PHẬT GIÁO VIỆT NAM

(THIÊN THAI THUYỀN TÔN TỰ)
 
Đàm hoa lạc khứ hữu dư hương
Hương thơm của hoa ưu đàm mãi mãi thơm ngát như đạo đức của Thiền sư Liễu Quán tỏa sáng muôn đời.
Ngài Liễu Quán húy Thiệt Diệu, quê ở Sông Cầu (Phú Yên) ra Thuận Hóa vào cuối thế kỷ XVII. Thiền sư khai sơn chùa Thuyền Tôn vào khoảng năm 1708, lúc bấy giờ chỉ là một am tranh, nơi xây ngôi bảo tháp của ngài hiện nay, và ở cổng tháp đã khắc ghi câu trên. Thiền sư đã biệt xuất một bài kệ truyền cho các đời kế tiếp đặt pháp danh:
Thiệt tế đại đạo, tánh hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong
Giới định phước huệ, thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công
Truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông
Hạnh giải tương ưng, đạt ngộ chơn không.
Nghĩa là:
Đường lớn thực tại, biến thế tính trong,
Nguồn tâm thấm khắp, gốc đức vun trồng,
Giới định cùng tuệ, thể dụng viên thông,
Quả trí siêu việt, biểu thấu nên công,
Truyền giữ lý mầu, tuyên dương chính tông,
Hành giải song song, đạt ngộ chân không.
(Nguyễn Lang dịch)
Chùa Thuyền Tôn hiện nay tọa lạc ở thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Chùa được dựng bên trái núi Thiên Thai, nên còn có tên là Thiên Thai Thuyền Tôn Tự.
Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Chưởng Thái giám Mai Văn Hoan đã vận động tiền của để xây dựng ngôi chùa quy mô, cách thảo am khoảng 1km. Đại hồng chung được đúc vào thời kỳ này, có khắc niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747). Chùa đã được bà Lê Thị Tạ phát tâm trùng tu vào năm 1808.
Các vị kế tục trụ trì chùa trong buổi đầu là Tế Hiệp, Tế Mẫn. Sau đó là các vị Đại Huệ, Đại Nghĩa, Đạo Tâm. Theo dòng kệ truyền thừa, kế tiếp là các vị Đạo Tại, Tánh Thiện, Hải Nhuận, Thanh Liêm, Thanh Đức.
Đến năm 1937, Hòa thượng Trừng Thủy - Giác Nhiên đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng đã có nhiều công lao trong công cuộc chấn hưng Phật giáo ở nửa đầu thế kỷ XX. Từ năm 1973, Hòa thượng đã đảm nhận trọng trách Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đến năm 1979 thì viên tịch, thọ 102 tuổi.
Chùa Thuyền Tôn bảo lưu được đường nét kiến trúc cổ và hệ thống thờ tự truyền thống. Ở chánh điện, án giữa thờ Phật Tam Thân, phía trước là tượng đức Phật Thích-ca. Tiền án thờ tượng Bồ-tát Chuẩn Đề hai bên là ảnh vẽ Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền. Tiếp đến là bàn chuông, mõ. Án tả thờ Bồ-tát Quan Âm, hai bên có ngài Xá Lợi Phất và ngài Ca-diếp. Án hữu thờ Bồ-tát Địa Tạng. Ngoài ra còn có hai án thờ Thập điện Minh Vương ở hai bên vách. Phía ngoài là hai bàn thờ Hộ Pháp và Quan Thánh.
Từ tam quan đi vào mé phải ngôi chùa, căn phòng của Hòa thượng Giác Nhiên ngày xưa vẫn còn đó. Bức chân dung của Ngài đã gây sự cảm nhận thanh thoát, gần gũi và niềm tin kính vô hạn. Từ cửa phòng của Ngài, nhìn ra ngôi bảo tháp, cảnh quan ngôi chùa và ngọn núi Thiên Thai, lòng khách lâng lâng khó tả.
Đến viếng chùa năm xưa, nhà thơ Nguyễn Du cũng mang nỗi lòng đó:
 Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiền triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung.
Nghĩa là:
Chùa cổ lá vàng thu phủ kín
Triều xưa mây trắng sãi già rồi
Thương cho đầu bạc còn vướng lụy
Cùng với non xanh trót phụ lời.
(Phan Khắc Hoan và Lê Thước dịch)
 Thật vậy, ngày nay du khách và Phật tử đến chùa, sẽ được tận hưởng một cảnh quan đầy thiền vị:
Bảo đạc trường minh, bất đoạn môn tiền lưu lục thủy,
Pháp thân độc lộ, y nhiên tọa lý khán thanh sơn.
Nghĩa là:
Mõ báu dài kêu, chẳng dứt trước cửa dòng biếc chảy
Pháp thân lộ rõ, tự nhiên ngồi đó ngắm núi xanh.
(Trương Ngọc Tường dịch)
--o0o--