| 
           
      
  
           
  |               
             
                
            
            
               PHẬT GIÁO VIỆT NAM
            
            
            
              
            
              
               
              
               
               
               
               
               
               
               
               
              
            
              
              
               
               
              
               
              
               
               
              
               
              
              
              
            
               
              
            
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
              
              
                
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
            
               
              
              
              CHÁNH PHÁP & HẠNH PHÚC
              
              
            
            
               
              
              
              Nhà 
              Xuất Bản Tôn Giáo-2001
              
            
           
            
           
            
               
              
              
              H. T. Thích 
              Minh 
              Châu
              
            
            
               
              
              
              ---o0o---
              
            
           
            
              
                
                   
                  - 
                  
                  17. CHÙA VIỆT NAM &
 
                  
                
                
                   
                  - 
                  
                  MỐI LIÊN HỆ VỚI NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC
 
                  
                
                - 
                
                 
 
                - 
                
                Thiền đường Trúc Lâm, chùa Trúc Lâm, nơi tôi có vinh dự và hân 
                hạnh, qua lời mời của Thượng tọa Viện chủ Thích Thiện Châu, tiếp 
                xúc và nói chuyện cùng quý vị là một ngôi chùa mới, một ngôi 
                chùa Việt Nam nhưng xây dựng ở nước ngoài, ở nước Pháp, gần kinh 
                đô Paris hoa lệ. Phải chăng đúng theo lời dự báo của Pháp sư 
                Thái Hư khi qua thăm Việt 
                
                Nam 
                cách đây hơn nửa thế kỷ, trong câu đối Pháp sư tặng chùa Quán 
                Sứ: 
 
                - 
                
                Pháp luân tợ địa Đông Tây chuyển,
 
                Phật đạo phùng nguyên tả hữu thông. 
                - 
                
                Tạm dịch:
 
                - 
                
                Bánh xe pháp giống như trái đất chuyển từ Đông sang Tây,
 
                Đạo Phật trở về nguồn sẽ thông suốt cả bên trái cũng như bên 
                phải. 
                - 
                 Gần 
                đây, đọc báo tôi được biết ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở 
                Mỹ, Cộng Hòa Liên Bang Đức, ở Anh, ở Ý, Tây Ban Nha và một phần 
                nào ở Pháp, có phong trào xây dựng nhiều chùa Phật, Thiền viện. 
                Thiền đường Trúc Lâm của chúng ta là một trong những chùa và 
                Thiền viện đó. Phong trào hướng về đạo Phật ở các nước phương 
                Tây chứng tỏ tính thiết thực hiện tại, tính nhân bản mãi mãi 
                sống động của đạo Phật. Ngày nào mà loài Người còn đau khổ, chưa 
                được an lạc, thì loài Người còn cần tới đạo Phật, là đạo diệt 
                khổ và đem lại an lạc cho loài Người, không kể đó là người 
                phương Đông hay là phương Tây.
 
                - 
                
                Trong câu đối của ngài Thái Hư có hai ý, Một ý là giáo pháp của 
                Phật luôn luôn chuyển, trong thời gian cũng như không gian. Đó 
                là sự phát triển của đạo Phật. Đó là đạo Phật phát triển, và 
                trong sự phát triển đó, nó không thể không thích nghi với thời 
                gian và không gian. Yêu cầu của Chúng sinh nói chung, của Phật 
                tử nói riêng, chung quy là thoát khổ, được vui nhưng không thể 
                mang nhiều màu nhiều vẻ tùy theo thời gian và không gian. Do đó, 
                đạo Phật phải phát triển để thích nghi với những yêu cầu mới của 
                thời gian và không gian. Đó là lý do hình thành các bộ phái sau 
                khi Phật Niết Bàn 100 năm và cũng là lý do xuất hiện tư trào Đại 
                thừa giáo sau này. Thế nhưng, dù cây cổ thụ có lớn lên và phát 
                triển cành lá sum xuê như thế nào, thì nó cũng không thể tách 
                rời cái gốc rễ uyên nguyên của nó được. Đạo Phật cũng thế, càng 
                phát triển lại càng phải trở về nguồn thì mới có thể đảm bảo một 
                sự phát triển lành mạnh đúng hướng, nhờ đó mà mãi mãi xanh tươi. 
                Ngài Thái Hư nói Phật đạo phùng nguyên, trở về nguồn là theo ý 
                tứ đó. 
 
                - 
                
                Phật giáo Việt 
                
                Nam 
                ở hải ngoại có hai cội nguồn, một cội nguồn là ở Ấn Độ, nơi đức 
                Bổn Sư Thích Ca xuất thế. Ở đây, như quý vị đều biết, vua 
                Bimbisara, xứ Magadha sau khi được nghe Phật thuyết pháp tại 
                thành Vương Xá, đã cúng dường Phật vườn Trúc Lâm, làm tinh xá để 
                Phật và Tăng chúng ở. Được vua hỏi về yêu cầu một tinh xá, Phật 
                trả lời là tinh xá phải ở vào nơi vắng vẻ không xa lắm, nhưng 
                cũng không quá gần thành phố, để cho dân chúng ai muốn, đều có 
                thể đến được, nhưng ban ngày không có quá đông người, và ban đêm 
                thì không quá ồn ào, một nơi thoáng mát ... Và vua 
                Bimbisara thấy vườn Trúc Lâm rất thích hợp với tất cả những yêu 
                cầu của Phật đề ra cho một tinh xá. Và thế là tinh xá Trúc Lâm 
                được hình thành, là nơi Phật và Tăng chúng đã trải qua sáu kỳ an 
                cư kiết hạ, và là nơi Phật giảng nhiều bài thuyết pháp quan 
                trọng.
 
                - 
                
                Thiền đường Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý vị 
                cũng không quá xa, cũng không gần lắm kinh đô Paris, mong rằng 
                đạt được những yêu cầu của Phật Thích Ca đề ra cho một tinh xá, 
                hay một Thiền đường. Và tôi chân thành và hoan hỷ cầu chúc cho 
                Thiền đường Trúc Lâm của quý vị làm tròn được sứ mệnh thiêng 
                liêng. Một mặt phát triển đạo Phật, khế hợp với căn cơ của thời 
                hiện đại, mặt khác đảm bảo bản chất trong sáng của đạo, khế hợp 
                với những lời dạy cơ bản của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Theo 
                tôi, đó là cội nguồn thứ nhất của Phật giáo Việt Nam ở hải 
                ngoại. Còn cội nguồn thứ hai là Phật giáo Việt Nam tại nước nhà. 
                Một nền Phật giáo Việt Nam rất tự hào về chiều dài lịch sử của 
                nó hơn 18 thế kỷ, về truyền thống dân tộc anh hùng của nó, về 
                những thành tích võ công văn trị của hai triều đại Phật giáo Lý 
                và Trần, là thời kỳ vẻ vang nhất, rực rỡ nhất của toàn bộ lịch 
                sử của dân tộc Việt Nam.
 
                - 
                
                Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam mới được thành lập, mà tôi có 
                vinh dự được Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử làm Viện trưởng đang 
                tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu để làm sáng tỏ những đóng góp 
                thiết thực của đạo Phật Việt Nam vào lịch sử của dân tộc Việt 
                Nam, đặc biệt là thời lịch sử vẻ vang của hai triều đại Lý, 
                Trần.
 
                - 
                
                Tôi không rõ lắm ý tứ của Thượng tọa Thích Thiện Châu yêu cầu 
                tôi nói chuyện về các chùa cổ Việt 
                
                Nam. 
                Phải chăng đó cũng là yêu cầu của tất cả Phật tử Việt kiều ở 
                Pháp, trong dịp lễ Khánh thành ngôi Thiền viện Trúc Lâm mới mẻ, 
                xinh đẹp này, luôn luôn hướng về nền Phật giáo cổ kính của Việt 
                Nam, những ngôi chùa cổ ở Việt Nam mà do tính chất lịch sử và 
                dân tộc lâu đời không có một kiến trúc sư hiện đại, tài ba nào ở 
                Pháp có thể xây dựng lại được. Tất nhiên, chùa Trúc Lâm của quý 
                vị có vẻ đẹp thanh xuân của nó, nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế là 
                vườn tre vườn trúc. ở gần Paris làm sao có tre, có trúc, mà chỉ 
                có cây maronniers. Nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế nơi trụ trì hiện 
                nay của Hòa thượng Phó Pháp chủ Mật Hiển, có thể nói là núp bóng 
                trong vườn trúc dày đặc. Chùa Trúc Lâm ở đây mặc dù khá cách xa 
                kinh đô Paris ồn ào và hoa lệ, nhưng vẫn không có được bầu không 
                khi yên tĩnh, trầm lặng của vùng đồi Nam Giao gần cố đô Huế. 
                Chùa Trúc Lâm ở Huế hiện còn giữ được bảo vật từ thời Tây sơn, 
                kinh Kim Cang Bát nhã dệt trên gấm, theo truyền thuyết là do 
                chính công chúa Ngọc Hân, vợ Nguyễn Huệ thêu. 
 
                - 
                
                Ở Huế, ngoài chùa cổ Trúc Lâm ra, còn có nhiều chùa cổ khác, đặc 
                biệt là chùa Thiên Mụ, nơi trụ trì hiện nay của Hòa thượng Thích 
                Đôn Hậu, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
 
                - 
                
                Gió đưa cành trúc la đà,
 
                Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. 
                - 
                
                Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng 
                của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp 
                tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ 
                biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và 
                chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. 
                Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi 
                làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh 
                vua Đường là Đường ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, 
                tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao 
                Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa 
                đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh 
                địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng 
                thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói 
                to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, 
                đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở 
                đây..." 
 
                - 
                
                Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để 
                biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô 
                lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập 
                tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ 
                tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).
 
                - 
                
                Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng 
                thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn 
                yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của 
                Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng 
                của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe 
                luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm 
                duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này.
 
                - 
                
                Ở cố đô Huế, ngoài hai chùa Trúc Lâm và Thiên Mụ, còn có một số 
                chùa cổ khác như chùa Diệu Đế, chùa Quốc Ân, chùa Từ Đàm, chùa 
                Báo Quốc, chùa Tường Vân, chùa Thuyền Tôn v.v... phần lớn 
                tọa lạc ở bờ phải sông Hương.
 
                - 
                
                Thế nhưng trong cả nước, thì số chùa cổ tập trung nhiều hơn cả 
                là ở miền Bắc, nơi có trung tâm Phật giáo và Phật học Luy Lâu 
                nổi tiếng, với những cao Tăng xuất phát từ đây sang giáo hóa ở 
                miền Nam Trung Hoa, nơi đã tổ chức dịch bộ kinh xưa nhất trong 
                văn hệ Bát-nhã, tức bộ Bát Thiên Tụng Bát-nhã và nhiều bộ kinh 
                Đại thừa khác.
 
                - 
                
                Trong đó thì bộ kinh thuộc văn hệ Bát-nhã, được Lokasema, người 
                đồng đại với An Thế Cao dịch vào năm 172 T.L. lại là cuốn 
                Astadasasahasrika (18.000 tụng), không phải là bộ xưa nhất. Một 
                sự kiện nữa đáng chú ý là cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được Thiền 
                sư Việt Nam Thanh Biện, thuộc thế hệ thứ tư dòng Thiền 
                Tỳ-ni-đa-lưu-chi, trì tụng hằng ngày phải xuất hiện sớm hơn non 
                hai thế kỷ so với cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được ấn tống lần 
                đầu tiên ở Trung Hoa vào năm 868, tháng 5 ngày 11. Lịch sử ngành 
                in thế giới ghi nhớ ngày này, như là ngày cuốn sách in đầu tiên 
                ra đời, mà đó lại là một cuốn kinh Phật. Thế nhưng, theo cuốn 
                "Thiền Uyển Tập Anh" cuốn lịch sử Phật giáo xưa nhất, viết vào 
                đời Trần, thì Thanh Biện tịch vào năm 686, do đó điều chắc chắn 
                là Thanh Biện đã sử dụng một bản kinh Kim Cương khác, có thể là 
                đã được chuyển thẳng từ Nam Ấn Độ sang, và được dịch ở Việt Nam, 
                bởi những cao Tăng Việt Nam thông cả chữ Phạn và chữ Hán. 
                
 
                - 
                
                Chi tiết trên tuy nhỏ, nhưng đủ nói lên tính xa xưa của đạo Phật 
                Việt Nam, của Trung tâm Phật học Luy Lâu, và của những chùa tháp 
                Việt Nam được xây dựng vào thời bấy giờ mà kiến trúc và điều 
                khắc chắc là mang dấu ấn ảnh hưởng của Ấn Độ, nhiều hơn là của 
                Trung Hoa. Những chùa tháp Việt Nam đó hiện nay không còn nữa, 
                thế nhưng bóng dáng của chúng, ảnh hưởng của chúng tiếp tục lưu 
                lại phảng phất trong các chùa tháp đời Lý và đời Trần.
 
                - 
                
                Chùa tháp đời Lý Trần hẳn là đã được xây dựng khá phổ biến, và 
                có quy mô khá to lớn, cho nên Lê Văn Hưu, sư gia đời Trần nói về 
                chùa tháp đời Lý, đã có những câu như:
 
                - 
                
                "Xây chùa cao ngất trời, trồng cột chùa đá chạm, chùa Phật lộng 
                lẫy hơn cả cung vua, dân quá nửa là Sư sãi, khắp nước chỗ nào 
                cũng chùa chiền..." (Thơ Văn Lý Trần tập II - 368).
 
                - 
                
                Rất có thể là Lê Văn Hưu muốn nói tới hai ngọn tháp mà Lý Thánh 
                Tông cho xây, một ở Thăng Long (Hà Nội), tức la tháp Báo Thiên, 
                và hai là tháp Lạn Kha ở chùa Phật Tích và một số tháp khác nay 
                đều không còn nhưng được nhắc tới trong sách sử với những thông 
                số chiều cao làm chúng ta ngạc nhiên, và không thể không đặt câu 
                hỏi: Tháp chùa Phật Tích cao ngàn trượng? Tháp chùa Báo Thiên 
                cao vài mươi trượng, cột đá ở chùa Một Cột Hà Nội cao 10 trượng, 
                tháp Chương Sơn còn để lại cạnh chân dài 19 mét. Nếu tính đại 
                khái 3 trượng bằng 1 mét Tây, thì độ cao của các tháp đời Lý quả 
                là đáng kể vậy. Tương truyền, khi tháp Phật Tích đang còn, thì 
                từ ở Thăng Long (Hà Nội), người ta có thể nhìn thấy đỉnh tháp 
                Phật Tích.
 
                - 
                
                Tháp Báo Thiên dựng ở chùa Sùng Khánh Thăng Long do sắc chỉ vua 
                Lý Thánh Tông, năm Long Thụy Thái Bình thứ năm (l056) là một 
                ngọn tháp 12 tầng, cao hơn 80 mét, vốn dược vua đặt tên là Đại 
                Thắng Thiên Bảo Tháp, gọi tắt là tháp Báo Thiên. Ngày xưa, nói 
                tới bốn công trình kiến trúc và điêu khắc lớn của Việt Nam, thì 
                tháp Báo Thiên là một. Khi tướng nhà Minh, Vương Thông bị quân 
                của Lê Lợi - Nguyễn Trãi vây hãm trong kinh thành, Vương Thông 
                đã cho dỡ phá tháp Báo Thiên, lấy vật liệu để xây công sự 
                (1414). Nền tháp to rộng không khác gì ngọn đồi. Đến thế kỷ 18 
                (1791), người ta đào được ở đây, tám pho tượng Thần Kim Cương, 
                chia đứng trấn 4 cửa, những tượng người, tiên, chim muông, 
                giường ghế đều bằng đá nhiều không kể xiết” (theo sách Tang 
                Thương Ngẫu Lục).
 
                - 
                
                Chóp tháp bằng đồng, tương truyền là do sư Không Lộ đời Lý vẽ 
                kiểu và đúc, với số đồng do Sư dùng phép thần thông lấy được 
                trong kho của vua nhà Tống ở tận Nam Kinh. Số đồng lấy về nhiều 
                đến nỗi sư Không Lộ còn dùng để tạc tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm, 
                đúc chuông Quy Điền cho chùa Diên Hựu, và vạc ở chùa Phổ Minh. 
                Đó là bốn công trình điêu khắc lớn nhất, đẹp nhất, nổi tiếng 
                nhất thời bấy giờ, gọi là "Việt Nam Tứ Đại Khí”, và do một tay 
                sư Không Lộ làm ra cả. Một Thiền sư đồng thời là một kiến trúc 
                sư, một thợ đúc đồng có kỹ thuật, sau này được ngành đúc đồng 
                Việt Nam suy tôn là Tổ đúc đồng của Việt Nam, và có đền thờ tại 
                phường Lò Đúc Hà Nội. Vâng, chỉ là huyền thoại, nhưng nó cho 
                thấy các Tăng sĩ Việt Nam thời Lý có nhiều tài, nhiều nghề, và 
                giúp ích nhiều và thiết thực cho cuộc sống của người dân.
 
                - 
                
                Bài thơ vịnh tháp Báo Thiên của Nho sĩ Phạm Sư Mạnh cũng cho 
                chúng ta một ý niệm về độ cao của tháp, cũng như kiến trúc tráng 
                lệ của nó:
 
                - 
                
                "Trấn áp Đông Tây giữ đế đô,
 
                Hiên ngang một tháp đứng trơ vơ, 
                Non sông vững chãi tay trời chống, 
                Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô, 
                Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp, 
                Đến đây những muốn đầu ngòi bút, 
                Chiếm lấy sông xuân làm mực đề thơ..." 
                - 
                
                Những câu như 
 
                - 
                
                "Non sông vững chãi tay trời chống,
 
                Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô". 
                - 
                
                Hay là câu:
 
                - 
                
                "Trấn áp Đông Tây giữ đế đô".
 
                - 
                
                Không những gợi cho chúng ta một ý niệm về quy mô của tháp, mà 
                cả về vị trí, vai trò của đạo Phật như là một Quốc giáo, bảo vệ 
                quốc gia và dân tộc. 
 
                - 
                
                Chừng nào mà những tư tưởng cơ bản của giáo lý đạo Phật như lòng 
                từ, lòng bi, hạnh trí tuệ, hạnh hiếu sinh và hiếu hòa, hạnh vô 
                ngã vị tha vẫn còn là những yếu tố cấu thành khắng khít của 
                truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, chừng nào mà đạo Phật 
                Việt Nam còn hòa quyện với dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam 
                như là nước với sữa, thì đạo Phật cũng sẽ tồn tại vĩnh cửu như 
                là dân tộc Việt Nam vậy.
 
                - 
                
                Câu thơ của Phạm Sư Mạnh:
 
                - 
                
                "Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp".
 
                - 
                
                Cho thấy tháp Báo Thiên có mắc nhiều chuông nhỏ, mỗi lần có gió 
                thoảng qua là có tiếng chuông reo, như là tiếng nhạc Trời. Kiểu 
                trang trí chuông nhỏ như thế này không còn thấy ở các chùa Việt 
                Nam hiện nay nữa, nhưng chắc là có phổ biến ở các chùa đời Lý, 
                và có thể là một kiểu trang trí du nhập từ Ấn Độ. Khi qua Ulan 
                Ude, thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa tự trị Bouriate 
                (Thuộc Liên Xô cũ) tôi thấy các chùa lớn ở đây đều có trang trí 
                chuông nhỏ như vậy trên các tháp chùa màu vàng óng ánh rất đẹp, 
                và mỗi lần có làn gió thổi qua, dù là nhẹ, chúng ta lại nghe 
                tiếng chuông reo không khác gì nhạc Trời.
 
                - 
                
                Dân gian có câu:
 
                - 
                
                Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt.
 
                - 
                
                Phong cảnh Bụt là phong cảnh đẹp, nhưng không chỉ đẹp mà còn có 
                chùa, có Tăng Ni, có tiếng chuông mõ tụng kinh, thập phương tín 
                đồ dập dìu cho nên gọi là phong cảnh Bụt chăng? Hay là phong 
                cảnh Bụt chỉ cho một phong cảnh đẹp một cách siêu thoát, xa trần 
                tục. 
 
                - 
                
                Nhưng có điều chắc là ở nước ta, đặc biệt là ở miền Bắc việt 
                Nam, những nơi nào là cảnh đẹp đều có chùa. Chùa hòa mình vào 
                thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm đẹp một vẻ đẹp sinh động 
                nhưng vẫn siêu thoát. Hợp từ danh lam thắng cảnh, rất thông dụng 
                ở Việt Nam hiện nay thấy nơi nào đã là thắng cảnh là có danh 
                lam, tức là chùa danh tiếng. Tất nhiên, lập chùa trước hết là do 
                nhu cầu tín ngưỡng của dân chúng, cho nên ở Việt 
                
                Nam 
                có nhiều chùa làng, chùa chợ, chùa ở đô thị v.v... Chùa 
                Việt Nam không những hòa mình vào thiên nhiên, mà còn hòa mình 
                vào dân chúng dân tộc. Vì chùa dựng lên là để đáp ứng nhu cầu 
                tín ngưỡng của dân chúng, cho nên, chỉ trừ một vài ngoại lệ hiếm 
                có, còn thì các chùa đều do dân chúng góp công góp của mà lập 
                thành. Vị Tăng sĩ trụ trì thường chỉ đóng vai trò hóa quyên và 
                điều khiển việc tôn tạo. Bởi lẽ, người dân Việt Nam tin rằng xây 
                chùa, ấn tống kinh sách Phật là một công đức lớn, đồng thời chùa 
                đối với họ là trung tâm của cuộc sống tâm linh, mà họ rất xem 
                trọng hơn cả cuộc sống vật chất của họ nữa. Đó là lý do chùa trở 
                thành một cảnh quan kiến trúc phổ biến ở nước ta, rất tiêu biểu 
                cho đất nước và dân tộc ta. Hai câu thơ dân dã:
 
                - 
                
                Mái chùa che chở hồn dân tộc,
 
                Nếp sống muôn đời của tổ tông. 
                - 
                
                Đủ nói lên vì sao người dân Việt Nam yêu quý và coi trọng chùa 
                chiền. Thái độ của người dân Việt Nam, ngay những Nho sĩ kích 
                bác đạo Phật nặng nề nhất cũng bắt buộc phải thừa nhận. Nho gia 
                Lê Quát viết trên văn bia chùa Thiên Phúc ở Bắc Giang như sau:
 
                - 
                
                "Học Phật lấy điều họa phước làm động lòng người, sao mà sâu xa 
                bền chắc đến thế. Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm 
                cái gì thuộc về việc Phật, tuy đem hết gia tài cũng không tiếc. 
                Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ 
                như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận được 
                số tiền trả báo lại. Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến châu 
                phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến mà theo, chẳng thể mà tin, 
                hễ chỗ nào có nhà người ở thì có chùa Phật. Bỏ đi thì làm lại, 
                hư đi thì sửa lại. Lâu đài chuông trống cũng bằng phân nửa nhà 
                thiên hạ ở..."
 
                - 
                
                Tôi cho rằng, cho đến nay, chưa có một bài văn bia nào nói lên 
                được một cách sinh động hơn tính phổ cập của tín ngưỡng Phật 
                giáo trong nhân dân Việt Nam bằng bài văn bia của Lê Quát, một 
                Nho sĩ không tán thành Phật giáo và kích bác Phật giáo. Tất 
                nhiên, ngày nay Phật giáo không còn có vị trí quốc giáo như dưới 
                hai đời Lý và Trần nữa. Nhưng cái hạt giống tin Phật, thờ Phật, 
                trân trọng Tam Bảo từ lâu đã nảy mầm, có gốc rễ sâu bên trong 
                lòng người dân Việt Nam.
 
                - 
                
                Như quý vị đều biết, một số chùa cổ ở miền Bắc như chùa Một Cột, 
                chùa Vĩnh Nghiêm đã được xây lại mới, ở trong Nam, như chùa Nhất 
                Trụ (Một Cột) ở Thủ Đức, chùa Vĩnh Nghiêm ở giữa trung tâm Thành 
                phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chùa Vĩnh Nghiêm ở Hà Bắc vốn xây dựng 
                từ thời nhà Lý, về sau trở thành một Tổ đình lớn của phái Trúc 
                Lâm Yên Tử dưới đời nhà Trần. 
 
                - 
                
                Khách hành hương từ Hà Nội lên Yên Tử thường dừng chân ở chùa 
                Vĩnh Nghiêm. Từ khi Pháp Loa, vị Tổ thứ hai của phái Thiền Trúc 
                Lâm đến trụ trì chùa, thì chùa Vĩnh Nghiêm trở thành một trung 
                tâm Phật giáo danh tiếng của Giáo hội Trúc Lâm. Từ đây và ở đây, 
                Tôn giả Pháp Loa đã có những quyết định quan trọng chấn chỉnh 
                Tăng đoàn, như ba năm một lần tổ chức sát hạch Tăng sĩ, người 
                tuy đã thụ giới nhưng tỏ ra không đủ tư cách và học vấn đều 
                không được cấp lại độ điệp, tức một loại chứng minh thư của Tăng 
                sĩ thời bấy giờ. Chính Huyền Quang, sau này trở thành vị Tổ thứ 
                ba của Thiền phái Trúc Lâm, khi còn là Trạng nguyên và làm quan, 
                đã từng theo vua Trần Nhân Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp 
                Loa thuyết pháp, được giác ngộ và xin phép vua cho từ quan xuất 
                gia. Trong dân gian có câu: 
 
                - 
                
                "Ai qua Yên Tử Quỳnh Lâm,
 
                Vĩnh Nghiêm chưa tới, Thiền tâm chưa đành". 
                - 
                
                Bản thân tôi đã từng được đến viếng ngôi chùa cổ này, được chiêm 
                ngưỡng tượng ba vị Tổ của phái Thiền Trúc Lâm, được nhìn nhiều 
                bức chạm gỗ rất có giá trị nghệ thuật, cũng như nhiều bản khắc 
                các bộ kinh Đại thừa quan trọng, như kinh Hoa Nghiêm v.v...
                đều là những bảo vật của chùa.
 
                - 
                
                Chính Trúc Lâm đệ tam Tổ Huyền Quang cũng đã có thơ vịnh chùa 
                Diên Hựu tức chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột, một kiến trúc độc 
                đáo của Phật giáo đất Thăng Long. Thiền sư thi sĩ đã tả cảnh 
                chùa dưới trăng thu, trên hồ lạnh, giữa tiếng chuông ngân. Chùa 
                Vĩnh Nghiêm cũng như chùa Nhất Trụ tại Thành phố Hồ Chí Minh nổi 
                tiếng vì kiến trúc đặc biệt của nó, và cũng nổi tiếng vì kế thừa 
                nét kiến trúc, Thiền vị và tên gọi của hai danh lam cổ tự tại 
                Thăng Long.
 
                - 
                
                Nói đến các chùa cổ ở miền Bắc, không thể nào không nhắc tới cụm 
                chùa trên núi Yên Tử.
 
                - 
                
                Tôi có đọc bài giới thiệu cụm chùa núi Yên Tử của cụ Hoàng Xuân 
                Hãn, đăng trong Tập San Khoa Học Xã Hội số 5 năm 1978, do Hội 
                Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp xuất bản. Sau khi giới thiệu 
                khá chi tiết các chùa, am, tháp trên núi Yên Tử, cụ Hoàng Xuân 
                Hãn đặt vấn đề nên có kế hoạch "bảo tồn, tu chỉnh và tái tạo hệ 
                thống kiến trúc và sử học Yên Tử như một cao điểm của văn hóa 
                Việt Nam, cùng các vị trí gần như Côn Sơn, Kiệt Đặc v.v...” Cụ 
                gợi ý là "cùng với vịnh Hạ Long ở kề phía Đông, Yên Tử có thể 
                tạo thành mội hệ thống du quan quốc tế và quốc nội".
 
                - 
                
                Cụm chùa Yên Tử là biểu trưng sinh động của phái Thiền Trúc Lâm 
                Yên Tử do vua Trần Nhân Tông thành lập và làm sơ Tổ. Còn các 
                phái Thiền trước đó đều do những người ngoại quốc hoặc Ấn Độ hay 
                Trung Hoa thành lập và làm sơ Tổ. Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, 
                với vua Trần Nhân Tông không những đã kế thừa, và tiếp thu có 
                chọn lọc sáng tạo tất cả những gì tinh hoa nhất, tích cực nhất 
                của các phái Thiền trước đó, mà còn khéo kết hợp một cách thật 
                sự nhuần nhuyễn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân với nhu cầu 
                chính trị bảo vệ nền độc lập quốc gia và dân tộc. Tôi nghĩ rằng, 
                nếu Trần Nhân Tông và Giáo hội Trúc Lâm không làm tốt được sự 
                kết hợp đó, thì dân tộc chúng ta ắt khó chiến thắng được quân 
                xâm lược Nguyên Mông, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống 
                quân Nguyên Mông lần thứ hai, mà Trần Nhân Tông phải đích thân 
                chỉ đạo. Tư tưởng chủ đạo của Thiền đời Trần sớm đã do Quốc sư 
                Trúc Lâm nói với vua Trần Nhân Tông, khi vua Thái Tông lên núi 
                Yên Tử, muốn xuất gia cầu Phật.
 
                - 
                
                "Sơn bổn vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh 
                chân Phật". Nghĩa là "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có ở 
                trong tâm. Tâm lặng mà biết, đó là Phật thật". Nói cách khác, 
                hãy tu tập tâm, rèn luyện tâm để tâm trở thành vắng lặng, sáng 
                suốt thì sẽ thành Phật, chứ không nhọc cầu ở đâu bên ngoài, dù 
                là ở trên núi, trong chùa hay là trong kinh sách. Chùa hay kinh 
                sách chỉ là phương tiện dẫn tới Phật, chứ không phải là Phật 
                thật. Phật thật chính là lòng mình, được làm cho vắng lặng và 
                sáng suốt. Muốn cho lòng được vắng lặng và sáng suốt, thì phải 
                sống nếp sống đạo đức Phật giáo, giữ năm giới, mười thiện, thấy 
                vị ngọt nhưng cũng thấy mối nguy của các dục vọng, sống luôn 
                chánh niệm tỉnh giác, sống giữa đời mà không lụy với đời, giữa 
                thanh sắc mà không vướng mắc thanh sắc, đúng như trong kinh Kim 
                Cang nói:
 
                - 
                
                "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
 
                - 
                
                Nghĩa là tâm của người ngộ đạo không trụ, không chấp trước, 
                không vướng mắc vào thanh sắc, vào ngoại trần, nhờ đó mà được 
                hoàn toàn tự do, tự tại, thật sự giải thoát, đạt tới sự vắng 
                lặng sáng suốt của bậc Thánh. Tâm vắng lặng sáng suốt, đó là bí 
                yếu nên sức mạnh của Phật giáo đời Trần, sức mạnh của dân tộc ta 
                dưới đời Trần.
 
                - 
                
                Phật giáo đời Trần tạo cho người hiểu đạo sức mạnh của nội tâm, 
                là sức mạnh thật sự. Đó là sức mạnh của Trần Thái Tông, khi ông 
                tuyên bố có thể rời bỏ ngai vàng lúc nào cũng được, như bỏ chiếc 
                giày rách. Đó là sức mạnh của Trần Bình Trọng, khi ông thét vào 
                mặt quân Nguyên, muốn dụ dỗ mua chuộc ông: "Thà làm ma phương 
                Nam, không thèm làm vương phương Bắc", là sức mạnh của Phạm Ngũ 
                Lão ngồi đan sọt giữa đường, quân lính của Trần Hưng Đạo thọc 
                dáo vào đùi, vẫn ngồi yên không đứng dậy v.v... Sức mạnh 
                Phật giáo đời Trần còn ở chỗ đó là Phật giáo không phải riêng 
                của Tăng lữ, mà là của mọi người. Trong cuốn Khóa Hư Lục, Trần 
                Thái Tông viết: 
 
                - 
                
                "Mạc vấn đại ẩn, tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu 
                Tăng tục, chỉ yếu biện tâm ..."
 
                - 
                
                Ý tứ là: Không thể là ẩn dật lớn hay ẩn dật nhỏ, không kể là 
                xuất gia hay tại gia, không kể là Tăng hay tục, chỉ cần biện 
                tâm...
 
                - 
                
                Biện tâm, theo Trần Thái Tông là tu tập tâm, tìm hiểu tâm, rèn 
                luyện tâm, từ tâm mê mờ biến thành tâm sáng suốt, từ tâm hướng 
                tà biến thành tâm hướng thiện, từ tâm tán loạn biến thành tâm 
                định tĩnh. Người nào biết biện tâm như vậy, tức là người đó sẽ 
                là bậc Thánh trong đạo Phật, dù có tu ở trong chùa (ẩn dật nhỏ), 
                hay là sống ngoài đời (ẩn dật lớn). Một đạo Phật hướng nội, biện 
                tâm, một đạo Phật của mọi người ... đó chính là sức mạnh của đạo 
                Phật đời Trần, của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, là những giá trị 
                tinh thần bất hủ, là vũ khí giúp dân tộc ta ba lần chiến thắng 
                quân xâm lược Nguyên Mông, đã từng làm mưa làm gió trên một nửa 
                phần Châu Á và Châu Âu, thời bấy giờ.
 
                - 
                
                Trong bài thơ vịnh Yên Tử, nhà Nho Phạm Sư Mạnh, tuy không có 
                cảm tình với Phật giáo, vẫn thốt lên những câu xác nhận mối quan 
                hệ giữa Yên Tử và cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông dưới đời 
                Trần:
 
                - 
                
                "Nhớ xưa Trần Trung Hưng,
 
                Khéo xoay vần trời đất, 
                Ngàn chiến thuyền mặt nước, 
                Ngàn cờ tinh đầu non, 
                Trở tay vựng xã tắc, 
                Hôi tanh sạch giang sơn, 
                Đến này dân bốn bể 
                Lâu dài ghi thắng Nguyên ..." 
                - 
                
                Viện Nghiên cứu Phật học Việt 
                
                Nam 
                (Ban Phật giáo Việt 
                
                Nam) 
                vừa rồi có nhận được từ ngoài Bắc hai tài liệu đáng quý về Trần 
                Nhân Tông:
 
                - 
                
                Một là một số bức ảnh về chùa Minh Khánh, nơi Trần Nhân Tông lui 
                tới nhiều lần, và có để lại một huyết thư và chín viên ngọc 
                Xá-lợi. Theo sử liệu, thì sau khi Pháp Loa tổ chức hỏa táng, 
                Xá-lợi của Trần Nhân Tông được chia làm ba phần: một phần để ở 
                tháp Huệ Quang trên Yên Tử, một phần để ở tháp Phổ Minh, tại 
                làng Tức Mặc, quê hương nhà Trần, và một phần thứ ba để tại Đức 
                Lăng, hiện không rõ ở đâu. Phải chăng Đức Lăng chính là xã Thanh 
                Bình, huyện Nam Thanh (Hải Hưng), nơi có chùa Minh Khánh, nơi 
                nhân dân đã phát hiện ra Xá-lợi của Trần Nhân Tông, bốn đạo sắc 
                của nhà Hậu Lê, nói về bức huyết thư của Trần Nhân Tông để lại 
                chùa. Do đó, chùa đã được Bộ Văn hóa phát bằng công nhận là Di 
                tích Lịch sử có ý nghĩa quốc gia. Tôi có đem theo đây ba bức ảnh 
                về cảnh chùa, do Ban Trùng tu chùa gởi cho thầy Mạn Đà La, tôi 
                cũng xin phép giới thiệu cho quý vị xem. Cửa chùa gọi là Trúc 
                Lâm môn (cửa Trúc Lâm). Câu đối hai bên cửa chùa.
 
                - 
                
                "Minh Khánh thiên thu Nhân miếu phụng,
 
                Thanh Bình vạn cổ huyết thư hương". 
                - 
                
                Có nhắc tới Trần Nhân Tông và bức huyết thư của ngài. Thanh Bình 
                là tên xã và Minh Khánh là tên chùa. Hiện nay Ban trùng tu chùa 
                Minh Khánh đang tổ chức tu bổ lại chùa, dựng lại tam quan và 
                soạn một cuốn sách nhỏ "Vua Trần Nhân Tông và chùa Minh Khánh" 
                nhằm giới thiệu chùa, kêu gọi sự đóng góp của đồng bào Phật tử 
                trong nước và hải ngoại để cho công việc trùng tu chùa được hoàn 
                thành nhanh chóng.
 
                - 
                
                Tài liệu thứ hai mà Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhận được 
                là Viện Hán Nôm, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Một bản 
                thảo sưu tập mang đầu đề “Chùa cổ Việt Nam" với gần 500 mục từ, 
                sắp xếp theo vần ABC, dựa vào xử lý, tổng hợp 150 thư tịch thuộc 
                loại tài liệu cơ bản. Hiện chúng tôi đã giao cho Ban Phật giáo 
                Việt Nam, thuộc Viện chúng tôi đọc và nhận xét về giá trị khoa 
                học của bản thảo.
 
                - 
                
                Tôi hy vọng Thiền viện Trúc Lâm, dưới sự hướng dẫn của Thượng 
                tọa Thích Thiện Châu và sự cộng tác của quý vị, của đông đảo các 
                nhà Phật học Việt kiều tại Pháp, sẽ trở thành một trung tâm Phật 
                học có tầm cỡ quốc tế sẽ nghiên cứu theo chiều sâu và giải quyết 
                nhiều vấn đề mà giới Phật học quốc tế đang quan tâm. 
                
 
                - 
                
                Và, với tư cách Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 
                tôi xin chính thức đặt vấn đề phối hợp công tác nghiên cứu giữa 
                Thiền viện Trúc Lâm của quý vị và Viện Nghiên cứu Phật học Việt 
                Nam, nhằm nghiên cứu và làm sáng tỏ một loạt vấn đề Phật học 
                Việt Nam và quốc tế. Hình thức hợp tác có thể là trao đổi các 
                công trình, tài liệu nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu chung một số 
                vấn đề Phật học Việt 
                
                Nam 
                và quốc tế. Thí dụ một số vấn đề mà hiện nay Phật giáo Việt Nam 
                và Ban Phật giáo chuyên môn, trực thuộc Viện chúng tôi đang 
                nghiên cứu và đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, như 
                "Những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam” (khác với Phật giáo 
                Trung Hoa), “Thiền học của Trần Thái Tông”, “Phái Thiền Trúc Lâm 
                Yên Tử", "Phân kỳ và phân phái trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ”, 
                “Đạo đức Phật giáo”, “Giáo dục Phật giáo”, “Thiền Việt Nam” 
                v.v... 
 
                - 
                
                Vì Thiền viện Trúc Lâm tọa lạc gần thành phố Paris có được nguồn 
                thông tin cập nhật và phong phú. Viện Nghiên cứu Phật học Việt 
                Nam rất mong được Thiền viện Trúc Lâm cung cấp kịp thời và đầy 
                đủ những tư liệu thông tin đó.
 
                - 
                
                Để kết thúc bài nói chuyện của tôi, tôi xin thành tâm cầu chúc 
                cho Thiền viện Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý 
                vị sẽ đóng vai trò xứng đáng như là biểu trưng sinh động cho nền 
                Phật giáo của dân tộc tại hải ngoại, tại nước Pháp, ở đây có 
                đông đảo Phật tử Việt kiều, thường xuyên hướng về Tổ quốc thân 
                yêu, và Phật giáo nước nhà. 
 
               
             
           
            
           
                --o0o--
                 
              
              
            
             | 
   
           
               
       
       |