, duyên ở đây là “pháp làm 
                duyên” (duyên pháp) tức hiện tượng có thể trưng ra nhằm cắt 
                nghĩa điều kiện liên hệ đến sự sinh khởi của một hiện tượng khác 
                gọi là “pháp duyên khởi” hay “quả do duyên sinh”. Ngoài ra, sự 
                liên hệ giữa hai pháp, pháp làm duyên và pháp duyên khởi, cũng 
                được gọi là duyên và được đặt tên tùy thuộc đặc tính của duyên 
                pháp. 
 
                - Như vậy, vin 
                vào thuyết Duyên khởi ta suy ra một phép luận chứng giải thuyết 
                tánh Không của hiện tượng bằng cách phân tích những yếu tố tạo 
                điều kiện để hiện tượng xuất hiện. Tuy hiện tượng xuất hiện đồng 
                thời với sự hội đủ các duyên nhưng khi phân tích và lý luận thời 
                các duyên pháp xem như điều kiện có trước hiện tượng trên phương 
                diện thời gian, bản thể luận, và/hay luận lý. Chính kinh Bát nhã 
                dạy rằng các pháp hiện hữu tương quan liên hệ như là những kết 
                quả của những tập hợp duyên sinh và do đó chúng là Không. Nói 
                cách khác, vì tùy thuộc một số điều kiện tác thành tất yếu, một 
                khung ý niệm làm hệ quy chiếu nên sự vật thay đổi sắc tướng theo 
                với sự thay đổi điều kiện tác thành hay hệ quy chiếu. Bởi thế 
                mới nói sự vật là Không. Tạm gọi phép luận chứng y cứ một hệ quy 
                chiếu như vậy là phép luận chứng dị thời.
 
                - Thuyết tánh 
                Không cũng như thuyết Duyên khởi có thể dẫn khởi một phép luận 
                chứng khác nhưng cùng với phép luận chứng dị thời giải thuyết 
                chung một tánh là tánh vô tự tính hay tánh vô thực thể. Về tánh 
                Không, kinh Pháp Aán nói: “tự tánh của Không là không có vị trí 
                trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệm được, 
                chưa bao giờ từng sinh khởi, tri kiến không nắm bắt được, và 
                thoát ly mọi sự nắm bắt.” Vậy giải thuyết duyên khởi căn cứ trên 
                tánh Không có nghĩa là giải thuyết chúng bởi ngay tự tánh của 
                chúng. Tự tánh này “không nằm trên bình diện có không, không nằm 
                trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có 
                tướng diệt và vượt thoát mọi tri kiến.” (Kinh Pháp Aán) Do đó 
                luận chứng nương trên tánh Không để thuyết minh động lực của cấu 
                trúc các mối quan hệ nhân duyên tất nhiên độc lập với mọi khung 
                ý niệm hay mọi pháp làm duyên. Hãy gọi phép luận chứng không 
                nương vào bất cứ hệ quy chiếu nào là phép luận chứng đồng thời.
                
 
                - Hai danh từ 
                dị thời và đồng thời dùng ở đây chỉ vào hai lối luận chứng khác 
                nhau chứ không phải là những khái niệm về thời gian. Thay vì 
                dùng luận chứng dị thời để xiển dương tánh vô tự tính của vạn 
                vật, nghĩa là sử dụng Duyên khởi để giải thuyết tánh Không, Hoa 
                nghiêm tông sử dụng phép luận chứng đồng thời giải thuyết duyên 
                khởi nương vào nguyên lý hỗ tức hỗ nhập, do đó kết đồng hai 
                thuyết Duyên khởi và tánh Không. Điểm đặc biệt của cách thức Hoa 
                nghiêm giải thuyết duyên khởi là vin vào tánh Không mà tiếp cận 
                duyên khởi, do đó áp dụng luận chứng đồng thời để thuyên giải 
                một giáo pháp nguyên hướng về dị thời.
 
                - Thí dụ quan 
                hệ rui-nhà mà Pháp Tạng nêu ra trong Ngũ giáo chương là một thí 
                dụ nổi danh cho thấy sự khác biệt giữa hai lối luận chứng, dị 
                thời và đồng thời, trong phương cách giải thích Duyên khởi. Luận 
                chứng dị thời phân tích cái rui có trước cái nhà trên phương 
                diện thời gian, bản thể luận, và luận lý, nghĩa là, cái rui là 
                một trong những điều kiện tác thành sự sinh khởi cái nhà, do đó 
                mà có danh từ duyên khởi. Ngược lại, Hoa nghiêm chủ trương rui 
                và nhà đồng thời câu khởi, tương tức tương nhập. Nghĩa là, cái 
                rui là nhân của cái nhà đồng thời cái nhà là nhân của cái rui. 
                Trong quan hệ hỗ tức hỗ nhập, cái rui không có trước cái nhà, 
                cũng như cái nhà không có trước cái rui dù trên phương diện thời 
                gian, bản thể luận, hay luận lý. Nói cách khác, cái rui tùy 
                thuộc cái nhà chừng nào thời cái nhà tùy thuộc cái rui chừng ấy. 
                Không cái nào có trước cái nào. Rõ ràng đây là một luận chứng 
                đồng thời.
 
                - Lập trường 
                nói trên của Hoa nghiêm phù hợp với quan điểm của thuyết Tánh 
                Không (Sùyavàda) chủ trương đồng nhất đối cực y cứ một tầng mức 
                độ sâu hơn, siêu việt sự phân hai duyên khởi và tánh Không. 
                Nhưng thay vì nhấn mạnh duyên khởi ngay từ đầu là Không, Hoa 
                nghiêm nhấn mạnh ngược lại duyên khởi là dụng của Không, là biểu 
                tướng hữu vi của tánh Không.
 
                - Trong kinh 
                Duy ma cật sở thuyết (Tuệ Sỹ dịch và chú giải), có đoạn thuật 
                lại lời của Duy ma cật khuyên Ma ha Ca chiên diên nên từ bỏ luận 
                chứng dị thời và dùng luận chứng đồng thời để giải nghĩa pháp 
                thật tướng: “Thưa ngài Ma ha Ca chiên diên, đừng lấy tâm hành 
                sinh diệt mà giải nghĩa pháp thật tướng. Ma ha Ca chiên diên, 
                các pháp rốt ráo không sinh không diệt; đó là nghĩa vô thường. 
                Năm thủ uẩn rỗng suốt, trống không, không có gì sinh khởi; là 
                nghĩa của khổ. Các pháp rốt ráo không có gì; là nghĩa của Không. 
                Ngã và vô ngã không hai; là nghĩa vô ngã. Các pháp nguyên lai 
                không bùng cháy, nay chẳng có gì là dập tắt; đó là nghĩa tịch 
                diệt.”
 
                - Xét trên 
                phương diện luận chứng, điều Suzuki phản đối thực ra là luận 
                chứng dị thời chứ không phải công thức “Duyên khởi = Không” đồng 
                nhất trên phương diện đồng nghĩa với Vô tự tính. Như Suzuki nói 
                trong đoạn văn trích dẫn trên, Thiền quan niệm “do Không mà có 
                tạo tác của nhân duyên”, do đó Thiền có khuynh hướng thiên về 
                luận chứng đồng thời để phân tích tánh vô thực thể của thế giới 
                hiện tượng. Nhưng chớ tưởng lầm vì thế mà cho rằng Thiền không 
                lý đến Duyên khởi mà chỉ chấp nhận tánh Không mà thôi. Thí dụ 
                sau đây trích dẫn từ Lâm Tế ngữ lục (Lâm Tế ngữ lục. Trần Tuấn 
                Mẫn dịch và chú) là để biện minh rằng cái mà Thiền bác bỏ không 
                phải là Duyên khởi mà là lối luận chứng dị thời dẫn phát từ 
                Duyên khởi.
 
                - Tổ Lâm Tế nổi 
                tiếng trong Thiền giới bởi lối tiếp xử thẳng và bạo với môn 
                sinh. Thực ra vì Tổ thấy rõ những đường lối tu hành của số đông 
                vẫn còn phụ thuộc nặng nề lối luận chứng dị thời, giải thích mọi 
                hiện tượng trong vòng duyên khởi, sinh diệt. Tổ thiết tha trong 
                việc giáo hóa môn sinh theo phép tu đốn ngộ truyền từ Lục tổ Huệ 
                Năng nên nói mạnh để thức tỉnh họ ra khỏi cơn mê, chỉ biết phí 
                sức theo đuổi những mộng huyễn, tu loanh quanh trong vòng hữu 
                vi, học kinh, trì giới, và mặc tọa, chưa phải là con đường giải 
                thoát khỏi luân hồi mà đức Phật chỉ dạy.   (Trong kinh Kim Cang 
                đức Phật có nói bài kệ: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng, 
                huyễn, bào ảnh, Như lộ diệc như điển, Ưng tác như thị quán”)
                
 
                - Tổ dạy khi tu 
                hành phải có sự hiểu biết (kiến giải) chân chánh Phật pháp không 
                y cứ vào bất cứ khung ý niệm và điều kiện nào, nghĩa là bỏ mọi 
                chướng ngại về hình thức, về danh từ, khái niệm xuông: “Chỉ có 
                đạo nhân không y cứ (vô y đạo nhân) nghe pháp là mẹ của chư Phật 
                mà thôi. Cho nên Phật từ chỗ không y cứ mà sanh, nếu ngộ sự 
                không y cứ, thì Phật cũng không có sự đắc. Nếu thấy như vậy thì 
                gọi là kiến giải chân chánh.” Đạo nhân không y cứ là vị đạo nhân 
                tự tại, không tựa, không nắm chấp vào đâu cả. Ở đây có thể hiểu 
                là tự tánh.
 
                - Hãy đọc tiếp: 
                “Người học không hiểu bèn chấp vào danh cú, bị cái tên phàm 
                thánh kia ngăn ngại, cho nên mắt đạo bị ngăn che không được rõ 
                ràng. Còn như mười hai phần giáo điển là nói về mặt nổi. Kẻ học 
                không hiểu bèn hướng vào cái danh cú hiển lộ ra mà sanh kiến 
                giải; đều là nương tựa cả. Phải rơi vào nhân quả, chưa thoát 
                khỏi sinh tử trong ba cõi. Nếu các ông muốn thoát được sinh tử, 
                đi ở được tự do, thì ngay đây phải biết lấy cái người đang nghe 
                pháp, không hình, không tướng, không rễ, không gốc, không chỗ ở, 
                linh hoạt tươi mươi, ứng vào vạn loại mà làm, chỗ dùng chỉ là 
                chỗ không. Cho nên tìm thì lại xa, cầu thì lại trái, gọi là bí 
                mật.” 
 
                - Nói như thếù 
                không phải là Tổ bác bỏ lý duyên khởi, bằng chứng là ngay trước 
                đoạn này lý ấy được đề cập: “Nếu có thời đều là cảnh y biến cả, 
                có cái y cứ Bồ đề, cái y cứ Niết bàn, cái y cứ giải thoát, cái y 
                cứ tam thân, cái y cứ cảnh trí, cái y cứ Bồ tát, cái y cứ Phật, 
                các ông tìm cái chi trong quốc độ y biến?” Tổ muốn khuyên môn 
                sinh tránh lối luận chứng dị thời để khỏi rơi vào thế giới nhân 
                quả, thế giới của khổ đau. Chỉ có thế giới của tánh Không, không 
                hình, không tướng, không rễ, không gốc, không chỗ ở, là thế giới 
                của tự do. Như thế có nghĩa là tự do luôn luôn ở ngay đây và bây 
                giờ, không cần đi đâu xa để tìm kiếm. 
 
                - Theo Tổ, thế 
                giới của duyên khởi thuộc về thế giới luân hồi (samsara), còn 
                thế giới của tánh Không thuộc về thế giới của tự do và giải 
                thoát (nirvana). Ta có cảm giác sự phân hai, tánh Không tương 
                ưng với giác ngộ và Duyên khởi tương ưng với trói buộc và khổ 
                đau, tạo ra một căng thẳng giữa Duyên khởi và tánh Không. Bởi vì 
                nếu ngộ là kết quả do thực hành những pháp hữu vi như học kinh, 
                trì giới, và mặc tọa, thời như Suzuki nói trên, từ vị trí bị 
                trói buộc trong chuỗi dây duyên sinh không thể nào bước vào thế 
                giới của tánh Không mà không thực hiện một bước nhảy tối hậu. 
                Hành giả luôn luôn bị trói buộc trong vòng nhân quả nghiệp báo. 
                Nhưng nếu ngộ hiểu như là không do nhân duyên tạo tác thời tánh 
                phổ biến của luật tắc duyên khởi bị tổn hại vì mạng lưới tương 
                giao nhất thể bị chọc thủng bởi sự xuất hiện một cảnh giới mới 
                lạ, cảnh giới giải thoát, không tùy thuận luật tắc duyên khởi, 
                không thể dùng tư duy để suy diễn và ngôn ngữ để mô tả. Tuy 
                nhiên, sự căng thẳng giữa Duyên khởi và tánh Không sẽ tan biến 
                nếu nhận thức rằng tổ Lâm Tế mặc nhiên sử dụng phép luận chứng 
                đồng thời, không vin trên thuyết Duyên khởi để tiếp cận tánh 
                Không.
 
                - Giáo lý phát 
                xuất từ phép luận chứng đồng thời là đốn giáo: ngộ là ngộ tức 
                thời. Tổ Lâm Tế phát biểu như sau: “Này các Đại đức, các ông 
                mang bát, mang đãy, gánh phân chạy khắp hàng xóm mà cầu Phật cầu 
                Pháp. Nay các ông dong ruỗi cầu tìm như thế, các ông có biết nó 
                thế nào chăng? Nó rất linh hoạt tươi mươi, chẳng có gốc gác gì, 
                gom lại chẳng tụ, gạt ra chẳng tán, cầu tìm thời nó rời xa, 
                không cầu tìm thì ở trước mắt. Ôi âm thanh kỳ diệu thay! Nếu ai 
                không tin thì trăm năm lao nhọc.
 
                - Này các Đạo 
                lưu, trong một sát na liền vào thế giới Hoa tạng, vào quốc độ Tì 
                lô giá na, vào quốc độ giải thoát, vào quốc độ thần thông, vào 
                quốc độ thanh tịnh, vào pháp giới, vào dơ, vào sạch, vào phàm, 
                vào thánh, vào ngạ quỉ, súc sanh, tìm kiếm khắp nơi đều không 
                thấy có sanh tử, chỉ có cái danh suông!”
 
                - Đoạn văn vừa 
                trích hàm ý một kết quả thứ hai của cách tiếp cận Giác ngộ bằng 
                luận chứng đồng thời. Đó là không dạy ngồi thiền để cầu giải 
                thoát. Tổ nói rõ: “Này các Đại đức, sơn tăng này nói bên ngoài 
                không có pháp, người học không hiểu, bèn quay vào trong mà sanh 
                kiến giải, liền dựa vào tường mà ngồi, lưỡi chấm lên niếu, lặng 
                yên bất động, cho đó là Phật pháp của cửa Tổ. Thật sai lầm lắm 
                vậy! Nếu các ông cho rằng cảnh thanh tịnh bất động là đúng, thì 
                các ông đã nhận cái vô minh kia làm ông chủ.” Không tin tọa 
                thiền nhập định dẫn tới giác ngộ tức là không tin có quan hệ 
                nhân quả giữa ngồi thiền và giác ngộ. Sự không chấp nhận một 
                quan hệ nhân quả như vậy chẳng những dẫn đến sự coi thường phép 
                mặc tọa mà ngoài ra còn chỉ trích bất cứ hoạt động nào hướng tới 
                một mục tiêu định sẵn. Tổ bảo: “Theo chỗ thấy của sơn tăng này 
                thì không như nhiều kẻ khác: cứ việc bình thường, mặc áo ăn cơm, 
                vô sự qua ngày. Các ông ở khắp nơi đến đây đều là có lòng cầu 
                Phật, cầu Pháp, cầu giải thoát, cầu vượt ra khỏi ba cõi. Lũ ngu! 
                Các ông muốn ra khỏi ba cõi mà đi đâu?”
 
                - Phép luận 
                chứng đồng thời đưa Thiền đến thái độ lơ là giới hạnh và không 
                thấy cần tọa thiền nhập định. Tuy nhiên thái độ này đòi hỏi phép 
                luận chứng dị thời để qui định mối liên hệ giữa tu hành và hạnh 
                quả. Mặt khác, giác ngộ không do nhân duyên tạo tác cần phải 
                tiếp cận bằng phép luận chứng đồng thời. Như vậy giữa hai phép 
                luận chứng đồng thời và dị thời có sự căng thẳng. Cho nên Thiền 
                theo Hoa nghiêm chủ trương nghịch lý đồng nhất Duyên khởi và 
                Không. Tổ Lâm Tế phát biểu như sau: “Các ông hãy tùy chỗ mà làm 
                chủ. Lập xứ đều là chơn. Cảnh đến thì lay chuyển chẳng được. Dù 
                cho có tập khí và ngũ vô gián nghiệp từ xưa kia đi nữa, thì tự 
                nó thành biển cả giải thoát.” Nói như thế có nghĩa là không cần 
                phải lo đến nghiệp báo sinh tử vì luân hồi và niết bàn là không 
                hai.
 
                - Quan hệ 
                nghịch lý giữa tánh Không và Duyên khởi được phô diễn trong công 
                án Con chồn hoang của Bách Trượng (Vô môn quan, Huệ Khai. Trần 
                Tuấn Mẫn dịch và chú). Sau một buổi nghe Hòa thượng Bách Trượng 
                giảng pháp, một lão già thú nhận là chồn chứ chẳng phải người. 
                Xưa đời Phật Ca Diếp đã tu ở núi Bách Trượng này. Bị đọa làm 
                thân chồn hoang năm trăm kiếp vì nghĩ rằng giác ngộ thời không 
                còn bị ràng buộc bởi luật nhân quả, nên trả lời “Không rơi vào 
                nhân quả (Bất lạc nhân quả)” khi một học tăng hỏi: “Bậc đại tu 
                hành còn rơi vào nhân quả không?” Nay xin Hòa thượng giúp cho 
                một lời chuyển ngữ và hỏi: “Bậc đại tu hành còn rơi vào nhân quả 
                không?” Hòa thượng Bách Trượng trả lời, “Chẳng che mờ nhân quả 
                (Bất muội nhân quả)”, có nghĩa là sau khi giác ngộ vẫn tiếp tục 
                không tránh được, không che mờ được sự ràng buộc vào nghiệp, 
                đương nhiên thấy rõ ràng còn trong vòng chi phối bởi luật nhân 
                quả. Nghe xong, lão già đại ngộ, tin cho biết đã thoát thân chồn 
                hoang, xác còn ở sau núi, và xin xếp đặt đúng theo lệ tăng chết. 
                Hòa thượng Bách Trượng ra lệnh thầy tri sự chuẩn bị tang lễ cho 
                một vị tăng. Tăng chúng tuân theo nhưng thắc mắc thấy mọi người 
                an lành mà sao lại sửa soạn chôn cất. Sau khi dùng ngọ, Hòa 
                thượng dẫn tăng chúng đến sau hốc núi, dùng trượng khều ra một 
                xác chồn hoang rồi đem hỏa táng.
 
                - Tối đến Hòa 
                thượng thượng đường, kể lại chuyện. Hoàng Bá (học trò của Bách 
                Trượng và thầy của Lâm Tế) mới hỏi: “Người xưa vì đáp sai một 
                lời chuyển ngữ mà bị đọa làm thân chồn hoang năm trăm kiếp. Giả 
                thử câu nào cũng không đáp sai thời sao?” Hòa thượng bảo Hoàng 
                Bá lại gần để nói cho nghe. Hoàng Bá lại gần, tát Hòa thượng một 
                chưởng. Hòa thượng vỗ tay cười tỏ ra đồng ý, gọi đệ tử là “tên 
                Hồ đỏ râu”, tên gọi đùa tổ Bồ đề đạt ma.
 
                - Trên phương 
                diện triết học, vấn đề chính yếu đem ra bàn cãi là nên giải 
                thuyết công án như thế nào, hoàn toàn y chiếu bản văn màø khẳng 
                định luật nhân quả và phủ định tánh vô vi, hay là theo cách 
                nghịch lý tựa trên chủ trương đồng nhất hữu vi và vô vi nương 
                vào sự kết đồng đối cực ở tầng mức sâu thẳm hơn. Hai cách giải 
                thuyết này phát xuất từ lối trình bày câu chuyện trong công án, 
                xem như gồm có hai phần. Phần đầu kể lại đối thoại giữa Hòa 
                thượng Bách Trượng và vị sư già hóa chồn xưa kia trụ trì cũng ở 
                tại Bách Trượng, đưa tới sự thoát thân chồn và lễ táng tăng. 
                Phần hai kể lại Bách Trượng bị đệ tử Hoàng Bá vặn hỏi về ý nghĩa 
                nhân quả, nhận một cái tát do đệ tử hành động đúng y giáo pháp 
                chỉ thẳng của mình, và cuối cùng vui vẻ tỏ ra đồng ý với đệ tử.
                
 
                - Hơn nữa, hai 
                phần câu chuyện trên tương ưng với hai mức nghịch lý tương quan. 
                Mức nghịch lý đầu tùy thuộc bản văn là bằng lời nói phủ nhận sự 
                bị nhân quả ràng buộc, vị sư già do nghiệp mà hóa sinh thân chồn 
                chịu khổ sở liên miên vô số kiếp, nhưng cuối cùng được giải 
                thoát nhờ nghe Bách Trượng khẳng nhận sự chế ngự của nhân quả. 
                Nghịch lý ở chỗ tư tưởng phủ định sự bị nhân quả trói buộc dẫn 
                tới kết quả là bị nhân quả trói buộc không dứt và khẳng định sự 
                bị trói buộc thời dẫn tới kết quả được giải thoát. Mức nghịch lý 
                thứ hai căn cứ trên ý niệm rơi vào nhân quả không phải do nghiệp 
                như trường hợp đầu, mà do phủ định tánh bất khả ly giữa nghiệp 
                và ngộ, nghĩa là do cáiù ý nghĩ mà cách giải thích theo bản văn 
                trong phần đầu cho là không đúng.
 
                - Sự bàn cãi 
                thật ra xoay quanh hai phép luận chứng, dị thời và đồng thời. 
                Phép luận chứng dị thời thuyết minh duyên khởi (nhân quả) và 
                chứng ngộ (vô vi) đều là những quá trình nhân duyên sinh khởi. 
                Phép luận chứng đồng thời ngược lại, xác quyết bản thể của duyên 
                khởi và chứng ngộ không bị nhân quả chi phối, cả hai đều là biểu 
                tướng của tánh Không. Ý nghĩa của cuộc bàn cãi không phải để hơn 
                thua về trò chơi chữ mà thật ra để tạo một thông điệp về cách 
                Thiền tiếp cận đạo đức và xã hội như thế nào. Một khía cạnh của 
                vấn đề do công án đặt ra là nếu xem ngộ như vượt lên trên nghiệp 
                do phủ nhận nhân quả hay thiên trọng tánh Không thời kết quả là 
                không cần thiết tu dưỡng đạo đức, trau dồi đức hạnh, và thiếu 
                tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Mặt khác, nếu xem ngộ như 
                còn bị nghiệp trói buộc thời bậc đại tu hành cũng không mấy khác 
                với kẻ phàm phu vốn sẵn Phật tánh. Đây là trạng thái thụ động, 
                nhắm mắt theo thầy, không bao giờ tìm cách thể hiện chân tánh tự 
                tại và năng sanh.  
 
                - Nói cho đúng, 
                phải công nhận rằng một mặt, Thiền có khuynh hướng thiên trọng 
                tự do, vượt thoát mọi khuôn khổ, mọi quy luật, mọi hạn định, 
                nhưng mặt khác, chủ trương tự kỷ khắc chế, tôn trọng thanh quy, 
                và sống theo tinh thần Bách Trượng, “một ngày không làm, một 
                ngày không ăn”. Hai mặt tuy tương phản nhưng cùng chung mục đích 
                là chứng thực Bát nhã. Sau đây là một đoạn văn Thầy Tuệ Sỹ trích 
                từ kinh Văn Thù vấn, thêm vào phần Thầy chú thích Luận Bốn: Tính 
                kham nhẫn trong đời sống đạo Phật, Thiền luận, tập Trung. Trong 
                đoạn văn này phép luận chứng đồng thời được sử dụng để diễn tả 
                Trí Bát nhã.
 
                - “Xá Lợi Phất 
                nói: ‘Bạch đức Thế tôn, như ngài Văn Thù giảng, Trí Bát nhã vượt 
                ngoài tri kiến của chư Bồ tát sơ phát tâm.’
 
                - Bấy giờ, Văn 
                Thù bảo Xá Lợi Phất: ‘Điều tôi giảng nói không chỉ vượt ngoài 
                tri kiến của họ, mà còn vượt ngoài tri kiến của các vị A la hán 
                đã thành tựu đạo nghiệp. Không ai có thể hiểu biết như thật lời 
                giảng của tôi. Tại sao? Bởi vì phàm phu không vương tới Bồ đề 
                nỗi, trí năng cũng không thể; Bồ đề ở trên thấy, nghe, nhớ, 
                nghĩ; nó không sinh, không diệt, vô tướng. Bồ đề vì là như tính, 
                nên không nói là hữu hay vô. Không phải là sở tri, sở đắc.’
 
                - Xá Lợi Phất 
                nói: ‘Thưa ngài Văn Thù, há không có Pháp giới mà chư Phật chứng 
                nhập hay sao?’
 
                - Văn Thù: ‘Này 
                Xá Lợi Phất, không có Pháp giới mà chư Phật chứng nhập. Tại sao? 
                Bởi vì Pháp giới là Phật và Phật là Pháp giới, nên Pháp giới 
                không tự chứng Pháp giới. Pháp giới tức hết thảy các pháp đều 
                Không; và tánh Không này là Bồ đề, không hai, không phân biệt. 
                Bởi vì không hai nên không có trí giải; không có trí giải nên 
                không có ngôn thuyết; không có ngôn thuyết nên không có tướng 
                tác và vô tác, hữu và phi hữu, không có tướng quyết định. Đó là 
                tự tính của vạn hữu. Sự biểu lộ ở đây hay kia chỉ là tạo tác do 
                tâm.
 
                - Này Xá Lợi 
                Phất, phạm tội tức thành tựu bất khả tư nghi; thành tựu bất khả 
                tư nghi tức xuất sinh Thật tướng. Thật tướng tức không hai. (Như 
                thế, vì rằng phạm tội, bất khả tư nghi và Thật tướng không khác 
                nhau, không có kẻ phạm tội; vì đấy là thành tựu bất khả tư nghi 
                hay xuất sinh Thật tướng, nên là bất khả đắc). Chúng sinh vốn 
                bất khả tư nghi nên không có thác sinh lên trời, không đọa vào 
                các đường dữ, không chứng nhập Niết bàn. Những kẻ phạm trọng tội 
                không đọa vào địa ngục. Phạm tội và bất khả tư nghi thảy là Thật 
                tướng, và Thật tướng vốn không hai, không sinh không diệt, không 
                đến không đi, không nhân không quả, không thiện không ác, không 
                dẫn vào ác đạo hay thiên đường, không đưa tới Niết bàn hay sinh 
                tử. Tại sao? Bởi vì trong Pháp giới chân thật không có thiện hay 
                ác, cao hay thấp, trước hay sau.
 
                - Này Xá Lợi 
                Phất, Tì khưu phạm trọng tội không bị đọa địa ngục; tịnh tu giới 
                hạnh không sinh lên thiên đường. Kẻ phạm tội không rơi vào nẻo 
                sinh tử, không bị khinh bỉ, không bị xa lánh, không bị cấm nhận 
                những cúng thí, v..v... ; và kẻ tịnh tu không có chứng Niết bàn, 
                không có tán dương, không có thân cận, không có cúng thí, 
                v..v... Tại sao? Bởi vì trong Pháp giới chân thật chỉ có tướng 
                nhất như; phạm hay không phạm không phân biệt.’
 
                - Bấy giờ Văn 
                Thù bạch Thế tôn: ‘Bồ đề là tội ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ 
                đề. Tại sao? Bởi vì Bồ đề và ngũ nghịch thảy đều phi hữu, không 
                có tự tính, không có tri và tri giả, kiến và kiến giả, giác và 
                giác giả, phân biệt và phân biệt giả. Nên nói Bồ đề tức ngũ 
                nghịch. Nếu ai coi Bồ đề là khả đắc hay khả hành, kẻ ấy đam mê 
                chấp ngã.’”
 
                - H.D
 
             
              
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |