| 
           
      
  
           
  |               
             
                
            
            
               PHẬT GIÁO VIỆT NAM
            
            
            
              
            
            
              
              -  
 
              - Từ khu vực Hòa 
              Bình ở trung tâm thành phố Đà Lạt đi đến giữa đèo Prenn, có con 
              đường bên tay phải dẫn vào hồ Tuyền Lăm và Thiền viện Trúc Lâm, lộ 
              trình khoảng 10km.
 
              - Trên con đường 
              vòng theo núi lên chùa, từ xa đã thấy lầu chuông và mái nóc ngói 
              chánh điện lúc ẩn lúc hiện giữa những rừng thông ngút ngàn. Đến 
              một ngã rẽ, du khách và Phật tử hoặc rẽ phải theo con đường nhựa 
              vào cổng bên của chùa với 61 bậc, hoặc đi thẳng đến hồ Tuyền Lâm 
              rồi theo 222 bậc cấp qua ba cổng tam quan để vào thẳng sân trước 
              của điện.
 
              - Thiền viện tọa 
              lạc trên núi Phượng Hoàng với diện tích 24 hecta. Diện tích xây 
              dựng khoảng 2 hecta gồm hai khu ngoại viện và nội viện. Nội viện 
              được chia hai khu vực Tăng, Ni. Mỗi khu vực có hai Tăng đường, một 
              thiền đường, một nhà bếp, một nhà ăn và một nhà kho. Đây là khu 
              vực giới hạn khách tham quan, hiện nay là nơi tu thiền của 50 Tăng 
              và 50 Ni. Ngoại viện ở một khu đất rộng, bằng phẳng, độ cao 1300m 
              (so với mặt biển), đối diện dãy núi Benhuit chập chùng và hồ nước 
              Tuyền Lâm mênh mông, xanh biếc. Ở đây, một số công trình tiêu biểu 
              của Thiền viện được xây cất do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ phác thảo 
              và kiến trúc sư Nguyễn Tín, thầy Trị sự Thích Thông Tạng cùng 
              nhiều Tăng Ni, Phật tử góp công của thực hiện, đã khánh thành long 
              trọng vào ngày 19-3-1994. Đó là ngôi chánh điện uy nghi ở vị trí 
              trung tâm, bên phải là Tham vấn đường và lầu chuông, bên trái là 
              nhà khách, nhà bếp, nhà kho. Trước nhà khách là một vườn hoa đẹp, 
              và ở triền dốc xuống phía trước cổng là hồ nước nhân tạo của Thiền 
              viện có sức chứa 15.000 mét khối nước cho Tăng, Ni sử dụng.
 
              - Tượng thờ trong 
              chánh điện được bài trí đơn giản mà trang nghiêm. Ở điện Phật, 
              tượng đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni uy nghi thiền định trên tòa sen, 
              hai bên có hai bức tranh Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền tượng trưng cho 
              Đại trí và Đại hạnh.
 
              - Tham vấn đường 
              bên cạnh ngôi chánh điện là nơi mỗi tháng vào ngày 14 và 29 âm 
              lịch, Hòa thượng Viện trưởng cùng thiền sinh tham vấn các vấn đề 
              về Thiền học.
 
              - Mục đích của 
              Thiền viện Trúc Lâm là làm sống lại tinh thần Thiền tông đời Trần 
              (thế kỷ XIII - XIV). Đây là đường lối tụ tập đặc biệt do vua Trần 
              Nhân Tông tức Sơ Tổ Trúc Lâm sáng lập. Ngài đã kết hợp cả ba Thiền 
              phái thời bấy giờ: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường 
              thành một Thiền phái Việt Nam. Chính vị vua từng lãnh đạo quân dân 
              hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông ấy đã nhường ngôi cho con là 
              Trần Anh Tông và xuất gia tu hành tại núi Yên Tử với pháp hiệu 
              Trúc Lâm Đầu Đà. Sau đó, Ngài lại cùng các môn đồ xuống núi đi du 
              hóa khắp nơi. Ngài đã sống cuộc đời tích cực hành đạo của một 
              Thiền sư nhập thế trong mọi lãnh vực đời sống. Đây là thời kỳ có 
              nhiều Thiền sư Việt Nam tham gia việc nước, song các Ngài vẫn 
              không tham luyến thế tục.
 
              - Thiền phái Trúc 
              Lâm đặc biệt nhấn mạnh sự tụ tập nội tâm ở bất cứ hoàn cảnh nào ta 
              sống, dù là tu sĩ hay người tại gia. Đường lối tụ tập hướng nội 
              đưa đến thanh tịnh hóa bản thân, khiến lòng không còn vướng bận 
              ngoại cảnh và tự tánh hiển lộ. Đây là tâm trạng thực sự an ổn 
              trong chính mỗi người, không cần tìm kiếm cực lạc ở tận Tây 
              phương. Đường lối này đã được Sơ Tổ Trúc Lâm diễn tả qua vần thơ 
              Xuân vãn (Cuối xuân) thật thanh thoát. 
 
              - Xuân vãn
 
              - Niên 
              thiếu hà tằng liễu sắc, không
 
              - Nhất xuân 
              tâm sự bách hoa trung
 
              - Như kim 
              khám phá Đông hoàng diện
 
              - Thiền bản 
              bồ đoàn khán trụy hồng.
 
              - Nghĩa là:
 
              -  
 
              - Thuở bé 
              chưa từng rõ sắc, không
 
              - Xuân về 
              hoa nở tại trong lòng,
 
              - Chúa Xuân 
              nay bị ta khám phá,
 
              - Chiếu 
              trải giường thiền ngắm cánh hồng.
 
              - (Thích Thanh 
              Từ dịch)
 
              -  Phương pháp tu 
              tập trở về với nội tâm ấy được thể hiện rõ nhất qua câu kệ kết 
              thúc bài phú Cư Trần Lạc Đạo của Sơ Tổ Trúc Lâm:
 
              - Cư trần 
              lạc đạo thả tùy duyên,
 
              - Cư tắc 
              xan hề khốn tắc miên.
 
              - Gia trung 
              hữu bảo hưu tầm mích,
 
              - Đối cảnh 
              vô tâm mạc vấn thiền.
 
              -  Nghĩa là:
 
              - Ở trần 
              vui đạo hãy tùy duyên
 
              - Đói đến 
              thì ăn, nhọc ngủ liền.
 
              - Trong nhà 
              có báu thôi tìm kiếm,
 
              - Đối cảnh 
              không tâm, chớ bói thiền.
 
              - 
              (Thích Thanh Từ dịch)
 
              - Sơ tổ Trúc Lâm 
              quả thật là tấm gương sáng ngời đạo hạnh của bậc hiền nhân. Sau 
              khi hoàn thành sứ mạng của một vị anh quân, Ngài đã trở thành vị 
              Thiền sư thanh tịnh, đồng thời là một bậc cao tăng uyên thâm giáo 
              lý. Với châm ngôn"Thiền Giáo song hành", Ngài truyền đệ tử là Pháp 
              Loa, Nhị Tổ Trúc Lâm, tiến hành việc khắc ấn bản Đại Tạng kinh kéo 
              dài suốt 24 năm ròng (1295 - 1319) dưới sự bảo trợ của vua Trần 
              Anh Tông và sự ủng hộ nhiệt tình của mọi tầng lớp Tăng sĩ, Phật 
              tử. Đây là công tác vĩ đại nhất được chư Tổ Thiền tông đời Trần 
              thực hiện với hơn 5000 ấn bản Đại Tạng được lưu giữ tại chùa Quỳnh 
              Lâm.
 
              - Kế tiếp Nhị Tổ 
              Pháp Loa là Thiền sư Huyền Quang, hợp thành Trúc Lâm Tam Tổ, biểu 
              tượng của thời Phật giáo cực thịnh trên đất Việt. Thiền sư Huyền 
              Quang là một bậc cao tăng, cũng là bậc thi hào đã lui về ẩn dật 
              tại núi Côn Sơn sau hơn 20 năm vừa phụng sự triều đình vừa phụ tá 
              Sơ Tổ Trúc Lâm trên đường hành đạo và soạn kinh sách dạy học về 
              Thiền tông Việt Nam. Sồng giữa dòng thiên nhiên, Ngài cảm nhận tâm 
              trạng thanh thản của một người thực sự hòa mình vào vạn vật làm 
              một, đi đứng nằm ngồi, giờ phút nào cũng an nhiên tự tại, nên đã 
              sáng tác những vần thơ tuyệt diệu như trong bài Vịnh cúc hoa: 
 
              - Vịnh Cúc Hoa
 
              - Hoa tại 
              trung đình, nhân tại lâu
 
              - Phần 
              hương độc tọa tự vong âu
 
              - Chủ nhân 
              dữ vật hồn vô cạnh
 
              - Hoa hương 
              quần phương xuất nhất đầu
 
              - Nghĩa là:
 
              - Người ở 
              trên lầu, hoa dưới sân
 
              - Vô tư 
              ngồi ngắm khói trầm xông
 
              - Hồn nhiên 
              người với hoa vô biệt
 
              - Một đóa 
              hoa vừa mới nở tung
 
              - (Nguyễn Lang 
              dịch)
 
              - Đời sống hằng 
              ngày của một hành giả hướng đến thanh tịnh bản tâm theo Thiền phái 
              Trúc Lâm đã được qui định điều hòa bằng nghi thức "Lục thời sám 
              hối" do vua Trần Thái Tông biên soạn. Đây là nghi thức sám hối đặc 
              biệt Việt Nam gồm sáu phần sám hối trong ngày với mục đích thanh 
              lọc nội tâm, khác với nghi thức sám hối của Phật giáo Trung Hoa 
              nhằm cầu xin xá tội cho bản thân cùng người khác. Từ sáng tinh 
              sương, vị hành giả Thiền tông bắt đầu một ngày an lành bằng các 
              bài kệ tụng đơn giản hỗ trợ cho việc tinh cần tụ tập thân tâm như 
              sau: 
 
              - Bài Kệ Dâng 
              Hương
 
              - Ngào ngạt 
              trầm hương rừng Chánh Định
 
              - Chiên đàn 
              vườn Tuệ đã vun trồng
 
              - Giới đao 
              đẽo gọt nên hình núi
 
              - Đốt tại 
              lò tâm để hiến dâng.
 
              - 
               
 
              - Bài Kệ Dâng 
              Hoa
 
              - Hoa nở 
              sáng ngời trên đất Tâm
 
              - Hoa tiên 
              rải xuống chẳng thơm bằng
 
              - Hái dâng 
              từng đóa lên chư Phật
 
              - Gió 
              nghiệp muôn đời thổi chẳng rung.
 
              - Đây là phương 
              pháp thực tiễn tu tập Tam Học Pháp: Giới - Định - Tuệ, rất phù hợp 
              giáo lý nguyên thủy thời đức Phật, đã được Thiền tông thời cực 
              thịnh của Phật giáo Việt Nam triều Trần ứng dụng hàng ngày, nay 
              lại được Thiền phái Trúc Lâm do Hòa thượng Viện chủ Thích Thanh Từ 
              khởi xướng khôi phục và duy trì những đặc điểm của Thiền tông Việt 
              Nam, đem lại niềm tự hào dân tộc cho người Phật tử Việt Nam.
 
              - Để phương pháp 
              tu học trên đạt được nhiều hiệu quả, Hòa thượng Viện chủ thường 
              khích lệ các thiền sinh ứng dụng nguyên tắc "lục hòa " trong cuộc 
              sống phạm hạnh: thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng 
              duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân. 
              Theo tinh thần Trúc Lâm Đầu Đà, các thiền sinh phải nỗ lực rèn 
              luyện ba đức tính: tinh cần tu tập hường đến giác ngộ giải thoát, 
              kiên quyết vượt mọi khó khăn chướng ngại, và thiển dục tri túc 
              sống đời đạm bạc không thụ hưởng mọi xa hoa.
 
              - Về mặt tổ chức, 
              ban lãnh đạo Viện gồm có: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Thủ bổn 
              (Thủ quỹ), Thư ký và Ban chức sự gồm Quản chúng, Tri sự, Tri 
              khách, Tri khố, Hương đăng, Trưởng ban vườn, trưởng ban rẫy và Ban 
              khám bệnh.
 
              - Ni chúng cũng 
              có một Ban chức sự như tăng chúng.
 
              - Viện trưởng 
              hiện nay: Hòa thượng Thích Thanh Từ; Phó Viện trưởng: Thương tọa 
              Thích Nhật Quang; Quản chúng Tăng: Thượng tọa Thích Thông Phương; 
              Quản chúng Ni: Ni sư Thích nữ Như Tâm.
 
              - Bước chân vào 
              Thiền viện Trúc Lâm, Phật tử cũng như du khách dường như quên hẳn 
              cái lạnh cố hữu cửa xứ Đà Lạt hoa đào để tận hưởng cái khoáng đạt 
              của phong cảnh thiên nhiên, cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp sáng tạo của 
              các công trình kiến trúc mới mẻ nhưng mang đậm tính dân tộc. Đặc 
              biệt những giờ phút tĩnh lặng, thư thái trong tâm hồn sẽ khiến du 
              khách tưởng chừng như đang trở về với thế giới quá khứ cũa Thiền 
              phái Trúc Lâm thời chư tổ Trúc Lâm trên non cao yên tử.
 
             
            
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |